Nhà văn hiện thực là gì

Bối cảnh xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỉ 20 dưới ách thống trị của thực dân Pháp, phát xít Nhật cùng với sự bóc lột của cường hào, địa chủ đã gây ra nhiều nỗi thống khổ cho nhân dân.

Từ thành thị đến nông thôn đâu đâu cũng gặp cảnh bất công, ngang trái, nhân dân bị đày đọa, bóc lột đến tận xương tủy. Hiện thực cuộc sống tối tăm trong những năm trước cách mạng đã được các nhà văn ghi lại với những nét bút chân thực tạo nên một trào lưu lớn trong đời sống văn học lúc bấy giờ: Trào lưu văn học hiện thực phê phán.

Với tấm lòng đồng cảm sâu sắc, các nhà văn hiện thực đã dựng lên bao cảnh đời, bao số phận đau thương của nhiều tầng lớp nhân dân trong xã hội cũ. Họ thấu hiểu những nỗi đau tận cùng, nhận thấy những kết cục bi thảm mà xã hội dành cho những con người khốn khổ. Có thể nói, tư tưởng “nghệ thuật vị nhân sinh” đã ăn sâu vào những nhà văn thuộc trào lưu văn học này. Nhà văn Vũ Trọng Phụng từng lên tiếng: “Các ông bảo tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết, còn tôi và những nhà văn như tôi chủ trương nhà văn là cuộc đời”.

Chủ nghĩa hiện thực phát triển mạnh trong khoảng mười lăm năm nhưng đã xuất hiện nhiều tên tuổi lớn và ở độ chín của sự nghiệp như: Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao… Tác phẩm của họ là những bức tranh đậm nét về đời sống xã hội đem lại giá trị nhận thức cao cho người đọc.

Chưa bao giờ trong đời sống văn học lại xuất hiện hàng loạt các tác phẩm văn học hiện thực phê phán xuất sắc đến như vậy. Có thể kể đến các tác phẩm như: Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê… của Vũ Trọng Phụng; Bước đường cùng, Tinh thần thể dục của Nguyễn Công Hoan; Tắt đèn, thiên phóng sự Việc làng nhà văn Ngô Tất Tố; tiểu thuyết Bỉ vỏ của nhà văn Nguyên Hồng; nhà văn Nam Cao với một loạt tác phẩm có giá trị như: Lão Hạc, Một bữa no, Chí Phèo…

Đó đều là những tác phẩm có thể làm vinh dự cho mọi nền văn học [Nguyễn Khải]. Chủ nghĩa hiện thực như những lưỡi cày sâu, lật lên những mặt trái của xã hội đương thời. Các nhà văn đã khắc hoạ thành công những nhân vật điển hình có ý nghĩa phê phán quyết liệt, tố cáo mãnh liệt những thủ đoạn áp bức bóc lột, chính sách bịp bợm, giả dối của giai cấp thống trị, đồng thời phơi bày nỗi thống khổ của nhân dân với thái độ cảm thông sâu sắc.

Tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố tái hiện một khung cảnh ngột ngạt, căng thẳng của làng Đông Xá trong những ngày sưu thuế. Ở đó, ta bắt gặp hình ảnh chị Dậu phải chạy đôn chạy đáo kiếm từng miếng ăn, phải bán con, bán chó, bán cả sữa của mình cũng không đủ tiền nộp thuế. Cả gia đình chị Dậu đã phải điêu đứng vì một thứ thuế vô lí, vô nhân đạo của chế độ thực dân phong kiến – thuế thân.

Với tập phóng sự Việc làng,  ta lại thấy một nông thôn Việt Nam với những hủ tục nặng nề cản trở sự phát triển của xã hội.

Dưới con mắt của nhà văn trào phúng bậc thầy Vũ Trọng Phụng, cuộc đời như một tấn bi hài kịch thể hiện qua tiếng cười châm biếm sắc sảo, sâu cay trong các tác phẩm: Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê, Cạm bẫy người, Kĩ nghệ lấy Tây… Những bức chân dung biếm họa như Xuân tóc đỏ, cụ cố Hồng, ông Phán mọc sừng, cô Tuyết… hiện lên một cách rõ nét; các phong trào do thực dân đề xướng như: “Âu hoá”, “Vui vẻ trẻ trung”, thi thể thao, cải cách y phục…. được tác giả phanh phui, bóc trần qua tiếng cười mỉa mai, hài hước, khi châm biếm, khi căm phẫn hằn học cái xã hội bẩn thỉu, giả dối, vô luân. Tất cả đã chứng tỏ một bản lĩnh nghệ thuật già dặn, một tài năng nghệ thuật độc đáo của Vũ Trọng Phụng.

Trong số những nhà văn hiện thực đó, Nam Cao nổi lên là một gương mặt tiêu biểu. Với quan điểm sáng tác: nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ thoát ra từ những kiếp lầm than... [Giăng sáng] và nhà văn phải luôn mở hồn ra để đón những vang động của cuộc đời… [ Đời thừa], ông cho ra đời những tác phẩm ngồn ngộn chất hiện thực, có ý nghĩa tố cáo xã hội một cách sâu cay.

Tác phẩm của ông thường tập trung và đi sâu khai thác những bi kịch của cả người nông dân nghèo và người trí thức nghèo trên con đường tìm kiếm kiếm những giá trị đích thực của cuộc sống. Từ đó, Nam Cao đã xây dựng được những hình tượng nghệ thuật bất hủ, có sức khái quát cao.

Chí Phèo là tác phẩm tiêu biểu cho đề tài về người nông dân nghèo. Trước Cách mạng tháng 8, đã có nhiều tác phẩm về nỗi khổ của người nông dân dưới chế độ xã hội cũ và rất thành công. Đó là một thách thức không nhỏ đối với Nam Cao, nhưng với tôn chỉ: Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi khơi những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo những gì chưa có, tác giả đã tìm cho mình một hướng đi riêng.

Nếu như các tác phẩm khác viết về người nông dân thường khai thác nỗi khổ về vật chất, nỗi lo về miếng cơm, manh áo thì trong tác phẩm của mình nhà văn đặt ra vấn đề về nhân cách, về ước mơ khát vọng hạnh phúc của người nông dân. Đặc biệt là về tình trạng con người bị xúc phạm về nhân phẩm, bị huỷ hoại về nhân tính, bị bóp chết những ước mơ, bị đẩy vào tình trạng sống mòn, không lối thoát. Và cũng ít có nhà văn nào hiểu được một cách sâu sắc các ngõ ngách sâu kín về những phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn người nông dân, biết khơi dậy khát khao được sống, được làm người. Mong ước hạnh phúc đối với họ thật giản dị, không ngoài quyền được sống được no ấm và biết đến mùi vị của hạnh phúc gia đình. Chí Phèo một thời ước muốn có một gia đình nho nhỏ chồng cuốc muốn, cày thuê, vợ dệt vải  thật bình dị, đáng trân trọng. Nhưng không, tất cả đều bị tước đoạt, bị đẩy đến bước đường cùng, bị dẫm đạp đến mức không nhận ra dạng người để rồi biển thành quỹ dữ. Câu hỏi của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện có sức tố cáo xã hội một cách mạnh mẽ.

Ở đề tài người trí thức nghèo, Nam Cao thường tập trung miêu tả nỗi đau về tinh thần, sự xói mòn về nhân phẩm của những người trí thức. Họ thường là những sinh viên nghèo, những giáo khổ trường tư, nhà văn có ước mơ hoài bão lớn, nhưng khi gặp cuộc sống thực tế họ bị gánh nặng cơm áo ghì sát đất. Họ vỡ mộng, vi phạm nguyên tắc nghề nghiệp và rơi vào bi kịch, phải sống cuộc sống khổ cực, thường xuyên bị dày vò về tinh thần, họ rơi vào cảnh sống mòn, sống thừa, sống cuộc sống vô nghĩa…

 Hầu hết các sáng tác của Nam Cao đều mang cảm hứng chủ đạo là niềm khát khao đến cháy bỏng làm sao để con người được sống xứng đáng với hai chữ CON NGƯỜI. Từ khát vọng về một cuộc sống có ý nghĩa mà dưới cái nhìn của Nam Cao nhân loại đang lâm vào tình trạng huỷ hoại về nhân tính, chết ngay khi đang sống. Đó cũng chính là cái nhìn nhân đạo của nhà văn với mong muốn cuộc sống con người ngày càng tốt đẹp hơn.

Trào lưu văn học hiện thực phê phán đã góp một tiếng nói chung trong việc thể hiện bản chất thối nát, tính chất vô nhân đạo của xã hội Việt Nam trước cách mạng. Và cũng chính trào lưu này đã tạo nên sự đa dạng phong phú của văn học Việt Nam thời kì đầu thế kỉ 20, góp phần vào công cuộc hiện đại hoá nền văn học nước nhà.

