Hướng dẫn dùng programing php trong PHP
Trong phần chơi mã PHP trong ứng dụng chuyên nghiệp, bạn có thể tải xuống phần mềm PHP Code Play và cài đặt nó trên PC Windows. PHP Code Play là một ứng dụng Giáo dục miễn phí. Phiên bản mới nhất của PHP Code Play là 1.9. Nói chung, hầu hết các ứng dụng hàng đầu trên Android Store đều có xếp hạng. Trong ứng dụng PHP Code Play này, chúng ta có thể học về PHP. Ngoài ra, chúng tôi tập trung vào hầu hết các phiên bản PHP như phiên bản PHP 5 PHP 7.2 PHP 7. Show
Ứng dụng chơi mã PHP này có một trình biên dịch PHP xây dựng hoặc trình chạy mã PHP, vì vậy có thể chạy hầu hết các mã PHP và hiển thị đầu ra của nó giống như đầu ra của trình duyệt PHP thực. Mã PHP đã cho của bạn được chuyển đổi từ mã PHP chuyển đổi sang mã HTML. PHP Code Play hỗ trợ phát triển PHP dễ học và cơ sở dữ liệu PHP, đây là trình soạn thảo PHP tốt nhất cho android hoặc PHP cho ứng dụng Android, cũng giống như một cuốn sách không có PHP. Ứng dụng này giống như một hướng dẫn PHP di động. Sau khi tạo mã PHP, bạn có thể xuất bản mã đó lên máy chủ lưu trữ bằng cách sử dụng nhà cung cấp dịch vụ lưu trữ như GoDaddy hoặc nhà cung cấp dịch vụ lưu trữ khác. Điều này không chỉ hỗ trợ PHP mà còn hỗ trợ 100% cho HTML, vì vậy chúng ta có thể gọi là trình soạn thảo HTML PHP. Chúng tôi có rất nhiều câu hỏi và câu trả lời phỏng vấn PHP vì vậy bằng cách tham khảo ứng dụng chơi mã PHP này, bạn có thể nhận được các công việc PHP dễ dàng hơn. Sử dụng mã PHP, bạn có thể thực hiện trò chuyện trực tiếp PHP. Đây là ứng dụng di động PHP tốt nhất, ghi chú PHP và sổ ghi chú PHP. Điều này hoạt động mà không cần bất kỳ kết nối internet, tất cả nội dung là hướng dẫn ngoại tuyến PHP. PHP Quiz Câu hỏi và câu trả lời phỏng vấn PHP dành cho người có kinh nghiệm và người mới học. Toàn bộ các khái niệm trong PHP có ví dụ rất dễ học ở đây. Vì vậy, đây là ứng dụng học PHP tốt nhất. Ví dụ: ứng dụng lập trình PHP này chứa nhiều chương trình PHP, điều này giúp bạn thiết kế web PHP. Ứng dụng “Học PHP” giúp việc học mã của bạn trở nên thú vị cho dù bạn đang muốn tìm hiểu kiến thức cơ bản hay trở thành một lập trình viên chuyên nghiệp. Dưới đây là các tính năng khiến chúng tôi trở thành lựa chọn duy nhất của bạn để học ngôn ngữ lập trình PHP - Xây dựng các kỹ năng PHP của bạn khi đang di chuyển với ứng dụng miễn phí tuyệt vời này để học Lập trình PHP. Trở thành một chuyên gia lập trình PHP bằng cách học ngôn ngữ mã hóa PHP. Học PHP là một ứng dụng phải có cho tất cả những người học mã hóa hoặc sinh viên khoa học máy tính để học ngôn ngữ lập trình PHP bất cứ khi nào họ muốn và bất cứ nơi nào họ muốn. Cho dù bạn chuẩn bị cho một cuộc phỏng vấn PHP hoặc bất kỳ kỳ thi nào đòi hỏi kiến thức lập trình PHP, bạn có thể tìm thấy nội dung tuyệt vời trên ứng dụng học lập trình này. Ứng dụng Học lập trình PHP tuyệt vời này có nội dung tuyệt vời như Hướng dẫn lập trình PHP, Bài học lập trình PHP, Chương trình, Câu hỏi & Trả lời và tất cả những gì bạn cần để học cơ bản về lập trình PHP hoặc để trở thành chuyên gia lập trình PHP. Với một bộ sưu tập tuyệt vời các Chương trình PHP (ví dụ mã) với các bình luận, nhiều câu hỏi và câu trả lời, tất cả các nhu cầu học lập trình của bạn được