So sánh Tuyên ngôn độc lập và Tây Tiến

Chuyên đề văn học "Tây Tiến" của Quang Dũng & phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân & "Tuyên ngôn Độc lập"_1 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [214.67 KB, 8 trang ]

Chuyên đề văn học
"Tây Tiến" của Quang Dũng & phong cách
nghệ thuật của Nguyễn Tuân & "Tuyên ngôn
Độc lập", Chủ tịch Hồ Chí Minh

ĐỀ RA
* Câu 1.
Anh [chị] hãy bình giảng đoạn thơ sau đây trong bài thơ "Tây Tiến" của
Quang Dũng:
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa".
* Câu 2.
Một trong những nét phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân là nhìn
con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ.
Anh [chị] hãy phân tích nhân vật người lái đò trong tuỳ bút "Người lái
đò Sông Đà" để làm sáng tỏ nhân định trên.
* Câu 3.
Kết thúc bản "Tuyên ngôn Độc lập", Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh
trọng tuyên bố rằng:
"Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành
một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả
tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do,
độc lập ấy".
Dựa vào những hiểu biết về tác phẩm "Tuyên ngôn Độc lập" anh [chị]
hãy phân tích đoạn văn trên để làm sáng tỏ những tư tưởng lớn của
Người.

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
Hướng dẫn [Câu 1]


1. "Tây Tiến" là bài thơ tiêu biểu của Quang Dũng và của thơ ca thời kì
kháng chiến chống thực dân Pháp. Cả bài thơ là một hồi tưởng, bốn câu
thơ bình giảng ở đây cũng là hồi tưởng.
Sau cảm hứng tràn đầy về cuộc hành trình đầy gian khổ, tự hào của các
chiến sĩ Tây Tiến, bài thơ gợi lại những kỉ niệm sâu sắc, một thời từng
gắn bó với đoàn quân Tây Tiến. Bên cạnh hình ảnh chan hòa màu sắc
âm thanh [xiêm y của các cô gái miền Tây và nhạc điệu tiếng khèn] của
"hội đuốc hoa" là cảnh sông nước miền Tây mênh mang, mờ ảo.
2. Không gian dòng sông trong một buổi "chiều sương" ở Châu Mộc thật
lặng lờ, hoang dại. Bên dòng sông đậm màu sắc cổ tích, huyền thoại ấy,
thiên nhiên qua ngòi bút tài hoa của Quang Dũng như có linh hồn phảng
phất trong gió, trong cây:
"Có thấy hồn lau nẻo bến bờ".
3. Quang Dũng không tả mà chỉ gợi. Và cái "dáng người trên độc mộc"
cũng là gợi, nhưng vẫn làm rõ cái dáng đứng đẹp của những chàng trai,
cô gái trên con thuyền độc mộc lao trên sông nước. Như hòa hợp với con
người, những bông hoa rừng cũng "đong đưa" làm duyên trên dòng
nước lũ. Ở đây là cái nhìn đầy tính chất tạo hình của một họa sĩ.
4. Bốn câu thơ như một bức tranh thuỷ mặc với những nét vẽ chấm phá,
tinh tế, mềm mại, tài hoa truyền được cái hồn của cảnh vật.
Gợi ý bài làm [Câu 1]
Một trong những thành tựu chói lọi của thơ ca kháng chiến chống Pháp
là những bài thơ viết về anh bộ đội Cụ Hồ: "Đồng chí" [Chính Hữu],
"Đèo Cả", "Màu tím hoa sim" [Hữu Loan], "Viếng bạn" [Hoàng Lộc],
"Lên Tây Bắc", "Hoan hô chiên sĩ Điện Biên" [Tố Hữu], "Tây Tiến"
[Quang Dũng], v.v Trong đó, bài thơ "Tây Tiến" mãi mãi là một tráng
ca anh hùng của đất nước và con người Việt Nam trong thời đại Hồ Chí
Minh.
Sau hơn một năm trời, cùng đồng đội trong đoàn binh Tây Tiến vào sinh
ra tử tại chiến trường miền Tây, Quang Dũng được điều động đi nhận