Theo ĐINH THỊ LIỄU / PTTH LÊ HỒNG PHONG – QUẢNG BÌNH

Tags: Văn học, Trào lưu nghệ thuật, Đông Dương thời thuộc địa

MỤC LỤC:1I.KHÁI NIỆMChủ nghĩa hiện thực là một trào lưu văn học hình thành rõ rệt ở Châu Âugiữa thế kỉ XIX. Thực ra chủ nghĩa hiện thực nảy sinh từ thời Phục hưng [gọi làchủ nghĩa hiện thực Phục hưng]. Đến thế kỉ XIX chủ nghĩa hiện thực lên đến đỉnhcao với bộ “Tấn trò đời” của Balzac. Trong giáo trình Lí luận văn học tập 3 [Tiếntrình văn học] do Phương Lựu chủ biên đã nêu rằng: “Chủ nghĩa hiện thực nếuđược hiểu theo nghĩa phương pháp sáng tác thì sẽ có nhiều dạng. Đó là chủ nghĩahiện thực thời Phục hưng, chủ nghĩa hiện thực thời Khai sáng, chủ nghĩa hiện thựcthời phong kiến mạt kì Phương Đông. Nhưng mãi đến thế kỉ XIX ở Tây Âu thì chủnghĩa hiện thực mới phát triển đến đỉnh cao nhất cho nên mọi người gọi là chủnghĩa hiện thực cổ điển. Cảm hứng chủ đạo của chủ nghĩa hiện thực cổ điển là phêphán nên Gorki gọi là chủ nghĩa hiện thực phê phán”. Và chủ nghĩa hiện thực phêphán ở Tây Âu thế kỉ XIX đạt đến mức cổ điển về nội dung và chuẩn mực về nghệthuật.Vấn đề chủ nghĩa hiện thực vốn được rất nhiều giới nghiên cứu quan tâm, họđưa ra hàng loạt ý kiến đánh giá và không ít cuộc tranh cãi diễn ra. Nhìn chung,theo nhóm đã nghiên cứu và tìm hiểu, chủ nghĩa hiện thực là một phương phápsáng tác dựa trên chất liệu hiện thực cuộc sống nhằm phản ánh một cách kháchquan hiện thực xã hội đó. Đồng thời muốn thực hiện thành công phương pháp nàycác nhà văn hiện thực cần phải tuân theo các nguyên tắc mĩ học nhất định. Khácvới chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa cổ điển thường bị chi phối bởi một vài nguồný thức tư tưởng, chủ nghĩa hiện thực có tham vọng phải khơi nguồn ở nhiềuphương diện khác nhau và tất cả phải cuối cùng phải được kết tinh lại thành mộtnguyên tắc nhất quán là phản ánh chân thực cuộc sống ở những phương diện khácnhau của nó. Do đó, đòi hòi các nhà văn hiện thực phải nhìn đời bằng chính đôi2mắt hiện thực, lắng nghe đời bằng trái tim thổn thức, thông qua lăng kính cảm xúccủa mình để tái hiện lại những mảng hiện thực đời sống một cách chân thực sốngđộng nhất.II.CƠ SỞ XÃ HỘI VÀ Ý THỨC – NGUYÊN TẮC LỊCH SỬ CỤ THỂ1. Cơ sở xã hội:Chủ nghĩa hiện thực phê phán có ở Anh, Nga và cả các nước phương Đôngsau này, nhưng hình thành cơ bản và tiêu biểu nhất là ở Pháp khoảng năm 1830.Vào nửa thế kỉ XIX, tình hình xã hội nước Pháp có sự chuyển biến rõ rệt:Thứ nhất, quá trình di chuyển của của giai cấp tư sản Pháp từ một lực lượngtiến bộ chống phong kiến thành một lực lượng phản động thẳng tay đàn áp các giaicấp công nhân và nhân dân lao động.Thứ hai, quá trình chuyển biến của giai cấp công nhân Pháp từ chỗ phụthuộc vào giai cấp tư sản trong khối liên minh của đẳng cấp thứ ba [đẳng cấp thứba bao gồm tầng lớp đại tư sản, tư sản công thương, tiểu tư sản và các tầng lớpnhân dân nghèo] chống phong kiến đã trở thành một lực lượng chính trị độc lậpchống giai cấp tư sản.Tư sản và vô sản được xem như hai giai cấp chính trong xã hội lúc bấy giờ.Giai cấp tư sản ra sức chèn ép, bóc lột nhân dân lao động, còn vô sản phần lớn làlực lượng công nhân, nông dân lao động, họ có tinh thần cách mạng cao. Như Mácvà Ăngghen đã từng viết: “Giai cấp tư sản đã đem một sự bóc lột công nhiên vô sĩtrực tiếp, tàn nhẫn thay cho sự bóc lột được che đậy bằng những ảo tưởng tôn giáovà chính trị”.3Chính những vấn đề mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp là nội dung cơ bản củaquan hệ xã hội.2. Ý thức:Trước đó, được chi phối bở những chủ nghĩa xã hội không tưởng, chủ nghĩalãng mạn tích cực tuy kết tinh những phản ứng của tầng lớp dân chủ đối với nhữngcông của xã hội tư bản, nhưng nhà văn vẫn còn đặt hy vọng qua nhiều vào nhà tưsản tốt bụng. Và khi họ nhận ra những chuyển biến xã hội như vậy, nhà văn chânchính hoàn toàn thất vọng với chế độ tư bản, họ bắt đầu quay về nhìn thẳng vàothời cuộc để vạch trần những tội ác của chúng. Thế nên, có thể xem điều này lànguyên nhân sâu xa nhưng căn bản để giải thích cho quá trình chuyển biến từ chủnghĩa lãng mạn sang chủ nghĩa hiện thực phê phán. Ý thức của người văn sĩ lúcbấy giờ đã có sự thay đổi, họ thấy được những vấn đề cốt chính là những mâuthuẫn xã hội và đấu tranh giai cấp. Hầu hết các tác phẩm văn học đã phản ánh toàndiện hiện thực xã hội phương Tây dưới sự thống trị của giai cấp tư sản, lên án, phêphán sâu sắc xã hội phong kiến lỗi thời, xã hội tư bản bóc lột. Đồng thời, thể hiệnlòng yêu thương con người, nhất là nhân dân lao động, thể hiện lòng yêu nước, yêuhòa bình và tinh thần nhân đạo sâu sắc.Chủ nghĩa hiện thực có tham vọng phản ánh cuộc sống một cách toàn diện,cho nên nó phải khơi nguồn ở nhiều phương diện khác nhau, nhưng quy tụ lại theomột nguyên tắc nhất quán, cuối cùng để làm nổi cộm lên mâu thuẫn xã hội sâu sắc,qua đó bộc lộ những giá trị tư tưởng của từng nhà văn hiện thực đương thời.3. Nguyên tắc lịch sửVới hình thái xã hội tư bản, vấn đề mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp ngàycàng trở nên gay gắt, việc sáng tác của các văn sĩ người Pháp lúc bấy giờ không4còn che đậy nữa mà hầu hết được trình bày một cách công khai. Họ luôn nhìnthẳng vào sự thật, tránh bệnh ảo tưởng và phiến diện và tìm thấy cho được nhữngphương diện bản chất của nó. Điều đó là nhờ “một trình độ tri thức nhất định vềthế giới”, kết tinh từ những thành tựu khoa học xã hội và khoa học tự nhiên lúc bấygiờ.Về mặt xã hội: Các nhà xã hội không tưởng như XanhXimông, Sáclơ, Phuriêđã “bắt mạch” đúng đắn về mâu thuẫn và áp bức giai cấp trong xã hội tư bản. Lậptrường của họ thuộc về giai cấp tư sản, nhưng luận điểm của họ là tiến bộ, là đúngđắn và vô hình trung đã vạch ra quy luật đấu tranh giai cấp như một phương diệnquan trọng trong động lực phát triển lịch sử.Về mặt sử học: Các tác phẩm của Phơrăngxoa Ghidô, Phơrăngxoa Minhê,Chiêri đã phê phán các sử gia phong kiến quan niệm rằng chế độ phong kiến làvĩnh hằng bất biến, thắng lợi của cách mạng 1789 chỉ là ngẫu nhiên và sẽ bị đảongược. Mặc dù họ chưa lí giải được một cách khoa học về vấn đề giai cấp và đâutranh giai cấp, nhưng theo họ thì sự thay đổi về quan hệ tài sản, chủ yếu là quan hệruộng đất đã đưa tới mối quan hệ giai cấp mới và sự thay đổi về thái độ, quan hệchính trịVề mặt triết học: Tư tưởng của Phơbách [nhà triết họ nổi tiếng người Đức vềduy vật siêu hình], Ghécxen, Sécnưsépxki đã đưa chủ nghĩa