Từ năm 1858-1884 triều đình huế kí với pháp 4 bản hiệp ước gồm : -Hiệp ước Nhâm Tuất kí ngày 5/6/1862 -Hiệp ước Giáp Tuất kí ngày 15/3/1874. -Hiệp ước Quý Mùi [Hacmang] kí ngày 25/8/1883 -Hiệp ước Patonot kí ngày 6/6/1884.
-Hiệp ước thứ nhất là hiệp ước Nhâm Tuất: ngày mùng 5 tháng 6 năm 1862 triều đình Huế kí hiệp ước Nhâm Tuất những cho chúng nhiều quyền lợi. Bản hiệp ước có nội dung như sau, triều đình Huế thừa nhận quyền cai quản của Pháp ở ba tỉnh Đông Nam Kì và đảo Côn Lôn ,mở ba cửa biển cho Pháp vào buôn bán, cho phép người Pháp và Tây Ban Nha tự do truyền đạo Gia Tô bãi bỏ cấm đạo trước đây bồi thường cho Pháp một khoản chiến phí tương đương 280 vạn lượng bạc khác xe trả lại thành Vĩnh Long cho triều đình chừng nào triều đình Quốc được dân chúng ngưng kháng chiến. -Hiệp ước thứ hai là hiệp ước Giáp Tuất: sau chiến thắng Cầu Giấy phát hoang mã còn quân dân ta thì phấn khởi càng hăng hái đánh giặc. Trong khi đó triều đình Huế lại kí với thực dân Pháp hiệp ước Giáp Tuất vào ngày 15 tháng 3 năm 1874 . Theo đỏ pháp xây rút khỏi Bắc Kỳ còn triều đình thi chính thức thừa nhận 6 Tỉnh Nam Kỳ hoàn toàn thuộc Pháp, hiệp ước đã làm mất một phần quan trọng chủ quyền lãnh thổ ngoại giao và thương mại của Việt Nam. -Hiệp ước Hác măng còn gọi là Quý Mùi: tháng 8 năm 1883 hạm đội Pháp bắt đầu bắn phá dữ dội ở các pháp đại ở cửa Thuận An Bắc Kỳ. Chúng đổ bô lên khu vực này triều đình xin đình chiến . Cái uy của Pháp lên nhanh Huế và đưa ra một bản hiệp ước triều đình chấp nhận. Nội dung: triệu đi Nguyễn Chính thức thừa nhận nền bảo hộ của Pháp ở bắc kì và trung kì, các tỉnh Bình Thuận ra khỏi Trung kỳ để nhập vào đất Nam kỳ thuộc Pháp. Ba tỉnh thanh-nghệ-tĩnh được sát nhập vào Bắc Kỳ, những mọi việc đều phải thông qua viên Khâm sứ Pháp ở Huế. Cũng sự khác ở các tỉnh bắc kì thường xuyên kiểm soát những công việc của quan lại triều đình ngắm các quyền trị an và nội vụ. Mọi việc giao thiệp với nước ngoài đều do pháp nắm. Triều đình Huế phải rút quân đội ở Bắc kỳ về Trung Kỳ. -Hiệp ước pa-tơ-nốt : năm 1884 phát lại bắc triều đình Huế kí tiết bản hiệp ước với có nội dung cơ bản giống với hiệp ước hắc măng chỉ sửa đổi đôi chút về ranh giới khu vực Trung Kỳ nhằm xoa dịu dư luận và lấy lòng vua quan phong kiến bù nhìn.
Hòa ước Nhâm Tuất [1] là hiệp ước bất bình đẳng giữa Việt Nam và Đế quốc Pháp, theo đó Việt Nam nhượng lại vùng lãnh thổ Nam Kỳ gồm Biên Hòa, Gia Định, và Định Tường lại cho Pháp.