nhiệm vụ mới. Tại Phù Lưu Chanh [Hà Tây], ông viết bài thơ "Tây Tiến"
này [1948]. Bài thơ đầy ắp nỗi nhớ và niềm tự hào đối với chiến trường
miền Tây, đối với đồng đội và đoàn binh Tây Tiến thân yêu một thời
trận mạc.
"Tây Tiến" được viết theo thể thơ thất ngôn, như những liên khúc trường
thiên, dài 34 câu, chia làm 4 phần:
- Phần I, 14 câu: nhớ chiến trường miền Tây.
- Phần II, 8 câu: nhớ hội đuốc hoa và chiều sương Châu Mộc.
- Phần III, 8 câu: tự hào về đoàn binh Tây Tiến anh hùng.
- Phần IV, 4 câu: càng bồi hồi thương nhớ
Bốn câu thơ dưới dây nằm trong phần II bài "Tây Tiến". Sau nỗi nhớ
"em" trong xiêm áo rực rỡ, nhớ khèn, nhớ "nàng e ấp" trong "hội đuốc
hoa" là nỗi nhớ miền đất lạ:
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa".
"Người", nhân vật trữ tình phiếm chỉ, vừa là đồng đội, vừa nhà nhà thơ.
Nỗi nhớ vơi đầy, nhớ Mộc Châu một chiều sương. Hình ảnh "chiều
sương" rất gợi, như dẫn hồn người nhập và một thế giới hoang sơ, lặng
tờ mang màu sắc cổ tích, đó là một chiều thu chiến khu đã phủ mờ
sương khói hoài niệm. Mộc Châu thuộc tỉnh Sơn La, nơi có dãy núi Pha
Luông cao 1.880m "Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống" như mái
nhà chọc trời. Là nơi có bản Pha Luông sầm uất của đồng bào Thái [Tây
Bắc], nhà sàn lớp lớp nhấp nhô hiện lên trong màn mưa rừng: "Nhà ai
Pha Luông mưa xa khơi". Mộc Châu còn có những cánh đồng cỏ xanh
biếc mênh mông, là xứ sở của những đồi chè, đặc sản ở nước ta đã bao
đời nay. "Xoè xứ Thái, gái Pha Luông" đã trở thành ca dao, tục ngữ. Câu
thơ "Người đi Châu Mộc chiều sương ấy" như nhắc khẽ một nỗi niềm
với bao man mác bâng khuâng về một miền đất lạ, hoang vắng, xa xôi

Chữ "ấy" cuối câu trên bắt vần với chữ "thấy" ở phần đầu câu dưới, tạo
nên một vần lưng tài tình. Âm hưởng vần thơ cất lên như một tiếng thầm
thì "có thấy", một tiếng khẽ hỏi nhiều xao xuyến, mênh mang. Thật lắng
đọng và rất đỗi tài hoa:
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ".
"Nẻo" là lối đi, đường đi, là nơi chốn. "Truyện Kiều" có câu: "Nẻo xa
mới tỏ mặt người", hay "Bụi hồng dứt nẻo đi về chiêm bao", v.v "Nẻo
bến bờ" là nơi bến bờ sông suối hoang sơ, heo hút. Thi liệu - hình ảnh
"hồn lau" đầy thơ mộng là một nét đẹp của chiều sương Mộc Châu. Mùa
xuân, hoa lau nở tím rừng. Sang thu, hoa lau trắng rừng. Hoa lau, cờ lau
phất phơ, lá lau kêu xào xạc trong gió thu. Các thi sĩ gọi hồn lau cũng là
hồn của mùa thu. Tản Đà cảm nhận được hồn lau "chạy" trong gió thu:

"Một dãy lau cao làn gió chạy,
Mấy cây thưa lá sắc vàng pha".
[Thăm mả cũ bên đường]
Trong bài "Lau mùa thu", thi sĩ Chế Lan Viên viết:
"Ngàn lau cười trong nắng
Hồn của mùa thu về
Hồn mùa thu sắp đi
Ngàn lau xao xác trắng".
Câu thơ "Có thấy hồn lau nẻo bến bờ" đúng là "câu thơ mang đậm tâm
hồn một thi nhân" [Phan Cự Đệ].
Những năm đầu kháng chiến chống Pháp, chiến trường miền Tây vô
cùng dữ dội, ác liệt và gian khổ. Núi rừng hùng vĩ, hoang dại nhưng rất
thơ mộng đối với những chàng lính trẻ Tây Tiến. Các từ ngữ, hình ảnh:
"chiều sương", "hồn lau nẻo bến bờ" đã thể hiện một cách nhìn, cách
cảm thiên nhiên rất lạc quan yêu đời, yêu thiên nhiên của một hồn thơ
chiến sĩ hào hoa, tài hoa.