duy vật lên đỉnh caochưa từng có trước chủ nghĩa Mác. Đặt biệt là phép biện chứng của nhà triết họcduy tâm khách quan Hêghen, sự hệ thống hóa những kiến thức của loài người đãphát huy tác dụng to lớn đối với tư tưởng Châu Âu đương thời.Về khoa học tự nhiên: Với tiến hóa luận của Đácuyn, lần đầu tiên đã hìnhthành một thuyết hoàn chỉnh về sự tiến hóa của các loài trong giới động vật, tạonên một bước ngoặt lớn trong khoa học, phá tan quan niệm về sự bất động, bấtbiến của các hình thái tự nhiên.5Trong phép biện chứng tự nhiên, Ăngghen đã từng nói: “Tất cả cái gì trở thànhngưng đọng trở thành biến chuyển, tất cả cái gì bất động trở nên động, tất cả cái gìriêng biệt được coi như vĩnh cửu, hóa ra là quá độ, và được chứng minh rằng tất cảtự nhiên đều chuyển động trong một dòng thác và một cơn lốc vĩnh cửu”.Tất cả các đặc điểm về tình trạng xã hội và những thành tựu về các ngànhkhoa học trên đã kết tinh thành những nguyên tắc lịch sử - cụ thể cho văn học hiệnthực phê phán phương Tây thời kì này. Như Ăngghen nói: “Tất cả cái gì trở thànhngưng đọng trở thành biến chuyển, tất cả cái gì bất động trở nên động, tất cả cái gìriêng biệt được coi như vĩnh cửu, hóa ra là quá độ, và được chứng minh rằng tất cảtự nhiên đều chuyển động trong một dòng thác và một cơn lốc vĩnh cửu”.Hai khía cạnh lịch sử và cụ thể tuy không tách rời nhau nhưng có thể phânbiệt một cách tương đối. Nói “cụ thể” tức là chỉ một quan hệ xã hội với một tìnhthế mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp cụ thể. Nói “lịch sử” tức là nhìn sự vật bao giờcũng thấy quá trình phát sinh, phát triển và chuyển hóa của nó. Vì thế, nguyên tắclịch sử - cụ thể này đã thay thế cho nguyên tắc lí tính đã ngự trị khoa học và cảtrong văn học nghệ thuật của bao thế kỉ trước đó.III.NHÂN VẬT TRUNG TÂM VÀ CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO:1. Nhân vật trung tâmChủ nghĩa hiện thực phê phán đều có những nhân vật chính diện qua đó bộclộ cảm hứng ca ngợi của mình. Qua các tác phẩm của Bandắc - nhà văn hiện thựcphê phán tiêu biểu, có thể thấy hai loại nhân vật lí tưởng: nhân vật quý tộc và nhânvật “anh hùng cộng hòa”.6Trước hết là nhân vật quý tộc. Bandắc có rất nhiều trang viết thể hiện sựngợi ca, thương cảm đối với họ. Hãy lấy nhân vật Dơ Grinhông trong “Phòngtrưng bày vật cổ” làm ví dụ, Bandắc ca ngợi con người quý tộc này còn giữ đạođức trong sạch, đối lập với đầu óc trục lợi của giai cấp tư sản. Nhưng chính nhàvăn lại mượn lời nói của nhân vật khác để châm biếm, cho rằng Dơ Grindong vẫntiếp tục sống ở thế kỉ XV, trong lúc thế kỉ XIX đến với chúng ta lâu rồi! Cái nhanđề “Phòng trưng bày vật cổ” của cuốn tiểu thuyết cũng hàm ý mỉa mai: những đồvật ở đây tuy cũng quý nhưng thuộc về xa xưa rồi! Như chính Ăngghen viết: “Tácphẩm vĩ đại của ông là một bài thơ ai oán không dứt về cảnh tan rã của cái xã hộithượng lưu; tất cả mọi thiện cảm của ông dành cho giai cấp đã bị đẩy tới chỗ diệtvong. Nhưng mặc dù thế, lời châm biếm của ông thường không bao giờ sâu caychua chát hơn là khi ông bắt những người đàn ông và những người đàn bà quý tộcmà ông có thiện cảm hơn cả, phải hoạt động…, ông đã nhìn thấy sự sụp đổ tất yếucủa những người quý tộc yêu quý của ông và miêu tả họ với tính cách con ngườikhông đáng được hưởng một số phận khá hơn”. Có nghĩa là có sự mâu thuẫn giữalí trí và tình cảm ở đây. Tình cảm thì yêu mến, lí trí thì mỉa mai.Loại nhân vật lí tưởng thứ hai trong tác phẩm khác của Bandắc là những“anh hùng cộng hòa”, Ăngghen có viết “Những con người duy nhất mà ông baogiờ cũng nói về họ với lòng khâm phục không che đậy, đó là những đối thủ chínhtrị quyết liệt nhất của ông, những người cộng hòa - những anh hùng của phố Tuviện Xanh Mêri, những người này lúc bấy giờ [1830-1836] thực tế là đại biểu củaquảng đại quần chúng”. Đó là Misen Crêchiêng trong “Vỡ mộng”, một chiến sĩcộng hòa đã cùng nhân dân chiến đấu trên các chiến lũy trong cuộc cách mạng năm1830, sau hy sinh ở Xanh Mêri năm 1832, được Banđắc ca ngợi là “nhà chính trịlỗi lạc” luôn luôn ước mơ “thay đổi cả bộ mặt thế giới”. Bandắc thương tiếc chocái chết của anh đồng thời ca ngợi: “ một trong những nhân vật cao quý nhất sinh7ra trên đất Pháp”, “ Michel chết vì những chủ nghĩa khác chủa nghãi của mình,thuyết liên bang của anh đe dọa giai cấp quý tộc châu Âu nhiều hơn là việc tuyêntruyền cho nền cộng hòa”. Đó còn là Nidơrông trong “Nông dân”, “người cộnghòa siêu việt, cứng rắn như thép, trong sạch như vàng”… Nhưng Bandắc mô tả họkhông nhiều. Ở đây cũng có mâu thuẫn, nhưng theo chiều hướng ngược lại vớinhân vật quy tộc ở trên: lí trí thì khâm phục, nhưng tình cảm không sâu nặng.Tuy nhiên, dù là nhân vật quý tộc hay “anh hùng cộng hòa”, cả hai loại nhânvật này chiếm vị trí nhỏ trong tác phẩm của Bandắc, và thái độ của ông có mâuthuẫn như trên đã nói cho nên đều không trở thành nhân vật lí tưởng thuần vẹn củaông. Chính Bandắc cũng đã từng nói: “Xây dựng nhân vật đức hạnh là nan giải”.Trong trường hợp cụ hể của Bandắc, điều đó có nghĩa là đối với ông, việc quay lạichế độ quan chủ trong quá khứ; hay có thật sự xây dựng được chế độ cộng hòa tốtđẹp trong tương lai hay không đều mơ hồ. Chỉ có một đều rất rõ ràng và tỉnh táo làông phủ nhận xã hội tư sản trước mắt. Nhà nghiên cứu văn học Pháp Jean Frévilleđã từng nói “Bandắc đã mô tả xã hội tư sản bằng một bức tranh hết sức tỉ mỉ, hếtsức chân thực, hết sức quyết liệt đến nỗi nó mang lời kết án và người chứng kiếntrở thành quan tòa”.