Bản đồ Nam Kỳ Lục Tỉnh giai đoạn [1841-1862]. Theo sử liệu thì nguyên nhân triều đình Tự Đức phải ký kết hiệp ước là vì lúc đó ở Bắc Kỳ có các cuộc nổi dậy đang đánh phá dữ dội [đáng kể nhất là của: Tạ Văn Phụng và Cai Tổng Vàng, Nông Hùng Thạc]...mà trong Nam Kỳ thì thực dân Pháp đã đánh chiếm được bốn tỉnh là: Gia Định, Định Tường, Biên Hòa và Vĩnh Long[4]. Sau khi so sánh hai mối nguy, triều đình Tự Đức bèn sai Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vào Sài Gòn giảng hòa với thực dân, để có thể đưa đại quân ra tiêu diệt các cuộc nổi dậy ở đất Bắc đang uy hiếp ngai vàng của dòng họ Nguyễn[5]. Diễn biếnSửa đổiTheo sử gia Phạm Văn Sơn, thì:
Theo G. Taboulet[7] thì tàu Forbin đưa sứ bộ rời Huế vào ngày 28 tháng 5 năm 1862, đến Sài Gòn vào ngày 3 tháng 6 năm 1862, qua ngày 5 tháng 6 năm 1862 [9 tháng 5 âm lịch năm Nhâm Tuất] thì hai bên ký bản hòa ước trên tàu chiến Duperré của Pháp đậu ở bến Sài Gòn. Ký hòa ước xong, triều đình phái Phan Thanh Giản làm tổng đốc Vĩnh Long, Lâm Duy Hiệp làm tuần phủ Khánh Thuận, để giao thiệp với các quan nước Pháp ở Gia Định. Tháng 2 năm Quý Hợi [1863], thiếu tướng Bonard và đại tá Palanca ra Huế gặp vua Tự Đức để công nhận sự giảng hòa của ba nước. Xong rồi thiếu tướng Bonard về Pháp nghỉ, Chuẩn đô đốc La Grandière sang thay. Bấy giờ nước Tây Ban Nha cũng nhường quyền lấy đất làm thuộc địa cho nước Pháp, chỉ nhận tiền binh phí và quyền được cho giáo sĩ đi giảng đạo mà thôi. Hiệp ước Nhâm Tuất tồn tại cho đến ngày 15 tháng 3 năm 1874, thì bị thay thế bằng Hoà ước Giáp Tuất 1874, theo chiều hướng có lợi cho Pháp hơn nữa. Tháng 4/1862, phía Pháp cử thiếu tá Simon đi tàu đến cửa Thuận An đưa thư yêu cầu phía Đại Nam cử một đại diện đứng ra đàm phán. Vua Tự Đức cho nhóm họp các quan đại thần bàn về hòa ước, nhà vua đã nói với quần thần rằng: “Tạm thời khuất mình, tạm thời chịu phí, mà có thể cứu được quân dân, không bị mất đất đai thì nên lắm” [8] Hai quan đại thần Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp xin đi Sài Gòn để hội đàm với Pháp, nhà vua đã ưng thuận. Trước khi đoàn sứ lên đường, vua Tự Đức đã rót ngự tửu ban cho và dụ rằng: “Đất đai quyết không thể nào cho được, tà giáo [ý nói Cơ Đốc giáo] quyết không cho tự do tuyên truyền”.[9] Khi biết tin sứ bộ Phan Thanh Giản vượt quyền, đặt bút ký vào bảng sơ thảo hiệp ước, cắt nhượng đất 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ thì vua Tự Đức thất vọng nói rằng: “Thương thay con đỏ của lịch triều, nào có tội gì?”. [10] Vua Tự Đức trừng phạt 2 viên chánh phó sứ bằng cách bổ nhiệm Phan Thanh Giản làm Tổng đốc Vĩnh Long, Lâm Huy Hiệp làm Tuần phủ Thuận – Khánh [Bình Thuận và Khánh Hoà ngày nay] – đây là những tỉnh giáp với vùng đất vừa nhượng cho Pháp, để 2 vị đại thần này nối lại các cuộc thương quyết, chuộc sai lầm đã phạm. Hòa ước Nhâm Tuất có 12 khoản, trừ các điều khoản có tính cách ngoại giao, thì 9 khoản sau đây được coi là quan trọng hơn cả:
Bản đồ các tỉnh Gia Định, Định Tường và Biên Hòa trong bản đồ hành chính Cochin Chine khu vực thuộc Pháp kiểm soát năm 1863 [Basse Cochinchine Francaise] và trước đó là Nam Kỳ Lục tỉnh năm 1859 [Basse Cochinchine]. [Henri Rieunier [1833-1918] vẽ năm 1863.] Sau khi nhận ra sự thua thiệt của mình, và nghe thấy sự bất bình của sĩ dân miền Nam; nên song song với việc điều quân đi trấn áp các cuộc nổi dậy ở đất Bắc, triều đình Tự Đức cũng lên kế hoạch khẩn trương để đi chuộc đất, nhưng không thành công[15] Sách Việt Nam sử lược chép: Vua Dực Tông tuy thế bất đắc dĩ phải nhường đất ba tỉnh Nam Kỳ cho nước Pháp, nhưng trong bụng vẫn muốn cố hết sức để chuộc lại, vì là đất Gia Định là đất khai nghiệp của nhà Nguyễn và lại là đất quê ngoại của ngài, nên chi hoà ước đã ký rồi, mà ngài vẫn sai quan thương nghị với quan nước Pháp về việc ấy. Mà chủ ý người nước Pháp lúc bấy giờ thì không những là chỉ giữ lấy ba tỉnh mà thôi, lại còn định mở rộng thêm ra nữa. Vậy lẽ nào lại đem trả lại cho mình?. Vua Dực Tông thấy việc này bàn không xong, bèn sai sứ đem phẩm vật sang sứ nước Pháp và nước I-pha-nho [Tây Ban Nha]...[16]Sách Việt sử tân biên [quyển 5] chép: Ngày 14 tháng ấy, ông Phan và Lâm về kinh tâu bày sự việc. Vua Tự Đức vừa than vừa thống trách hai vị sứ thần. Cả triều đình đều bất đồng ý kiến về nội dung của hòa ước, nhưng đòi sửa đổi ngay thì biết rằng không được, nên đề nghi cho Phan, Lâm trở lại để giao thiệp với súy phủ Sài Gòn...Hai ông Phan, Lâm bấy giờ chỉ ôm nỗi khổ tâm của mình rồi lên đường vào Nam[17].Đối với sĩ dân Nam Kỳ, kể từ sau hòa ước này, ngọn cờ chống thực dân Pháp xâm lược đã chuyển hẳn sang tay nhân dân, lần lượt từ ba tỉnh miền Đông sang ba tỉnh miền Tây [mở đầu là cuộc khởi nghĩa của Trương Định], rồi từ Nam ra Bắc, tạo thành nội dung chủ yếu của lịch sử Việt Nam hồi nửa sau thế kỷ 19 [18]. Bài chi tiết: Dự thảo Hòa ước Aubaret Đoàn sứ thần Phan Thanh Giản tiếp kiến Hoàng đế Napoleon III tại Paris năm 1863, với mong muốn xin chuộc lại 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ mất trong Hòa ước Nhâm Tuất Sau khi ký kết với đại diện của Pháp Hòa ước bất bình đẳng 1862, vua Tự Đức và triều thần tiến hành xúc tiến ngoại giao để chuộc lại đất 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ vừa mất theo điều khoản số 3 của hoà ước. Cơ sở để vua Tự Đức cử sứ bộ Phan Thanh Giản đi Pháp và Tây Ban Nha dựa vào nội dung điều 6 của Hiệp ước Nhâm Tuất, rằng "khi nền hòa bình được thiết lập, nếu cần giải quyết một vụ việc quan trọng, nhà lãnh đạo của một trong ba nước có thể cử đại diện của mình tới thủ đô hai nước còn lại". Trong mắt triều đình Huế lúc bấy giờ, Bonard đã vượt thẩm quyền của mình khi đưa ra yêu cầu nhượng đất [điều 3], nên họ vẫn còn nuôi chút hy vọng thay đổi tình hình.