gói trong một ứng dụng học mã duy nhất. ****** / TÌM HIỂU Collection Bộ sưu tập các hướng dẫn PHP tốt nhất Ứng dụng Tìm hiểu PHP PHP có giao diện người dùng thực sự đơn giản và trực quan. Đây là ứng dụng tốt nhất để cho phép bạn học ngôn ngữ lập trình PHP miễn phí. Bạn đang chờ đợi điều gì? Tải xuống ứng dụng ngay bây giờ để trở thành một Lập trình viên PHP. Nếu bạn có bất kỳ phản hồi nào cho chúng tôi, vui lòng viết email cho chúng tôi và chúng tôi sẽ sẵn lòng giúp bạn. Nếu bạn đã thích bất kỳ tính năng nào của ứng dụng này, vui lòng đánh giá chúng tôi trên cửa hàng chơi và chia sẻ với những người bạn khác. Gần đây, khái niệm lập trình hàm (functional programming) trở nên hết sức phổ biến, cùng với nó là sự đi lên của ngôn ngữ lập trình hàm Scala và Haskell. Xuất thân là một lập trình viên PHP, tôi được khuyên nên học một ngôn ngữ lập trình hàm kiểu như Scala, qua đó mở rộng tầm hiểu biết và có thể quay trở lại viết code PHP sáng sủa hơn. Sau một thời gian tìm hiểu Scala, tôi đã lơ mơ hiểu được đôi chút về Scala cũng như Functional programming. Và tôi cũng thấy rằng, nếu muốn, PHP cũng có thể thực hiện được functional programming, đặc biệt là khi closure đang được sử dụng rất phổ biến. Bài viết này tôi tìm hiểu và dịch từ nguồn code.tutplus, rất mong có thể giúp các lập trình viên PHP có cái nhìn cơ bản về functional programming. Trong tương lai, tôi sẽ viết bài phân tích ngôn ngữ Scala để bạn đọc thấy nó hỗ trợ Functional Programming tuyệt vời thế nào. Functional Programming in PHPTrong giới lập trình, khái niệm functional programming đang trở nên vô cùng hấp dẫn và được nhiều người tìm hiểu. Ngôn ngữ lập trình hàm (functional languages) cũng được sử dụng nhiều hơn và tốt hơn trong các ứng dụng. Scala, Haskell,... đang cực kỳ phát triển. Những ngôn ngữ lâu đời như Java cũng bắt đầu chấp nhận các đặc trưng của functional programming (ví dụ closure trong Java 7 là lazy eval cho lists trong Java 8). Tuy nhiên, điều mà ít người biết, là PHP thực sự rất linh hoạt khi chuyển sang functional programming. Hầu hết các đặc trưng chính của functional programming có thể mổ tả được ở PHP. Do vậy, nếu bạn là một người mới biết đến khái niệm này, hãy cố gắng mở rộng suy nghĩ. Và nếu bạn là người đã quen với functional programming, chắc chắn bạn sẽ thấy nhiều điều thú vị trong bài viết này. Mô hình lập trình (Programming Paradigms)Nếu không có các mô hình lập trình, chúng ta có thể làm mọi việc chúng ta muốn theo bất cứ cách nào. Mặc dù điều đó có vẻ rất linh hoạt, nhưng nó có thể đưa chúng ta đến những kiến trúc vô lý và những dòng code không rõ ràng. Do vậy, mô hình lập trình được sinh ra để giúp chúng ta, lập trình viên, giúp nghĩ ra cách giải quyết cụ thể cho một vấn đề cụ thể, và bằng cách đó, sẽ giới hạn khả năng của chúng ta khi mô tả lời giải cho vấn đề đó. Mỗi mô hình lập trình lại lấy đi 1 chút tự do của chúng ta:
Nguyên lý của functional programming