Điều đó cơ bản quyết định những nhân vật tư sản hóa chiếm địa vị trungtâm trong sáng tác của các nhà văn hiện thực phê phán tiêu biểu thời kỳ này. Đó lànhững con người cá thể vốn xuất thân từ những thành phần khác nhau [quý tộc,tiểu tư sản, v.v…], vốn có những thái độ khác nhau đối với chế độ tư bản, nhưngmột khi đã lăn mình vào xã hội đó, thì đều thấm nhuần đạo đức, và triết lí tôn thờ“con bê vàng”. Nghĩa là vì tham vọng làm giàu, vì chạy theo đồng tiền mà sẵnsàng đạp lên tất cả mọi thứ, từ danh dự, đạo đức cho đến tư tưởng, tình cảm, và cảđời sống con người nói chung. Raxtinhắc, Sáclơ, Grangđê, Vôtrin… tất cả nhữngnhân vật này đều nhiều ít, trực tiếp hoặc gián tiếp, thể hiện cái điều mà Ăngghen8đã nói là “thẳng tay cắt đứt, không để lại giữa người và người một mối quan hệnào khác ngoài mối lợi lạnh lùng và lối trả tiền ngay không tình nghĩa”. Sáclơtrong Ơgiêni Grangđê đã ruồng bỏ Ơgiêni, mà thật ra là ruồng bỏ đến ba người:thân nhân, ân nhân, tình thân, để theo đuổi cô gái quý tộc khác ma y tưởng nhằm làgiàu có hơn. Và đây là những câu châm ngôn của Vôtrin, một tướng cướp bị tù khổsai vượt ngục xuất hiện trong nhiều tác phẩm của Bandắc như “Lão Gôriô”, “Vỡmộng”, “Vinh nhục của cô gái giang hồ”: đó là “Phải xông vào đám đông nhưđường đạn, phải len lỏi vào nó như bệnh dịch”; “Nếu mày làm hại được ai khác, cónghĩa là mày đang sống”; nào là “Hãy nhổ toẹt vào chính kiến và lòng tin củamình, khi cần thì bán quách nó đi”; hay “Cuộc đời là một cái bếp hôi hám, nếu anhmuốn ăn ngon, thì đành chịu bẩn tay một tí, chỉ cần sau đó rửa sạch đi là được - đólà tất cả đạo đức trong thời đại chúng ta”…Cách mạng tư sản mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử nhân loại nhưngđồng thời cũng đặt ra những thách thức trong xã hội. Đó là những kẻ tư sản mớihãnh diện với cái tấm áo mới của mình, bao trùm nó là vẻ kiêu căng, tham vọng,ích kỉ và cuồng si. Loại người này chiếm số đông trong xã hội, được Bandắc phêphán trong nhiều tác phẩm. Bandắc đã không chỉ phản ánh hiện thực mà còn phântích mổ xẻ từng ngõ ngách của nó. Ông hiểu thấu bản chất của xã hội ấy bởi ôngcũng chính là một nạn nhân của nó, cũng khao khát gia nhập tầng lớp thượng lưu,cũng tìm mọi cách kiếm tiền nhưng đều thất bại. Trong xã hội ấy, quá trình tha hoácủa con người diễn ra rất nhanh chóng. Cả xã hội nhảy múa trong ánh hào quangcủa kim tiền, tranh nhau lao vào để giằng xé lấy tiền bạc và quyền lực.Lấy ví dụ là tiểu thuyết “Lão Gôriô” của Bandắc ra đời sau cách mạng tưsản Pháp năm 1789, khi mà sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản đã khiến đồng tiềnngự trị và biến đổi sâu sắc mọi mặt của xã hội. Lão Gôriô – nhân vật chính của tiểuthuyết, sở hữu một đức tính “hào phóng vô tâm” nên rất dễ “bị lừa phỉnh”, “ lão9để nụ cười vui sướng của gã tư sản phảng phất trên môi, người ta đã phỉnh nịnhđiều mà lão vốn thích”. Sau khi đạt được ước mơ sống trong thế giới thượng lưu,lão nuông chiều các cô con gái của mình với mong muốn biến họ thành quý côthuộc tầng lớp quý tộc. Lão đã chấp nhận sống ở quán trọ và vét hết những xu cuốicùng cho hai cô con gái, để rồi ông chết trong sự lạnh lẽo. Bi kịch của Lão Gôriô làbi kịch của rất nhiều người trong xã hội tư bản Pháp ngày ấy. Đó là những conngười với những ước mong mù quáng về một xã hội thượng lưu phù phiếm, nhữngcon người hiền lành và dễ bị lừa phỉnh sẽ bị xã hội tư bản vùi dập.1. Cảm hứng chủ đạoM. Gorki từng viết “Văn học của tất cả các thời đại, nhất là trong thời đạicàng gần với chúng ta thì thái độ phê phán, bóc trần và phủ nhận thực tại càngmạnh thêm” và nó đã trở thành quy luật phát triển của nền văn học thế giới. Khimà giai đoạn chủ nghĩa hiện thực phát triển ở mức cao với những nhân vật phảndiện mang đầy đủ ý nghĩa phê phán mà tác giả muốn đưa ra. Chính những nhân vậtphản diện đó quyết định cảm hứng chủ đạo của chủ nghĩa hiện thực là phê phán.Ngược lại chính vì thái độ phê phán của tác giả đã thôi thúc họ tìm kiếm loại nhânvật phù hợp với thái độ phê phán đó. Điều này cũng là một đặc điểm khác nhauquan trọng giữa chủ nghĩa hiện thực phê phán với chủ nghĩa hiện thực thời Phụchưng chẳng hạn. Phương pháp sáng tác này vẫn có những cảm hứng phê phán quacác nhân vật như Iago, Sâylốc,… nhưng chủ yếu là chan chứa một cả hứng ca ngợiqua các nhân vật mang lí tưởng nhân văn chủ nghĩa như Hămlét, Ôtenlô, Rômeo,Giuyliet…Cùng với cảm hứng phê phán trong tác phẩm của mình, các nhà văn hiệnthực miêu tả cái ác, cái xấu và sự thắng thế của chúng, không phải là ca ngợi haycổ vũ mà đó là sự phê phán, tố cáo, vạch trần bộ mặt xấu xa của chúng. Để cho10mọi người nhận thấy tác hại và tránh xa nó. Đó là sự phê phán thói xa hoa trụy lạccủa giới quý tộc thượng lưu trong “Lão Gôriô” hay thói keo kiệt, hà tiệntrong “Ơgiêni Grăngđê”…Cùng là chủ nghĩa hiện thực phê phán với những nhân vật trung tâm phảndiện, nhưng vai trò và tỉ lệ của cảm hứng ca ngợi qua các nhân vật chính diện lítưởng là khác nhau. Đọc “Chiến tranh và hòa bình” của L.Tônxtôi chúng ta khôngthể nào quên được những vai chính diện như Pie Bêdukhốp luôn luôn nghĩ đến vậnmệnh quốc gia và dân tộc. Nói rộng ra trong chủ nghĩa hiện thực phê phán Nga,nhân vật chính, lí tưởng có một sức vang vọng mạnh mẽ. Nhân vật Rakhmêtốptrong tiểu thuyết Làm gì? Của Secnưsépxki đã có ảnh hưởng lớn lao đến các chiếnsĩ cộng sản Plêkhanốp, Đimitrốp và cả Lênin nữa. Người ta đọc văn học hiện thựcphê phán Pháp thì sẽ hiểu biết nhiều hơn, nhưng đọc văn học hiện thực phê phánNga thì say mê hơn là vì vậy.Sự ảnh hưởng của văn học hiện thực phương Tây với cảm hứng chủ đạo làphê phán cũng in đậm nét ở văn học Việt Nam. Điều này thể hiện ở dòng văn hiệnthực phê phán 1930 – 1945 với những cái tên như Nam Cao, Nguyễn Công Hoan,Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng…Nam Cao là đại biểu xuất sắc và là lá lờ đầu của chủ nghĩa nhân đạo trongtrào lưu của văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945. Các sáng tác của ông trước1945 đã đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của văn xuôi trên các phương diện:khả năng miêu tả và phân tích tâm lý, khả năng sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật...Thông qua hai đề tài chính là người nông dân và người trí thức tiểu tư sản nghèo,Nam cao đến với chủ nghĩa hiện thực với quan niệm “nghệ thuật không nên là ánhtrăng lừa dối. Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ thoát ra từ những kiếp lầmthan”. Trong các tác phẩm của mình, nhân vật của Nam Cao là quy tụ của những11mảnh đời đáng thương, bất lực trước cuộc sống bế tắc. Đó là lão Hạc bị cái đói dồnđến bước đường cùng và tìm đến cái chết để kết thúc chuỗi ngày đau đớn, dằn vặt.Đó là Chí Phèo bị bóp méo cả nhân hình lẫn nhân tính trên con đường tha hóa, lưumanh hóa, dần trở thành con quỷ dữ của cả làng Vũ Đại. Đó là văn sĩ Hộ bị gánhnặng cơm áo gạo tiền và hằng hà vô sô cái tủn mủn nhỏ nhặt hàng ngày đè bẹp lýtưởng nhân văn cao cả và hoài bão nghệ thuật chân chính của mình. Đó còn là anhThứ phải từ bỏ giấc mộng lớn thời trai trẻ và kéo lê cuộc sống đơn điệu, mòn mỏi,tù đọng ở một xó ngoại ô dở tỉnh dở quê. Thông qua mỗi cuộc đời ngang trái đó,ngòi bút hiện thực của Nam Cao hiện lên sắc sảo qua tinh thần phê phán đanh thép.