Goodwill có dduocj đánh giá lên ko năm 2024
Lợi thế thương mại (goodwill) là khái niệm ám chỉ sự khác biệt tại một thời điểm nào đó giữa giá trị thị trường của một công ty và tổng giá trị sổ sách của tài sản ròng mà nó nắm giữ. Nếu một công ty khác muốn mua công ty này, thì lợi thế thương mại chính là khoản mà người mua phải trả thêm ngoài giá trị tài sản của nó, do chỗ nó có các mối quan hệ thương mại, danh tiếng, kỹ năng quản lý và công nghệ đặc biệt. Khi một công ty có tiếng xấu thì giá trị thị trường của nó đối với người muốn mua công ty có thể nhỏ hơn giá trị sổ sách ghi trong bảng tổng kết tài sản. Trong trường hợp đó, lợi thế thương mại bị coi là âm. (Tài liệu tham khảo: Nguyễn Văn Ngọc, Từ điển Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân) Định giá lợi thế thương mạiLợi thế thương mại rất khó để định giá, nhưng nó đóng góp đáng kể vào giá trị và thành công của công ty. Ví dụ, một công ty như Coca-Cola đã tồn tại trong nhiều thập kỷ, tạo ra một sản phẩm cực kỳ phổ biến dựa trên một công thức bí mật và thường được công chúng nhận thức, sẽ có rất nhiều lợi thế thương mại. Một đối thủ cạnh tranh, một công ty soda nhỏ trong khu vực mới chỉ kinh doanh được 5 năm, có một cơ sở khách hàng nhỏ, chuyên về soda có hương vị bất thường và gần đây phải đối mặt với vụ bê bối về sự nhiễm khuẩn của soda nên sẽ có lợi thế thương mại giảm đi, thậm chí có thể bị âm. Lợi thế thương mại âm xảy ra khi một người thâu tóm mua một công ty với giá trị thấp hơn giá thị trường . Điều này thường xảy ra khi công ty mục tiêu không thể hoặc sẽ không thương lượng một mức giá hợp lý cho việc mua lại nó. Lợi thế thương mại âm thường được được ghi nhận là thu nhập trên bảng cân đối của người thâu tóm. Bởi vì các thành phần tạo nên lợi thế thương mại có giá trị chủ quan, do đó có một rủi ro đáng kể là một công ty có thể đánh giá cao lợi thế thương mại trong việc mua lại. Việc định giá quá cao này sẽ là tin xấu cho các cổ đông của công ty mua lại, vì họ có thể sẽ thấy giá trị cổ phiếu của họ giảm khi công ty sau đó phải giảm giá trị lợi thế thương mại. Trong thực tế, điều này đã xảy ra trong vụ sáp nhập AOL-Time Warner năm 2001. Trên thế giới, “Lợi thế thương mại” (Goodwill) phát sinh từ việc mua, hợp nhất doanh nghiệp xuất hiện từ rất sớm. Trong quá trình phát triển của kế toán, đã có nhiều phương pháp hạch toán, xử lý lợi thế thương mại khác nhau. Từ chuẩn mực kế toán quốc tế IAS 22 (1993), đến IAS 22 (1998), rồi đến IFRS 3 (2004) xem lợi thế thương mại (Goodwill) là phần chênh lệch giữa giá mua đã thanh toán cho việc mua doanh nghiệp trên giá trị hợp lý của tài sản thuần nhận được từ hoạt động mua doanh nghiệp đó. Trong đó, IAS đã đưa ra các phương pháp xử lý lợi thế thương mại rất rõ ràng và cụ thể ứng với từng giai đoạn phát triển. Ở Việt Nam, khái niệm “Lợi thế thương mại” (LTTM) xuất hiện lần đầu trong Hệ thống kế toán doanh nghiệp được ban hành theo Quyết định 1141 TC/QĐ/CĐKT ngày 1/11/1995, sau đó lại được đề cập đến trong Quyết định 166/QĐ-BTC ngày 30/12/1999. Cụ thể như sau:
Theo chuẩn mực này, các tài sản vô hình trong quá trình sáp nhập có tính chất mua lại nếu không thoả mãn định nghĩa và tiêu chuẩn ghi nhận là TSCĐ vô hình sẽ trở thành lợi thế thương mại nhưng không quy định các ghi nhận và xử lý LTTM như thế nào.
Theo chuẩn mực này, LTTM được phát sinh trong quá trình hợp nhất kinh doanh thể hiện khoản thanh toán của bên mua cho những lợi ích kinh tế thu được trong tương lai từ những tài sản không đủ tiêu chuẩn ghi nhận và không xác định được một cách riêng biệt.
vTương ứng với mỗi giai đoạn phát triển sẽ có những phương pháp hạch toán khác nhau. Cụ thể như sau:
Việc Lợi thế thương mại được nhắc đến nhiều đã khẳng định vị trí quan trọng của nó. Nhưng các quy định hiện nay ở Việt Nam vẫn chưa phản ánh đầy đủ và chưa xử lý đúng mức đối với Lợi thế thương mại phát sinh từ việc mua doanh nghiệp. Qua đó, cho thấy có sự khác biệt về cách xử lý Lợi thế thương mại giữa Việt Nam và Thế giới, vấn đề đặt ra cho chúng ta là nên chọn cách làm nào hợp lý nhất với điều kiện ở Việt Nam hiện nay. vLợi thế thương mại âm (Negative Goodwill)
Tuy nhiên, cách xử lý Lợi thế thương mại như trên liệu có hợp lý với tình hình Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh thế giới hay không?. Vì cho đến nay, chuẩn mực kế toán quốc tế đã hai lần sửa đổi về cách xừ lý vấn đề này thể hiện ở IAS 22 (1998) và IFRS 3 (2004).
Để hoàn thiện hơn về phương pháp hạch toán cũng như trình bày báo cáo tài chính khoản “Lợi thế thương mại” ở Việt Nam trong thời gian tới, tác giả xin đưa ra một vài kiến nghị sau:
Hy vọng rằng, với những kiến nghị trên thì “Lợi thế thương mại” phát sinh trong quá trình mua bán, hợp nhất doanh nghiệp ở việt Nam trong thời gian tới sẽ được ghi nhận và phản ánh trên Báo cáo tài chính của doanh nghiệp một cách trung thực và hợp lý hơn đáp ứng theo yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế thế giới. |