Trong functional programming, mọi thứ đều là hàm (function). Ý tôi là tất cả. Ví dụ một tập hợp, như trong toán học, có thể biển diễn bởi nhiều hàm. Một mảng hoặc danh sách cũng có thể biểu diễn bởi một hàm hoặc một nhóm các hàm. Trong lập trình hướng đối tượng, mọi thứ đều là đối tượng (object). Và một object là một tập các dữ liệu, hàm thực hiện hành động với dữ liệu đó. Object có trạng thái có thể thay đổi. Trong functional programming, bạn không có dữ liệu biểu diễn bởi biến số. Không có khối nào chứa dữ liệu. Dữ liệu không được gán cho biến. Một vài dữ liệu có thể được định nghĩa hoặc được gán. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, hàm số được gán cho "biến"(variables). Tôi đặt "biến" trong dấu ngoặc kép, bởi trong functional programming, chúng không thể thay đổi. Mặc dù hầu hết ngôn ngữ lập trình hàm không bắt buộc việc không thay đổi, cũng như không phải cứ lập trình hướng đối tượng là bắt buộc phải dùng object, nhưng nếu bạn thay đổi giá trị sau khi chỉ định giá trị ban đầu, bạn không còn giữ được vẻ trong sáng của functional programming. Bởi bạn không có giá trị được đặt ở biến, trong functional programming, không có cái gọi là trạng thái. Bởi vì không có trạng thái, không có việc gán giá trị, nên hàm trong functional programming không gây ra tác dụng phụ. Vì ba lý do trên, hàm ở đây luôn có thể dự đoán được. Điều đó có nghĩa là, nếu bạn gọi một hàm với cùng một tham số truyền vào, gọi đi gọi lại,... bạn luôn nhận được cùng một kết quả. Đây thực sự là một lợi thế tuyệt vời hơn hẳn lập trình hướng đối tượng, và rất hiệu quả trong việc giảm độ phức tạp của lập trình đa luồng hay các ứng dụng lớn chạy đa luồng. Tuy nhiên, nếu chúng ta muốn mô tả mọi thử bởi hàm, chúng ta cần truyền chúng dưới dạng tham số hay trả về chúng từ một hàm khác. Do vậy, functional programming yêu cầu việc ỗ trợ hàm ở mức cao (high-order functions). Về cơ bản, điều này có nghĩa là hàm có thể được gán như "biến", được truyền vào như tham số của hàm khác, và được trả về như kết quả của một hàm. Cuối cùng, vì chúng ta không có giá trị trong biến, các vòng lặp while và for sẽ trở nên hiếm thấy trong lập trình hàm, chúng được thay thế bởi đệ quy. Cho tôi xem code!Nói lý thuyết như vậy là đủ rồi, giờ chúng ta sẽ code! Tạo một project PHP bằng IDE hoặc Editor yêu thích của bạn. Tạo một thư mục 3. Tạo 2 files: 4 và 5 trong thư mục đó. Chúng ta sẽ tạo ra một ứng dụng, với chức năng kiểm thử, để mô tả khái đặc điểm tập hợp (sets).
Về cơ bản, điều đó có nghĩa sets là một tập những thứ được đặt tại một nơi. Những tập hợp này có thể và được xác định thuộc tính thông qua các phép toán: hợp, giao, sai phân,... Và thông qua các thuộc tính mang tính chất hành động, kiểu như: bao hàm. Giới hạn của lập trìnhNào, giờ hãy bắt đầu code! Tuy nhiên, đợi một chút. Bằng cách nào? Để bảo vệ quan điểm của functional programming, chúng ta sẽ phải đảm bảo những giới hạn sau:
Không có giới hạn với tests. Bởi vì PHPUnit cơ bản, chúng ta sẽ sử dụng lập trình hướng đối tượng thuần tuý. Để điều tiết tests một cách đơn giản, chúng ta sẽ viết tất cả code trong một class. Hàm định nghĩa tập hợpNếu bạn là một lập trình viên có kinh nghiệm, nhưng không quen với functional programming, đây là thời điểm bạn nên dừng suy nghĩ về việc làm mọi thứ như bạn đã từng làm và sẵn sàng thoát khỏi vòng an toàn của bạn. Hãy quên tất cả cách tiếp cận trước đây với vấn đề và tưởng tượng tất cả là hàm. Hàm định nghĩa của tập hợp là phương thức bao gồm - contains.