Điệp ngữ "có thấy" và "có nhớ" trong câu hỏi tu từ như hai nốt nhấn vào
cõi tâm linh, khẽ nhắc và khẽ hỏi. Hoài niệm về miền đất lạ bỗng trào
lên, ùa về:
"Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc".
Ở đây, nhạc của thơ cũng là nhạc của lòng. Phải sống hết mình với núi
rừng miền Tây, "chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh" mới có nỗi nhớ
ấy. Con thuyền độc mộc là một nét đẹp độc đáo của sông suối miền Tây.
Chế Lan Viên đã so sánh vầng trăng khuyết giữa núi rừng miền Tây như
con thuyền độc mộc:
"Những vầng trăng như con thuyền độc mộc
Xuôi ta trên Thời Gian - ngọn thác vô-cùng".
[Sông Lào]
"Dáng người trên độc mộc" là một nét vẽ rất gợi, tả ít mà gợi nhiều, đã
làm hiện lên dáng đứng đẹp, thanh nhẹ, trẻ tráng của những chàng trai,
những cô gái đang điều khiển con thuyền độc mộc lướt nhẹ như bay trên
dòng suối, dòng nước:
"Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa".
Chữ "trôi" rất tinh tế, gợi tả sự nhẹ nhàng, thanh thản; "Trôi dòng nước
lũ hoa đong đưa". Phải có "tay lái ra hoa" [chữ Nguyễn Tuân] thì mới
"đong đưa" đẹp như thế. Hình ảnh "hoa đong đưa" có 2 cách hiểu. Giáo
sư Phan Cự Đệ đã nhận xét: "Như hoà hợp với con người, những bông
hoa rừng cũng "đong đưa" làm duyên trên dòng nước lũ". Lại có người
cho rằng "hoa đong đưa" là một ẩn dụ nghệ thuật thể hiện bút pháp lãng
mạn, tài hoa của Quang Dũng. Cô gái Thái miền Châu Mộc xinh đẹp,
duyên dáng như một đóa hoa rừng đang lái con thuyền độc mộc trôi
nhanh, lướt nhanh trên dòng suối. "Dòng nước lũ" đã trở thành "suối
mơ" [nhạc của Văn Cao]. Cảnh sắc cao nguyên Mộc Châu càng trở nên
thơ mộng đáng yêu.

Thơ Quang Dũng không chỉ đẹp ở thi liệu, hình sắc mà còn hấp dẫn về
sự phong phú nhạc điệu, vần điệu. Vừa có vần chân [bờ - đưa] vừa có
vần lưng [ấy - thấy], vừa có điệp ngữ [có thấy có nhớ ] vừa có điệp
âm, điệp thanh [Châu Mộc - độc mộc; dòng - đong đưa], tất cả đã phối
hợp một cách hài hoà làm cho khổ thơ "tươi nhạc, tươi vần" [chữ của Tố
Hữu].
Về bằng trắc, niêm luật, 4 câu thơ trên đây, tự thân nó mang tính chuẩn
mực của một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Về thi liệu rất chọn
lọc, cổ điển: chiều sương, hồn lau, độc mộc, hoa đong đưa.
Bức tranh thiên nhiên và con người nơi Châu Mộc hơn nửa thế kỉ trước,
trong máu lửa chiến tranh đã được cảm nhận một cách thơ mộng qua bút
pháp nghệ thuật tài hoa, qua hồn thơ lãng mạn của khách chinh phu
trong thời đại Hồ Chí Minh. Đoạn thơ như một bức tranh thuỷ mặc với
vài nét vẽ mềm mại, tinh tế, biểu cảm, vừa mang màu sắc cổ điển, vừa
mang tính thời đại, hiện đại.

So sánh Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh và Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi

Dehoctot.edu.vn xin giới thiệu tới các em học sinh và quý thầy cô giáo bài phân tích sự giống và khác nhau chi tiết nhất giữa Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh và Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi giúp các em rèn luyện kĩ năng và phương pháp làm văn dạng đề so sánh sao cho mạch lạc, hấp dẫn.