Ông lên án những thế lực phong kiến đã áp bức, bóc lột người dân đến tàn bạo,thẳng tay chà đạp lên nhân phẩm của họ, bóp méo cả những khát vọng, hoài bãochân chính nơi họ. Mỗi cái kết của từng nhân vật như là một tiếng chửi đau xót củatác giả cho xã hội thối nát đương thời. Nhưng khác với các nhà văn hiện thựcphương Tây, trong sáng tác của Nam Cao, song song với tinh thần phê phán là tinhthần nhân đạo sâu sắc. Ông xót xa thương cảm trước những kiếp người thấp cổ béhọng, ông đau cùng nỗi đau của họ, lên tiếng bảo vệ cho họ. Và quan trọng hơn cảlà sự nâng niu, ngợi ca những thân phận đáng thương ấy, dù có bị hoàn cảnh vùidập đến móp méo thì ở họ vẫn lóe lên những đức tính tốt, những phẩm chất sángngời đáng trân trọng. Qua đó ông muốn hướng người đọc đến cái nhìn toàn diện vềý thức giá trị cuộc sống, về vai trò của cá nhân trong xã hội.Một đại biểu tiêu biểu khác cho văn học hiện thực Việt Nam 1930 – 1945 làVũ Trọng Phụng. Ông không những dùng ngòi bút của mình để lên án sự mục nát,thối rữa của xã hội Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân phong kiến, mà cònlột tả được sự tha hóa của con người mà theo ông, đó là nguyên nhân chính dẫnđến bi kịch bế tắc. Sự tha hóa đó được nhìn nhận trên toàn diện xã hội, dưới chiềusâu, qua nhiều tầng lớp, nhiều hạng người, mỗi người có một cách tha hóa khác12nhau trước thế lực đồng tiền và tham ô. Qua bộ ba tiểu thuyết “Giông tố”, “Sốđỏ” và “Vỡ đê”, Vũ Trọng Phụng đã dựng lại một xã hội đen tối mà trong đó conngười đối xử với nhau không hơn gì loài cầm thú. Bên cạnh đó, những cây bútkhác như Nguyễn Tất Tố với tác phẩm “Tắt đèn”, Nguyễn Công Hoan với tiểuthuyết “Bước đường cùng” cùng tạo nên cái nhìn hoàn thiện cho bức tranh cuộcsống ngột ngạt bức bí của xã hội thực dân nửa phong kiến. Chính những sự phêphán đanh thép ấy tạo nên sự cộng hưởng lan tỏa trong xã hội đương thời. Khôngnhững trực tiếp lên tiếng đấu tranh với các thế lực phong kiến, các tác giả hiện thựccòn tác động đến những kiếp người thấp cổ bé họng vốn là nạn nhân của xã hội bấtcông ấy, giúp họ thức tỉnh ý thức về giá trị cuộc sống, biết tự vươn lên từ vị trí thấphèn, tù túng để tự giải thoát cho bản thân.IV.TÍNH CÁCH ĐIỂN HÌNH TRONG HOÀN CẢNH ĐIỂNHÌNH:Điển hình là những nét mang tính bản chất, quan trọng và nổi bật được thểhiện qua sự sáng tạo của người nghệ sĩ trong một tác phẩm. Trong bức thư gửi nhàvăn Hacnet, Engels có một câu nổi tiếng: “Theo ý tôi, đã nói đến chủ nghĩa hiệnthực, thì ngoài sự chính xác của các chi tiết, còn phải nói đến sự thể hiện nhữngtính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình”. Như vậy, vấn đề điển hình khôngchỉ gắn liền với chủ nghĩa hiện thực mà còn được thể hiện qua hai mặt: tính cáchđiển hình và hoàn cảnh điển hình.1. Tính chung và tính riêng của điển hình:Nhà phê bình văn học Nga Belinxki có viết: “Tính điển hình là một trongnhững dấu hiệu nổi bật của tính mới mẻ trong sáng tạo. Nếu có thể thì cũng nóiđược rằng: Tính điển hình là huy chương của nhà văn. Điển hình là người lạ đã13quen biết”. Nó không chỉ có sự hài hòa thống nhất giữa tính riêng sắc nét và tínhchung có ý nghĩa khái quát cao. Mà chỉ khi nào cái riêng thật sắc nét, cái chung lạiphải thật khái quát cao và chúng thống nhất hài hòa cao độ thì lúc đó mới có điểnhình.Hình tượng nhân vật trong chủ nghĩa cổ điển nặng về cái chung, nhẹ về cáiriêng. Chủ nghĩa lãng mạn lại nhấn mạnh cái riêng đến chỗ phi thường nhưng nhẹvề mặt tiêu biểu khái quát. Chủ nghĩa hiện thực đã kế thừa tổng hòa hai chủ nghĩađi trước và đem lại sự kết tinh mới, đó là sự tổng hợp của “văn chương ý niệm” và“văn chương hình ảnh”.Nói về tính riêng của điển hình, trong chủ nghĩa hiện thực phê phán, mỗitính cách đều có diện mạo riêng, có đời sống tâm lí riêng cuả nó. Cái điển hình toátra từ tính cách của con người cụ thể. Cá thể hóa nhân vật không có nghĩa la để chonhân vật làm những việc độc đáo kỳ lạ, mà nhân vật vẫn có thể bộc lộ cá tính quacách làm độc đáo đối với những sự việc thông thường. Cá tính cao độ của nhân vậtsẽ làm cho nó trở nên sinh động. Chính vì điều đó, mỗi nhân vật như được sắm hẳnmột vai diễn cụ thể cho riêng mình trong tác phẩm hiện thực. Trong các sáng táccủa Bandắc, người đọc có thể thấy được từng con người cụ thể với từng nét riêngbiệt khác nhau, như nhân vật ông lão Gôriô là hiện thân cho số phận của một conngười đầy bất hạnh; hay những “nhân vật đạo đức” như Birêtô, phu nhân Graxlanh,những kẻ ăn chơi như Marxay, Raxtinhac…. Bên cạnh đó, với Pushkin - người mởđường cho chủ nghĩa hiện thực của nền văn học nước Nga cũng có một “gia tài”nhân vật khá phong phú và đa dạng, họ thuộc nhiều tầng lớp trong xã hội như:những người lính nơi biên ải, những viên chức nghèo, những người mugich xấu số,những “con người nhỏ bé”. Mỗi người hiện lên một vẻ, không ai trùng lặp ai, đó làchàng quý tộc Onegin lịch thiệp, có học vấn nhưng sống vô lo; là nàng Tachianakín đáo, đằm thắm lãng mạn; là chàng ngốc đáng yêu Lenski thiếu thực tế, cả tin;14là Germann lạnh lùng, lý trí đến tàn nhẫn… Nhờ tính cá thể hóa, họ đều hiện ra vớinhững cá tính sinh động, từ lý lịch, dáng vẻ, đến tâm tư, hành động, ngôn ngữ, sinhđộng tới mức làm cho người đọc như đang tiếp xúc với những con người cụ thểngoài đời.Về tính chung của điển hình, cái chung là cái làm cho nhân vật “thực sự làđại biểu cho những giai cấp và những trào lưu nhất định cho thời đại của họ” [lờighi nhận của Engel], ngoài những tính cách chung của con người mà nhân vật phảimang thì họ mang tính cách, bản chất mà chỉ gia tầng, địa vị mà họ đại họ đại diệnmới có, nhân vật ấy mang tầm vóc, lí tưởng của cả giai cấp này, để chỉ cần nhìnvào đó, người ta có thể hiểu cả một bộ phận của xã hội trong một hoàn cảnh, mộtkhúc đoạn nhất định. Nhưng không nên ngộ nhận tính chung của điển hình chính làtính giai cấp. Vì tính giai cấp chỉ là mặt bản chất nhất chứ không phải bản chất duynhất của con người. Bản chất của sự vật và con người có nhiều tầng bậc và đềuđược khái quát vào văn học nghệ thuật thông qua điển hình hóa. Tính điển hìnhhóa chung giúp gom những đặc tính chung của con người về mặt bản chất, giúp họhiện lên như một bộ phận của xã hội. Mặc dù có gần gũi và thống nhất với tính giaicấp, tính điển hình chung hoàn toàn không trùng khít với tính giai cấp.Lấy ví dụ là nhân vật Onegin trong tiểu thuyết “Evgeni Onegin” củaPushkin. Chàng trai giàu sang, uyên bác, lịch thiệp này có đầy đủ điều kiện vậtchất nhưng không có khả năng đến với tình yêu, tình bạn, không có khả năng sángtạo và lập chiến công. Mất dần ước mơ, hoài bão, anh chìm ngập trong những ngàytháng sống vô tư với những cuộc vui không ngừng, để rồi dần đưa mình vào bế tắc:giết chết Lenski là bạn thân của mình và mãi không đến được với tình yêu cùngTachiana. Có thể thấy Oneghin là điển hình cho lớp nhân vật thanh niên “có thểgặp hàng tá trên đường” – đó là hình mẫu “con người thừa”, một sản phẩm đặc thùcủa điều kiện xã hội Nga những năm 20 thế kỷ XIX. Chính chế độ nông nô quá lỗi15thời đã tạo nên kiểu người biếng nhác, không lý tưởng kéo lê đời thừa trong tầnglớp quý tộc thủ đô. Bản thân Onegin mang tính quý tộc, nhưng tính cách của anhcòn thấm ngầm lan rộng cho các tầng lớp khác và ảnh hưởng về sau. Như thế, tínhchung của Onegin vừa nhỏ lại vừa lớn hơn tính giai cấp, do đó không thể đồngnhất với tính giai cấp được.