OK. Có vẻ không hiển nhiên lắm. Giờ hãy xem cách chúng ta dùng nó.
Ok, nó giải thích rõ hơn một chút. Hàm 6 có 2 tham số:
Trong trường hợp này, những gì mà 6 làm là sử dụng hàm 7 với tham số là 8. Chúng ta sẽ thực hiện tests.
Và chúng ta viết class 4.
Bạn có thể chạy test này và nó luôn pass. Tập hợp chúng ta định nghĩa ở đây luôn trả về true, đó là một tập hợp đúng "true set". Tập duy nhất - Singleton SetNếu phần trước có đôi chút khó hiểu về logic, ví dụ này sẽ rõ ràng hơn. Chúng ta muốn định nghĩa một tập hợp với một phần tử duy nhất, một tập hợp duy nhất. Nên nhớ rằng đó là một hàm, và chúng ta muốn dùng nó như trong test dưới đây.
Chúng ta cần một hàm gọi là 3 với một tham số mô tả phần tử của tập hợp. Trong test này, đó là một số (1). Sau đó chúng ta hy vọng hàm 6 trả về 5 nếu tham số truyền vào bằng một. Chương trình sau làm cho bài test của chúng ta pass.
Vâng, rất tuyệt vời phải không nào. Hàm 3 nhận tham số truyền vào là một phần tử 8. Sau đó nó trả lại một hàm nhận tham số là 8 và hàm này so sánh 8 với 8.Hãy xem cách chúng hoạt động thế nào. Đầu tiên:
được chuyển thành cái mà 1 trả về:
Sau đó, hàm 2 được gọi. Hàm này dùng để kiểm tra xem phần tử có trong 3 hay không. Code như sau:
Hàm này thực ra kiểm tra xem 8 có giá trị 1 hay không.
Đương nhiên nó đúng và test của chúng ta sẽ pass. Bạn có đang cười? Bạn có thấy tư duy của mình đang thay đổi? Tôi thực sự thấy điều đó khi tôi viết chương trình này với Scala và viết lại với PHP. Tôi thấy nó rất khác biệt. Chúng ta cố gắng tạo ra một tập hợp, với một phần tử, với khả năng kiểm tra xem nó có chứa giá trị ta truyền vào không. Chúng ta làm tất cả điều đó mà không cần gán bất cứ giá trị nào. Chúng ta không có biến chứa giá trị hoặc trạng thái của giá trị. Không trạng thái, không gán giá trị, không thay đổi, không vòng lặp. Chúng ta đang đi đúng hướng. Hợp của tập hợp (Union of Sets)Giờ chúng ta đã tạo một tập với một giá trị duy nhất. Chúng ta cần tạo ra tập với nhiều giá trị. Cách hiển nhiên nhất là định nghĩa phép hợp của tập hợp. Một hợp của hai tập duy nhất sẽ tạo ra một tập với cả 2 giá trị. Tôi muốn bạn nghĩ một chút trước khi xem code, trước tiên là phần test. 0Khi chúng ta gọi hàm 5, nó nhận 2 tham số, cả 2 đều là tập hợp. Nên nhớ rằng set là một hàm, do vậy 5 sẽ nhận hai tham số đều là hàm. Sau đó, chúng ta dùng hàm 6 để kiểm tra xem 5 có chứa phần tử hay không. Do vậy, 5 cần trả về hàm mà 6 có thể sử dụng. 1Hàm này hoạt động tốt. Và nó vẫn hoạt động tốt kể cả khi bạn gọi phép hợp với một kết quả của phép hợp khác và một tập duy nhất. Nó sẽ gọi hàm 6 bên trong chính nó với từng tham số. Nếu nó là một hợp của các tập hợp, nó có thể đệ quy. Rất đơn giản.Giao (Intersect) và Sai phân (Difference)Chúng ta có thể làm tương tự để có được hai hàm quan trọng của tập hợp là giao (các phần tử chung của hai tập hợp) và hàm sai phân (phần tử có ở tập thứ nhất nhưng không có ở tập thứ hai). 