Điểm giống nhau giữa Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh và Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi

Về lịch sử

Cả hai tác phẩm đều được viết vào thời điểm có ý nghĩa lịch sử trọng đại của đất nước:

“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi là kết thúc 10 năm gian khổ kháng chiến chống quân Minh của nghĩa quân Lam Sơn

“Tuyên ngôn độc lập” của HCM là kết thúc thời kỳ nước ta bị “một cổ 2 tròng” dưới 2 tầng áp bức của thực dân Pháp và phát xít Nhật] , và mở ra một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên tự do, độc lập của đất nước !

Về thể loại

Cả hai tác phẩm đều thuộc thể văn chính luận có bố cục chặt chẽ [3 phần] lập luận sắc sảo ; lý lẽ hùng hồn, mang tính luận chiến cao ; dẫn chứng rõ ràng cụ thể, chính xác ; tình cảm thiết tha,… .

Hai tác phẩm đều có chung ý nghĩa “tuyên bố rộng rãi cho toàn thể nhân dân được biết về nền độc lập tự do của dân tôc”.

Về nội dung

Cả hai tác phẩm đều có các nội dung cơ bản giống nhau, đều mang giá trị Văn học – nhân văn sâu sắc :
Hai bản tuyên ngôn đều xuất phát từ tư tưởng nhân đạo của dân tộc : Bình Ngô đại cáo đứng trên lập trường Nhân nghĩa của dân tộc là “yên dân – trừ bạo” ; còn Tuyên ngôn độc lập thì đứng trên lập trường quan điểm về quyền sống, quyền tự do, độc lập của dân tộc
Hai bản “tuyên ngôn” đều có nội dung tố cáo tội ác “trời không dung đất không tha” của giặc
Hai bản “tuyên ngôn” đều có nội dung “lược thuật tóm tắt quá trình chiến đấu của nhân dân vì độc lập tự do”
Hai bản tuyên ngôn đều có lời tuyên bố hòa bình , mở ra một thời kỳ độc lập tự o cho đất nước và ý chí quyết tâm giữ gìn nền tự do độc lập đó

Điểm khác nhau giữa Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh và Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi

Về thời đại lịch sử và hoàn cảnh sáng tác

Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi ra đời vào cuối năm 1427 đầu năm 1428 sau khi chiến thắng quân Minh
Tuyên ngông độc lập của Hồ Chí Minh ra đời vào ngay khi cách mạng tháng Tám thành công 1945 – thời điểm nóng bỏng đến kết thúc của chiến tranh Thế giới thứ 2.

Về thể loại

Cùng mang phong cách của văn chính luận, nhưng :
Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi được viết bằng chữ Nôm theo lối văn Biền ngẫu với thể loại “Cáo” dùng để kết thúc chiến tranh [thuộc nền văn học Trung đại] .
Tuyên ngôn độc lâoj của Hồ Chí Minh thì được viết theo lối văn hiện đại, bằng chữ Quốc ngữ [thuộc nền văn học Hiện đại]

Về cơ sở pháp lý

Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi dựa trên lập trường “Nhân nghĩa” của dân tộc Việt Nam [yên dân, trừ bạo]
Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh đứng trên lập trường “quyền bình đẳng, quyền độc lập, tự do của các dân tộc” trên thế giới

Về phạm vi ý nghĩa

Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi có phạm vi nội bộ trong nước Đại Việt, chỉ “xa gần bá cáo / Ai nấy đều hay” …
Tuyên ngôn độc lập của HCM ngoài việc tuyên bố trước toàn thể dân tộc Việt Nam, mà còn có ý nghĩa tuyên bố với toàn thế giới về độc lập chủ quyền của dân tộc Việt Nam và ngăn chận cả âm mưu tái xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp!
Ở thời điểm này, tại biên giới phía Bắc, Mỹ đứng sau quân Tàu -Tưởng đang lăm le tràn vào nước ta núp dưới bóng của tổ chức Vệt Nam quốc dân Đảng. Tại phía Nam, lính viễn chinh Pháp đang núp sau quân đội Anh vào giải giáp vũ khí của Nhật . Thực dân Pháp lại tuyên bố rằng : Đông Dương là thuộc địa của Pháp bị Nhật chiếm, nay Nhật đã đầu hàng, vậy Đông Dương đương nhiên thuộc quyền “bảo hộ” của người Pháp… Tuyên ngôn độc lập đã cương quyết bác bỏ luận điệu đó của Pháp!