Đến với nhân vật đại diện cho tầng lớp tư sản trong tác phẩm của Bandắc,điển hình là Giăngđê. Không phải tên tư sản nào cũng keo kiệt như Giăngđê nhưngkeo kiệt như Giăngđê không chỉ có ở những tên tư sản. Những tên tư sản kháctrong tác phẩm của Bandắc như Guyôm, Gôriô, Graxlanh, Rôgiôn không phải đềulà những tên keo kiệt, nhưng lại chính là điển hình cho các kiểu loại tư sản khácnhau. Bên cạnh đó, nếu nhìn vào nhân vật Bê-li-cốp trong tác phẩm “Người trongbao” của Sê-khốp, người đọc có thể thấy được một xã hội Nga đang vùng vẫy ngạtthở trong bầu không khí chuyên chế nặng nề. Môi trường xã hội ấy đã đẻ ra lắmkiểu người kì quái mà Bê-li-cốp chính là điển hình để qua đó tác giả phê phán sâusắc lối sống hèn nhác, bạc nhược, bảo thủ…Như vậy, tính chung và tính giai cấp của điển hình có mối quan hệ thốngnhất nhưng không đồng nhất với nhau. Tùy theo đề tài, ý đồ và trình độ sáng củacác nhà văn mà hai tính này được sử dụng với mức độ khác nhau.2. Mối liên hệ giữa tính cách và hoàn cảnhHoàn cảnh điển hình là những hoàn cảnh mà trong đó nhân vật phản ánhđược bản chất hoặc một vài khía cạnh bản chất trong những tình thế xã hội với mộtquan hệ giai cấp nhất định. Trong ý kiến của Mác, Ăngghen về chủ nghĩa hiệnthực, đó là nội dung lịch sử có ý thức, trào lưu lịch sử, những quan hệ hiện thực,hoàn cảnh bao quanh. Trong khi chủ nghĩa cổ điển quan niệm rằng hoàn cảnh chỉ16là yếu tố để con người bộc lộ tính cách đơn nhất, chủ nghĩa lãng mạn “tô hồng”hóa cho xã hội để mối quan hệ giữa con người với con người tốt đẹp hơn, chủnghĩa tự nhiên thì nhấn mạnh vào bản năng vốn có của con người, thì chủ nghĩahiện thực phê phán lại tái hiện một cách chân thực và góc cạnh nhất cái sợi dâyràng buộc giữa hoàn cảnh và tính cách của nhân vật.Cũng như tính cách điển hình, ý nghĩa tiêu biểu khái quát của hoàn cảnhđiển hình phải thông qua tính chất cụ thể riêng biệt của nó mà qua đó người đọccảm thấy được những vấn đề xã hội rộng lớn. Nó không đơn thuần là bức tranh xãhội được nhắc đến đâu đó ở đầu tác phẩm, mà hoàn cảnh điển hình là hoàn cảnh cómối quan hệ hữu cơ với tính cách điển hình, chúng gắn bó, tác động, ảnh hưởngqua lại lẫn nhau. Vì vậy, khi đã xây dựng được những hoàn cảnh điển hình thì tínhcách chính là con đẻ của hoàn cảnh. Các tác giả muốn làm rõ điều này phải có cáinhìn tỉ mẩn và xuyên suốt cả một quá trình hình thành nên tính cách nhân vật, từkhi nó mới hình thành, phát triển và bộc phát hành động. Dựa vào quan niệm này,Bandắc đã xây dựng nên một Vôtrin thật nhiều phen ngoạn mục, từ tướng cướpvượt ngục lại đảo ngược một phen trở thành cảnh sát, Ban-dắc đã đặt Votrin vàotrong một hoàn cảnh lịch sử - xã hội của xã hội tư bản, xã hội mà ranh giới giữapháp luật và phi pháp chỉ là một hình thức. Vô trin kết án xã hội tư bản đanh thép,khốc liệt hơn ai hết, không phải chỉ vì hắn bị xã hội tư sản kết án, mà còn là hắnlấy ngay tội ác của xã hội tư bản để làm nên tội ác của chính mình.Đến đây, ta có thể dễ dàng thấy được sức ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện thựcphê phán phương Tây đến văn học Việt Nam khá sâu sắc, ảnh hưởng chứ khôngphải sao chép. Vôtrin của Ban-dắc và Xuân Tóc đỏ của Vũ Trọng Phụng có nhiều17bước giống nhau trên con đường “lên hương”, Xuân Tóc đỏ cũng chỉ là một thằngnhặt banh ở sân quần, dặt dẹo, ất ơ, vậy mà chả biết dựa vào cái gì mà hắn leo lênđược đến những danh hiệu chỉ có giới trí thức thượng lưu mới được phong hiệu, âucũng một phần do hoàn cảnh. Suy đi nghĩ lại, hoàn cảnh góp phần xây dựng tínhcách con người, ngược lại, tính cách con người cũng tố cáo được phần nào hiệnthực xã hội, nếu khai thác tốt mối quan hệ này, nhà văn có thể tố cáo một cáchchân thực và sắc nét nhất toàn cảnh xã hội mà mình muốn lên án thông qua cácnhân vật điển hình “để đời” này. Nếu xét ở một khía cạnh đơn giản, một nhà vănhiện thực phê phán thành công, là nhà văn biết đặt nhân vật của mình trên conđường nào, và “nổ bom” trong con đường ấy như thế nào.Việc là con đẻ của hoàn cảnh điển hình khiến tính cách điển hình trở nên rấtphong phú và đa dạng, mỗi tác phẩm không phải chỉ có một nhân vật điển hình,người ta thường nhầm quan niệm này với nhân vật chính, nhân vật chỉ là ngườiđiển hình cho một hoàn cảnh, một gia cảnh nhất định, và xoay vần theo dòng chảycủa cuộc sống thực tại, nhân vật không đứng yên ở một thời gian, một hoàn cảnhcố định, còn nhân vật chính, lại thuộc một góc độ khác, không thể so sánh hai kháiniệm này. Trong “Tấn trò đời” của Bandắc có đến 425 nhân vật quý tộc, 188 nhânvật tư sản và 487 nhân vật tiểu tư sản bao gồm nhiều tầng lớp nhân vật như địachủ, quan tòa, thầy thuốc, võ quan, thợ may, gác cổng, gái giang hồ… Điều đó thểhiện được sự đa dạng của số lượng nhân vật điển hình trong một tác phẩm văn học.Tóm lại, mỗi nhà văn hiện thực cần đặt nhân vật vào hoàn cảnh để tính cáchnhân vật nổi trội lên những nét chủ đạo, đồng thời vẫn mang được hơi hướng củachính con người thật ngoài đời, qua đó để nhân vật hiện lên một cách chân thựcnhất.183. Tính cách điển hình với thế giới chủ quan của nhà văn – vấn đề“nhân vật nổi loạn”:Việc “tái hiện tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình” kéo theo việctính cách trở thành con đẻ của hoàn cảnh, tính cách nhân vật chịu sự chi phối chủquan của người sáng tác, tuy nhiên, đừng vội phủ đầu cho lối sáng tác này, vì chodù chịu sự ảnh hưởng trực tiếp từ thế giới chủ quan của nhà văn, nhưng thứ chủquan ấy, là thứ chủ quan đã được nắm bắt bởi chân lí khách quan. Như đã đề cập ởphần trước, các nhà văn hiện