2Lọc tập hợpNó khá phức tạp, và chúng ta không thể dễ dàng giải quyết với 1 dòng code. Hàm filter dùng 2 tham số: tập hợp và hàm lọc. Nó sử dụng hàm filter cho tập hợp và trả về một tập hợp chỉ chứa các phần tử thoả màn điều kiện lọc. Để hiểu rõ hơn, chúng ta sẽ test nó. 3Chúng ta tạo ra một tập hợp có 3 phần tử 1, 2, 3. Và đặt nó ở biến 2. Do vậy nó trở nên rất rõ ràng. Chúng ta định nghĩa một hàm chúng ta muốn test và đặt nó là 3. Cuối cùng, chúng ta gọi hàm 4 cho tập 2 với hàm 3 và đặt kết quả ở 7. Sau đó chúng ta test hàm 6 với các phần tử. Hàm lọc khá đơn giản, nó trả về true nếu phần tử lớn hơn 1. Do vậy mục tiêu cuối cùng của chúng ta là tập hợp có 2 phần tử 2 và 3. 4Lặp giữa các phần tửBước tiếp theo là tạo ra hàng loạt hàm lặp. Hàm đầu tiên 9 sẽ nhận tập hợp 7 và điều kiện 3 và trả về true nếu 3 được dùng cho các thành phần của tập hợp. Test sẽ như sau. 5Chúng ta dùng 2 được tạo ra từ hàm test tại đây. Sau đó chúng ta định nghĩa 3 điều kiện khác nhau: lớn hơn 0, lớn hơn 1 và lớn hơn 2. Vì tập hợp của chúng ta bao gồm 1, 2, 3 nên chỉ điều kiện với 0 là trả về true, còn lại trả về false. Do vậy, chúng ta cần vượt qua test với sự giúp đỡ của hàm đệ quy để duyệt tất cả các phần tử. 6Chúng ta bắt đầu bằng việc định nghĩa giới hạn cho tập hợp của chúng ta. Giá trị cần nằm trong khoảng -1000 đến +1000. Đây là một giới hạn chấp nhận được để ví dụ đơn giản. Hàm 4 gọi hàm private 5 với các tham số cần thiết để thực hiện để quy để kiểm tra xem phần tử có thoả mãn điều kiện không. Ở hàm này, đầu tiên chúng ta check xem mình có bị nằm ngoài giới hạn không. Nếu có, trả về true. Tiếp theo, chúng ta kiểm tra xem tập hợp có phần tử này không, nếu có thì sử dụng điều kiện 6 để kiểm tra phần tử hiện tại có thoả mãn điều không và gọi đệ quy đến các phần tử khác. Nếu không, chúng ta chỉ cần gọi đệ quy với phần còn lại và trả về kết quả.Hàm này sẽ hoạt động tốt, và chúng ta có thể cài đặt theo cách tương tự cho 7. Hàm này trả vè 5 nếu bất cứ phần tử nào thoả mãn điều kiện. 7Khác biệt duy nhất là hàm này trả về false khi nằm ngoài khoảng giá trị và chúng ta dùng 9 thay vì 6 trong câu 01 thứ hai.Hàm 02 sẽ khác một chút, ngắn hơn và đơn giản hơn. 8 03 có nghĩa là chúng ta sử dụng một hành động cho tất cả các phần tử của tập hợp. Với map, chúng ta không cần iterator và có thể sử dụng hàm 04 có sẵn để trả về các phần tử "tồn tại" và thoả mãn điều kiện 05. Ban đầu có thể không hiển nhiên lắm, nhưng hãy xem điều gì đang diễn ra.