Đọc thêm: Bài thơ "Mới ra tù tập leo núi" của Hồ Chí Minh | Trích Ngục trung nhật ký [Nhật ký trong tù]

Về lòng yêu nước, thương dân

– Bình Ngô đại cáo: Quan niệm lấy dân làm gốc, yêu nước là yêu nhân dân: dân đen, con đỏ
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Nhândân là tầng lớp đáng thương nhất trong chiến tranh. Họ là nhân dân Đại Việt.
Đâylà quan niệm có tiến bộ nhưng chưa rộng mở.
– Tuyên ngôn độc lập: Yêu nước là yêu nhân dân đất nước, là đem lại độc lập cho dân tộc và dânchủ cho nhân dân “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ…”. Tình yêu con người được đề cập đến rộng rãi hơn, con người trên toàn thếgiới. Quan niệm tư tưởng tiến bộ của con người trong thời đại mới.

Về cách mở đầu

TrongBìnhngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã khẳng định một chân lý lịch sử:Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân – Quân điếu phạt trước lo trừ bạothìTuyên ngôn độc lậpmở đầu bằng cách trích dẫn hai câu nóinổi tiếng trong hai bản tuyên ngôn của thế giới. Câu thứ nhất được trích từTuyên ngôn độc lậpcủa nước Mỹ năm 1776:Tất cả mọi người đều sinh ra cóquyền bình đẳng. Tạo hóa đã cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được,trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnhphúc.
Câu thứ hai được rút ratừ bản Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyềnCách mạng Pháp năm 1791:Người ta sinh ra tự do và bình đẳngvề quyền lợi và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.Đây là một dụng ý chiến lược và chiếnthuật của Bác. Người muốn dùng lời của ông cha người Pháp và người Mỹ để đậpvào lưng của con cháu họ, dùng cây gậy độc lập tự do đánh vào lưng những kẻ thùcủa độc lập tự do. Nếu câu mở đầu củaNamquốc sơn hàlà lời khẳng định chủ quyền dân tộc, mở đầu củaBìnhNgô đại cáolà một triết línhân nghĩa gắn với an dân thì mở đầu củaTuyênngôn độc lậplà một lời tranhluận ngầm nhằm lột tẩy những mưu mô thủ đoạn của bọn thực dân. Cách trích dẫnấy vừa tạo được cơ sở vững chắc choTuyênngôn độc lậpcủa Việt Nam,vừa sảng khoái niềm tự hào dân tộc. Như ngày xưa Nguyễn Trãi đã từng viết:Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập – Cùng Hán, Đường, Tống,Nguyên mỗi bên xưng đế một phươngnhằmđặt ngang hàng các triều đại nước Việt với các triều đại Trung Hoa cổ.

Về cách tố cáo tội ác của giặc

– Bình Ngô đại cáo: Ức Trai tiên sinh đã từng vạch tội giặc Minhmượngió bẻ măng, lợi dung thời cơphùTrần diệt Hồđể thôn tínhnước ta:Nhân họ Hồ chính sựphiền hà – Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa.Năm xưa, Nguyễn Trãi đã khái quát lạitội ác tày trời và chủ trương cai trị phản nhân đạo của giặc Ngô qua hai câuthơ:Nướng dân đen trên ngọn
lửa hung tàn- Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Trong tác phẩm của mình, Bác đã dùng lập luận bác bỏ để vạch trần năm tội ác vềchính trị, bốn tội ác về kinh tế của thực dân Pháp. Nếunước mẹ Pháp đưa ra chiêu bàibảo hộthì Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ:Trong năm năm, chúng bán nước tacho Nhật…ỞTuyên ngôn độc lập, với vănphong đĩnh đạc, giàu tính luận chiến, Bác đã viết:Chúng bóc lột dân ta đến xương tủy,khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướpkhông ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.Vớicách lặp kết cấu cú pháp, điệp ngữ “chúng”, kết cấu song hành, tăng tiến, Tuyênngôn độc lậplà bản tuyên cáochi tiết những hành động tham tàn bạo ngược của giặc Tây trên đất nước ViệtNam.
Đặc biệt, ởTuyên ngônđộc lập, với những dẫn chứng, số liệu cụ thể, bằng ngòi bút giàu sức chiếnđấu, Nguyễn Ái Quốc còn vạch rõ thủ đoạn thâm độc của chính sách ngu dân, caitrị dân tộc Việt Nam bằng rượu và thuốc phiện,lập nhà tù nhiều hơn trường học.Nước Pháp ở thời điểm này đang rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế; thay vì đổxuống biển hàng tấn rượu thì bọn thực dân đã mở rộng khai thác thuộc địa sangcác nước Đông Dương và biến các nước này trở thành nơi tiêu thụ hàng hóa ế thừacủa chúng.
Vì vậy chúng cấm người dân Việt Nam không được nấu rượu bằng cácsản vật địa phương như gạo, mía, sắn mà phải dùng rượu Pháp. Trở lại những nămba mươi của thế kỷ hai mươi, ta mới thấy hết được không khí ngột ngạt, đau khổcủa thôn xóm Việt Nam.Khắp nơi , bọn tay sai phong kiến và thực dân Pháp truy tìm, bắt bớ bỏ tù hàngngàn người dân vì tội nấu “rượu lậu”. Bên cạnh đó, bọn chúng cho phép các tiệmhút được mở công khai ở Hà Nội, Hải Phòng nhằm làm suy nhược sức khỏe và bănghoại ý chí đấu tranh của tầng lớp thanh niên ta. Lên án âm mưu thâm độc này,trongTuyên ngôn độc lập,Bác viết:Chúng ràng buộc dưluận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm chonòi giống ta suy nhược.