thực luôn nhìn nhận nhân vật thông qua một quátrình, nhìn nhận nhân vật ở những bối cành xã hội đầy biết động, thực tế và kháchquan chứ không đánh giá thông qua kết quả hay một khoảnh khắc tức thời nào đó.Nhân vật trong những tác phẩm ấy có thể có thật hoặc không, nhưng dứt khoát đóphải là những nhân vật thuộc một lớp người nào đó từng tồn tại với tính cách, vậnmệnh và nguyên lí sống khách quan của lớp người ấy. Vì vậy, chỉ khi nào điều tiếtđược hiện thực khách quan với thế giới chủ quan trong sáng tác thì một tác gia mớicó thể được xem làm một nhà văn hiện thực phê phán đúng nghĩa.Một hệ quả nữa của tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình là hiệntượng “nhân vật nổi loạn” trong chủ nghĩa hiện thực. Tachiana từ bỏ việc chờ đợiOnegin để đi lấy chồng, Anna Carenina lao mình vào gầm tàu hỏa tự vẫn đều là bấtngờ với Puskin và L.Tônxtôi, việc dẫn đến kết cục bi thảm trong tác phẩm là điềukhông ai mong muốn, nhưng nhân vật đôi khi không làm những gì chúng ta muốn,mà làm những gì họ cần làm. Giả sử nếu tác phẩm cứ đi đến một hồi kết mĩ mãnbằng bất cứ giá nào, thì một tác phẩm hiện thực phê phán có còn đúng với chấtnguyên sơ của nó hay đã bị “lãng mạn” hóa đi phần nhiều. Quá trình sáng tác củamột tác giả có thể kéo dài khá lâu, trong khi viết, những nhận thức về cuộc sống19hay về hướng đi của các kiểu loại nhân vật cũng có phần biến chuyển, nên việc“nhân vật nổi loạn” ở đây chỉ là việc nhân vật đi chệch hướng so với dự tính khibắt đầu lóe lên ý tưởng sáng tác, nhưng hoàn toàn phù hợp với xu hướng về saucủa tác giả.Kể cả những nhà văn hiện thực nghiêm nhặt cũng thật khó để có được nhậnthức ban đầu đối với một nhân vật ngay từ khi đặt bút, nên vấn đề thay đổi, uốnnắn về tư tưởng, hành động của nhân vật cũng là điều dễ hiểu. Trong bản dự thảo“Phục sinh”, ban đầu L.Tôn xtôi đã định cho Nekhiudov ăn năn hối hận ngay từđầu và lập tức cưới Kachiusha khi vừa hay tin nàng mang trong người giọt máucủa anh. Và để tránh tai tiếng, hai người cùng nhau ra nước ngoài sinh sống.Nhưng bản thân L.Tôn xtôi tự cảm thấy viết như thế là lý tưởng hóa nhân vật,không bộc lộ hết bản chất xã hội để thông qua đó tác giả có thể tố cáo và phê phánhiện thực. Bởi vậy cho nên, L.Tôn xtôi dứt khoát để cho Nekhiudov xa rờiKachiusa, khiến nàng cùng đứa con lâm vào bước đường cùng, phải dấn thân vàocuộc đời gió bụi của gái giang hồ để nuôi con và nuôi thân. Sau cùng, họ được gặplại nhau tại một phiên tòa mà tại đây, chính Nekhiudov lại là người cầm cán cânđạo đức luận tội Kachiusa. Chính việc đặt nhân vật vào tình thế “nổi loạn” khôngtheo motif lãng mạn thông thường như thế đã đẩy nhân vật lên đến đỉnh điểm củabi kịch, qua đó lột tả hết giá trị hiện thực mà tác giả muốn gửi gắm.Hay một minh chứng khác tại văn học Việt Nam, ở “Chí Phèo”, nếu xuôitheo dòng tư tưởng, hoàn lương của một kiếp người, thì Chí ắt không chết thảmnhư thế, có thể Chí đã trở về với cuộc sống của một con người bình thường vớinhững ước mơ hạnh phúc giản đơn bên Thị Nở. Ấy vậy, sau cùng khi mâu thuẫnđược đẩy lên cao trào không thể hòa giải được, Nam Cao đã để cho Chí Phèo giếtBá Kiến rồi tự kết liễu đời mình trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống lương thiện. Đó,20chính là những “nhân vật nổi loạn”, là cái tính cách hệ quả của hoàn cảnh điểnhình, và đó mới là văn học hiện thực phê phán.Nhưng cần lưu ý rằng không phải bất cứ nhân vật nào trong chủ nghĩa hiệnthực cũng “nổi loạn” dù logic nội tại và quy luật phát triển khách quan luôn tồn tạitrong mỗi nhân vật. Bởi nếu đó là nhân vật giản đơn hay nhân vật phức tạp, vốn dĩnhà văn đã quen thuộc và đã dự kiến đúng đắn vận mệnh cũng như tính khách quancủa nó ngay từ đầu. Cũng vì vậy, chỉ chính bản thân tác giả mới có thể trả lời chínhxác nhất nhân vật của mình có “nổi loạn” hay không mà thôi.V.HỆ THỐNG THI PHÁP:1. Kế thừa có đổi mới thi pháp lãng mạn chủ nghĩa:Dưới cái nhìn với tư cách là hai trào lưu văn học thì chủ nghĩa lãng mạn vàchủ nghĩa hiện thực trên tổng thể có những phương pháp sáng tác khác nhau. Nếucó đối lập giữa chủ nghĩa hiện thực phê phán với chủ nghĩa lãng mạn tiêu cực, thìcũng có sự gần gũi giữa nó với chủ nghĩa hiện thực tích cực. Vào cuối thế kỉXVIII, chủ nghĩa lãng mạn như một sự phản ứng mạnh mẽ chống lại chủ nghĩa cổđiển – trào lưu văn học đã ngự trị ở thời kì trước. Với chủ trương thoát li ra khỏimọi quy chế gò bó, không vừa vặn trước đó, các chuẩn mực và nghệ thuật của chủnghĩa lãng mạn trở nên phóng túng, tự do của chủ nghĩa lãng mạn đã vượt xa cáicũ rích, không vừa vặn của chủ nghĩa cổ điển. Từ đó, chủ nghĩa lãng mạn đã dựngđược cho mình một chỗ dứng vững chắc, phá vỡ sự thống trị của chủ nghĩa cổđiển, tạo nên một sự cách tân vô cùng táo bạo. Nhưng đến đầu thế kỉ thứ XIX, chủnghĩa lãng mạn vẫn không thể trụ vững trước sự xuất hiện của chủ nghĩa hiện thực.Do đáp ứng được nhu cầu thẩm mĩ và thực tiễn cuộc sống nhiều mâu thuẫn mà chủnghĩa hiện thực đã giành lợi thế về mình. Mặc dù vậy, những tiến bộ của chủ nghĩa21hiện thực vẫn là dựa trên những tiền đề có trước đó của chủ nghĩa lãng mạn mà đàosâu, cũng như thay đổi chiều hướng tiếp cận nó. Chủ nghĩa hiện thực phê phán vàchủ nghĩa lãng mạn tích cực, hai phương pháp này ra đời cách nhau không xa lắm.Hơn nữa cả hai đều song song tồn tại khoảng trên dưới hai mươi năm. Đi sâu hơn,ta càng thấy rõ sự xâm nhập, tác động lẫn nhau giữa hai phương pháp này qua sựgiao nhau của một vài tác giả, tác phẩm. Như vậy, chủ nghĩa hiện thực phê phán rađời sau có cơ hội kế thừa và tiếp thu sáng tạo chủ nghĩa lãng mạn tích cực về mộtvài phương diện thi pháp.Việc mở rộng thêm đề tài là nét nổi bật của phương pháp sáng tác này. Trêncơ sở là chính chủ nghĩa lãng mạn tích cực giải phóng nghệ thuật bằng cách mởrộng đề tài, xóa bỏ sự ngăn cách giữa cái cao quý và cái thấp hèn, cái cao cả vớicái kệch cỡm, cái đẹp với cái xấu thì chủ nghĩa hiện thực với cảm hứng chủ đạo làphê phán, chủ nghĩa hiện thực đã tái hiện một cách chân thực những cái hằng ngày,kể cả mọi cái hèn kém, xấu xa của đời sống vào nghệ thuật. Phê phán những cái tệlậu tức là, dù gián tiếp, ca ngợi lí tưởng. Nhà mĩ học Pháp Xêâygiơ nói chủ nghĩahiện thực phê phán chính là “chủ nghĩa lí tưởng xấu xa” là theo nghĩa như vậy. Tadễ dàng nhận thấy điều này trong nhiều tác phẩm. Đó là những tác phẩm củaBandắc “bao trùm cả lịch sử và sự phê phán xã hội, sự phân tích, những tệ lậu vàsự tranh luận về những nguyên lí của nó” [Tựa Tấn trò đời]. Đó là những truyệnngắn đặc sắc của Sêkhốp phản ánh thói dung tục và bi kịch đời thường của conngười, khi mà thói dung tục nhan nhản khắp nơi, biểu hiện muôn hình vạn trạng,nó âm thầm hủy hoại những giá trị tốt đẹp của con người, nhấn chìm họ trong bùnlầy bi kịch.Gắn liền với đó, chủ nghĩa lãng mạn chú ý khai thác đề tài tronglịch sử dân tộc mình và chủ nghĩa hiện thực phê phán đã tiếp nối truyềnthống đó. Trên tinh thần tái hiện lại giai đoạn lịch sử nào đó của dân tộc22một cách chân thật và khách quan nhất, chủ nghĩa hiện thực còn tác độngmạnh mẽ vào tâm hồn người tiếp cận khiến cho họ rung cảm thật sự vớinhững bi thảm, đau thương của hiện thực khắc nghiệt ấy. Theo tinh thầnđó, không những xã hội hiện đại mà cả những biến cố trong lịch sử nướcPháp vẫn tìm được sự phản ánh trong các tác phẩm hiện thực phán Pháp:“Giắccơri”, “Thời sự triều đại Sáclơ IX”, “Chiếm đồn” của PrôxpeMêrimê; “Những người Suăng”, “Một việc ám muội” của Bandắc… Trongvăn học hiện thực Nga cũng có sự mở rộng đề tài lịch sử dân tộc, đó là bộtiểu thuyết sử thi “Chiến tranh và hòa bình” của L.Tônxtôi miêu tả mộtgiai đoạn vinh quang của lịch sử dân tộc – cuộc chiến tranh Vệ quốc vĩđại 1812, đó là bản anh hùng ca về tập thể nhân dân, trong đó số phậncủa mỗi cá nhân gắn bó với vận mệnh chung của Tổ quốc.Bên cạnh đó, chủ nghĩa hiện thực hướng về những vấn đề xã hội rộng lớnnhưng vẫn tiếp thu việc đề cao chất trữ tình trong văn học của chủ nghĩa lãng mạn.Biểu hiện là sự vận dụng thể loại tự truyện trong chủ nghĩa lãng mạn. Tuy nhiên, vìgắn chặt với hoàn cảnh xã hội, những phương diện mang tính chất tự thuật trongchủ nghĩa hiện thực phê phán đã mất tính chất trừu tượng và có phần mơ hồ trongchủ nghĩa lãng mạn, trở nên sâu sắc và toàn diện hơn. Bi kịch của hàng loạt nhânvật như: Juyliêng Xoren của Xtăngđan, Raphaen đơ Valentin của Bandắc, Phrêđêric Môrô của Phlôbe, một phần phản ánh chính con người của tác giả, đồng thờiphản ánh sâu sắc bi kịch của cả một lớp thanh niên thời đại sống trong mối mâuthuẫn đau xót giữa cá nhân và xã hội tư bản chạy theo đồng tiền, ngày càng biếnchất và đi vào con đường bế tắc.Như vậy, theo quy luật kế thừa và sáng tạo của văn học, một thành tựu mớikhông bao giờ là thành quả đột xuất mà luôn được hình thành từ những tiền đề cósẵn, trên cơ sở đó sáng tạo nên những giá trị mới của mình. Chủ nghĩa hiện thực23cũng vậy. Một mặt, sự xuất hiện của trào lưu này là để đáp ứng những yêu cầu mớimà chủ nghĩa lãng mạn không còn đáp ứng được, nhưng mặt khác, nó vẫn tiếp thunhiều yếu tố tích cực của chủ nghĩa lãng mạn như việc mở rộng đề tài, thể loại vàcác phương tiện nghệ thuật, việc xem trọng yếu tố chủ quan, đời sống nội tâm củacon người,... Hơn nữa, quá trình hình thành và phát triển của hai trào lưu nàykhông phải điểm kết thúc cái này là điểm bắt đầu của cái kia mà trong khi cái nàychưa hoàn bị, cái kia đã manh nha và chúng cùng tồn tại và tương tác với nhau đểcùng hoàn thiện.2. Sự chân thực của chi tiếtBên cạnh vấn đề về việc điển hình hóa nhân vật thì sự chân thực của mỗi chitiết cũng là một khía cạnh hết sức quan trọng. Các chi tiết chính là phương tiện chủyếu để mô tả, thêu dệt, lột tả những gì mà một tác phẩm văn chương muốn truyềntải. Cơ bản, chi tiết là đơn vị nhỏ nhất mà ta có thể chia ra thành những phần nhỏ.Trong một tác phẩm văn học, chi tiết có thể là một dáng hình, một cử chỉ, một hànhđộng, một khâu quan hệ. Chi tiết chân thực là những cái có thể có thật hoặc có thểcó thật trong đời sống xã hội được đưa vào trong tác phẩm. Vì thế, chính các chitiết chân thực là thành tố quan trọng tạo sự thành công cho một tác phẩm. Văn họclà hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, cho nên bất kì phương pháp sang tácnào đi chăng nữa cũng đều ít nhiều sử dụng ít nhiều các chi tiết chân thực.Chủ nghĩa cổ điển cũng đã thấp thoáng một vài bóng dáng những chi tiếtchân thực. Đến chủ nghĩa lãng mạn, việc sử dụng chúng được phổ biến hơn. Tuynhiên, chủ nghĩa lãng mạn tuân theo nguyên tắc chủ quan, phát huy tối đa kiểusáng tác tái tạo, nên không thể dùng quá nhiều chi tiết chân thực: “Nghệ thuậtkhông phải là sự mô tả thực tại có thực, mà là sự tìm tòi chân lí ở lí tưởng” [GorgiơXăng]… Ngược lại, chủ nghĩa hiện thực tuân theo nguyên tắc khách quan, pháthuy cao độ kiểu sáng tác tái hiện và tôn trọng sự thật: “Tái hiện sự thật, thực tại24cuộc sống một cách chân thực và mạnh mẽ là hạnh phúc cao quý nhất của nhà vănngay cả khi sự thật ấy không phù hợp với những thiện cảm riêng của nhà văn”[Tuốcghênhép].Trong “Evgeni Onegin”, Pushkin đã sử dụng tối đa một lượng lớn chi tiếtchân thực. Cảnh nông thôn nước Nga xưa hiện lên với những con đường đất gồghề chật hẹp, cỗ xe tam mã, mùa đông bão tuyết, rồi cả những phong tục tập quánnhư điệu vũ dân gian, tục lệ ma chay, gả bán. Ông còn miêu tả tỉ mỉ những kháchthính tráng lệ ở Pêtécbua với những dạ hội, yến tiệc, trong đó bọn quý tộc dèm pha,nói xấu, châm chọc nhau. Mỗi chi tiết hiện lên như một gợi ý chấm phá bổ sungcho đối tượng miêu tả được toàn diện hơn. Ngay cả việc hình thành nét tính cáchnhân vật cũng cần có những chi tiết chân thực ấy. Chẳng hạn chi tiết nhỏ như“Tachiana hồi nhỏ không thích chơi búp bê, ít nói, ít cười, hay sợ sệt như một connai rừng thức dậy trước mặt trời, thích mùa đông giá lạnh, khi yêu thì trò chuyệnbâng quơ và gắt lên với vú già…”. Chính những chi tiết nhỏ tưởng chừng như vônghĩa ấy lại là nét vẽ tô đậm lên tính cách đằm thắm, hồn hậu, vừa giản dị sốngđộng, vừa sâu sắc bí ẩn của nàng Tachiana.Văn học Việt Nam hiện thực 1930 – 1945 cũng có sự tiếp nhận thi pháp này.Các tác giả chú ý và sử dụng đắt giá những chi tiết chân thực giúp tái hiện rõ cuộcsống hiện thực, cũng như gợi mở về tính cách và số phận các nhân vật. Các nhânvật của Nam Cao đều có vẻ bề ngoài xấu xí đến “quái dị”. Làm sao có thể đẹp, cóthể cường tráng, khỏe mạnh trong một môi trường sống như thế này: “Nhà cửa lưathưa. Toàn những nhà tre úp xúp giữa những khu vườn rộng thì có rộng, nhưng xấulắm: mía đốt như lau hoặc khẳng khiu như chân gà, chuối lè tè như những cây raudiếp ngồng, dĩ chí đến cây khoai lang, cây ráy cũng không lên được. Người xấu xívà rách rưới. Cái số trẻ con bụng ỏng mắt toét ngoài đường sẵn lắm”. Gương mặt“ma chê quỷ hờn” của Thị Nở, bộ mặt “như tổ ong bầu, mắt trắng môi thâm, mà25

Chủ Đề