Ví dụ thực tếVâng, có vẻ functional programming rất thú vị, nhưng ý tưởng của nó thì không dễ chấp nhận trong PHP. Do vậy, tôi không khuyến khích bạn viết tất cả bằng cách đó. Tuy nhiên, bạn đã biết cách PHP làm với hàm, do vậy bạn có thể dùng một phần kiến thức vào các bài toàn hàng ngày. Dưới đây là một mô-đun thực hiện xác thực người dùng. Class 15 nhận đầu vào là user và passwrod và có thể thực hiện xác thực cũng như chỉ định quyền người dùng. 9Hàm trên có vẻ OK, tuy nhiên có một vấn đề khá nghiêm trọng. 80% phương thức sử dụng ở 16 dùng thông tin của 17. Nó tạo ra sự phụ thuộc rất lớn giữa các mô-đun.Sẽ rõ ràng hơn nếu tạo ra 3 lời gọi hàm và một method cho 17.Bằng cách di chuyển việc sinh dữ liệu ra 17, chúng ta đã cố gắng giảm 3 phụ thuộc vào chỉ 1. Bằng việc dùng interface 17, chúng ta giảm 3 xuống còn 1 method. Tuy nhiết, Chúng ta không dừng lại ở đây, 15 vẫn còn phụ thuộc trực tiếp vào 17.Cách tiếp cận hướng đối tượngĐể plugin có thể dùng bởi bất cứ mô-đun nào, chúng ta cần tạo ra một interface sử dụng chung. Chúng ta có thể truyền object vào thông qua khai báo interface. 0 15 có một constructor. Nó nhận tham số truyền vào là một dạng của 24, một interface, và gọi hàm 25 với object được truyền vào. 1 24 định nghĩa một phương thức chung tổng quá, 25 với tham số là username. 2Cuối cùng, 17 cần khái báo hàm được định nghĩa ở interface 24.Đến đây, mọi chuyện trở nên tốt hơn rất nhiều. 15 chỉ phụ thuộc vào interface. 17 chỉ phụ thuộc vào chính interface đó, do vậy 15 không cần phải biết về mô-đun thực hiện cuối cùng. Chúng ta có thể tạo ra bao nhiêu mô-đun tuỳ ý, miễn là nó thực thi 24, và 15 của chúng ta sẽ có thể làm việc với chúng.Cách tiếp cận bằng hàm (Functional Approach)Một cách khác để đảo ngược sự phụ thuộc, và tạo ra 35 hoặc bất cứ mô-đun nào khác, là sử dụng 15 để truyền vào các mô-đun đó. 15 sẽ thực hiện việc xác thực người dùng, và mỗi ứng dụng sẽ cung cấp hàm 38 của nó. 3Chúng ta bắt đầu với 35. Nó không còn phải tuân thủ bất cứ interface nào. Tuy nhiên, nó sử dụng object được truyền vào để thực hiện Authentication. Ở 35, sẽ có một hàm 16 gọi hàm 42 của 15 và truyền hàm vào đó. 4Interface chỉ định nghĩa hai hàm đó. 5Cuối cùng, 15 sẽ thực thi 45 và nhận hàm truyền vào như một thành phần private của class. Sau đó hàm 16 trở thành một hàm câm. Nó chỉ gọi hàm khác và trả về giá trị. Hoàn toàn tách biệt khỏi cái sẽ được truyền vào.Nếu nhìn vào mô hình, bạn sẽ thấy 2 thay đổi quan trọng:
Làm theo cách nào?Không có đáp án chính xác cho câu hỏi này. Tôi cho rằng nếu quá trình xác định quyền phụ thuộc vào mô-đun của ứng dụng, cách tiếp cận hướng đối tượng sẽ tốt hơn. Tuy nhiên, nếu bạn cho rằng mỗi mô-đun cần có khả năng cung cấp hàm xác thực, và 15 chỉ là một cái khung cho việc xác thực và không biết gì về user và các thủ tục, bạn có thể chọn cách tiếp cận hàm.Cách tiếp cận hàm làm cho 15 mang tính trừu tượng và bạn có thể phụ thuộc vào nó. Tuy nhiên, nếu bạn cho phép 15 làm nhiều hơn và biết nhiều hơn về user và hệ thống, nó sẽ trở nên rời rạc và bạn không còn muốn phụ thuộc vào nó. Trong trường hợp đó, hãy chọn cách tiếp cận hướng đối tượng và để cho 15 phụ thuộc vào mô-đun của ứng dụng. |