[19] Đoàn sứ thần của Đại Nam đến Pháp gồm có chánh sứ Phan Thanh Giản, phó sứ Phạm Phú Thứ và bồi sứ Ngụy Khắc Đản. Bonard đã viết thư báo cáo cho chính phủ pháp về sự việc này, Ngoại trưởng Pháp Drouyn de Lhuys viết thư [ngày 23.6.1863] cho Bộ trưởng Hải quân và thuộc địa Chasseloup-Laubat tỏ vẻ lo lắng vì tham vọng của người Pháp nuốt trọn Nam Kỳ có thể bị ngăn cản nếu Hoàng đế Napoleon III cho sửa lại điều khoản thứ 3 trong Hoà ước 1862, trả lại 3 tỉnh cho Nhà Nguyễn. Những điều lo lắng của các bộ trưởng trong chính phủ Pháp đều trở thành sự thật khi Hoàng đế Pháp đồng ý thay thế Hoà ước 1862 bằng một hoà ước mới và cử Aubaret, Lãnh sự Pháp ở Bangkok đến Huế để đàm phán vào giữa năm 1864. Dự thảo Hòa ước Aubaret đã được ký kết giữa Aubaret và Phan Thanh Giản. Theo bản dự thảo này, Pháp trả lại cho Đại Nam 3 tỉnh đã cắt nhượng trước đó là Biên Hoà, Gia Định và Định Tường, bù lại, Nhà Nguyễn để Pháp bảo hộ 6 tỉnh Nam Kỳ, bồi thường chiến phí 80 triệu franc... Sau khi dự thảo của hoà ước được ký 5 ngày thì Aubaret nhận được thư từ Paris, yêu cầu ông huỷ bảng hoà ước mới kỳ. [20] Trong sử nhà NguyễnSửa đổiTrong sách Đại Nam chính biên liệt truyện [phần chép về Phan Thanh Giản] có đoạn kể vắn tắt lại sự việc trên như sau: Năm thứ 15 [1862], tướng Pháp ở Gia Định mang thư đến nghị hòa. Đình thần xin cho sứ đi lại là phải. Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp xin đi. Vua chuẩn cho hai viên ấy sung làm chánh, phó sứ toàn quyền đại thần. Vua rót rượu ngự ban cho, và bảo nên biện bác sao cho khéo. Khi các ông đến Gia Định, tướng Pháp bức bách ta phải nhường giao đất đai và phải chịu tiền bồi thường. Việc đến tai vua, vua xuống dụ khiển trách nghiêm nghị, đổi làm lĩnh Tổng đốc Vĩnh Long, cùng tướng Pháp bàn làm, để chuộc tội...[21]Trong sách PhápSửa đổiTrích trong sách La question de Cochinchine au point de vus des intérêts français của tác giả H. Abel [là sĩ quan hải quân trong bộ tham mưu của đô đốc Charner một người có vai trò quan trọng ở Nam Kỳ từ năm 1860 đến năm 1865[22]] ...Triều đình Huế phải đối phó rất gay go cùng một lúc với chiến tranh ở Bắc và ở Nam thì rất nguy hiểm…Thế nhưng sau khi ký hòa ước 5 tháng 6 năm 1862, triều đình Tự Đức nhận ngay ra sai lầm nghiêm trọng của mình. Và sách lược của Huế là phải chuộc lại lỗi lầm trên, nhưng về biện pháp thì lại vừa biểu hiện "quyết tâm của kẻ yếu thế", vừa bộ lộ sự "lúng túng, không quyết đoán" của họ. ...Bấy lâu nay, triều đình Huế vẫn tỏ ra câm lặng trước mọi phương án, bỗng quay ra chấp thuận những điều khoản của hiệp ước…Phải chăng đây là kế sách của một triều đình đã đến bước đường cùng khi nhận ra sức mạnh của đối phương, và đành phải khuất phục để tránh những tai họa lớn hơn? Hay đây là sự thắng thế của phe phái này đối với phe kia trong triều đình? Hay phải chăng đây là do ảnh hưởng của một nhân vật không ngoan? [ám chỉ Trương Đăng Quế]. Hẳn là đã có tất cả các lý do trên [23].Trong sách ViệtSửa đổi
Ngoài ra, theo nhà giáo Ca Văn Thỉnh thì đây là một "hàng ước", còn theo giáo sư Trần Văn Giàu thì "đây là một sự phản bội đối với những người kháng chiến", vì sau hiệp ước này phong trào chống thực dân Pháp của nhân dân Việt khó khăn hơn trước: nghĩa quân sẽ phải đơn độc đối phó với đối phương. Quan trọng hơn nữa là triều đình không chỉ ra lệnh bãi binh, mà lại còn tiếp tay truy lùng các thủ lĩnh cho họ![32]
....
Video liên quanChủ Đề |