Về tính chất chính nghĩa, thái độ khoan hồng và nhânđạo

Nam Quốc Sơn Hà:sách trời đã định, không thể thay đổi.
TrongTuyên ngôn độc lập, Bác đã ngợica thái độ khoan hồng và nhân đạo của người dân đất Việt:Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3,Việt Minh đã giúp cho người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều ngườiPháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng, tài sản cho họ. Tinh thầnnhân nghĩa đó vốn xuất hiện từ lâu trong đạo lý dân tộc:Đánh kẻ chạy đi không ai đánh ngườichạy lại.

Nguyễn Trãi:Đem đại nghĩađể thắng hung tàn – Lấy chí nhân mà thay cường bạo.Tư tưởng nhân nghĩa là sợi chỉ đỏxuyên suốt trongBình Ngô đạicáovà cuộc đấu tranh chốngquân Minh của quân dân Đại Việt.

Đọc thêm: So sánh hình ảnh đoàn quân Tây Tiến và Việt Bắc

Về tuyên bố độc lập

Lời kết thúcBìnhNgô đại cáovới sự hòa quyệngiữa cảm hứng độc lập và cảm hứng vũ trụ, Ức Trai tiên sinh trịnh trọng tuyênbố nền độc lập tự do:Xã tắctừ nay vững bền – Giang san từ đây đổi mới – Càn khôn bỉ mà lại thái – Nhật nguyệt hối mà lại minh – Muôn thuở nền thái bình vững chắc – Ngàn năm, vết nhụcnhã sạch làu.
ỞTuyên ngôn độc lập, trước khicông bố quyền được hưởng tự do độc lập một cách xứng đáng của dân tộc ta, HồChí Minh đã tuyên bố thoát lí mọi quan hệ với thực dân, xóa bỏ mọi hiệp ước,mọi quyền lợi của Pháp trên đất nước Việt Nam. Đây là một việc làm vô cùng cóý nghĩa. Để thiết lập một đất nước Việt Nam mới và mở ra một kỉ nguyên độc lậptự do của đất nước, ta phải xóa bỏ mọi ràng buộc, mọi mối quan hệ với thực dânPháp, phải đập tan mọi luận điệu của Đờ Gôn [tướng Pháp] và bọn thực dân phảnđộng Pháp đang âm mưu tái chiếm Đông Dương:NướcViệt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do,độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng,tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.Đoạn văn gồm ba ý, xây dựng theo lốităng cấp: quyền hưởng tự do độc lập của dân tộc, hưởng tự do độc lập là sựthực, quyết tâm giữ vững độc lập tự do bằng mọi giá của con người Việt Nam. Đâylà lời tuyên bố hào hùng, làkếtquả của bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu dân[TrầnDân Tiên].

Về nghệ thuật

Vềtổng thể,Tuyên ngôn độc lậpcó điểm tương đồng giữa các phần nhưBình Ngô đại cáosong bố cục ngắn gọn và chặt chẽ hơn.
Nếu Bình Ngô đại cáo sáng tác theo các thể thơ văn cổ Trung đại thìTuyên ngôn độc lậpviết theo phong cách văn chính luậnhiện đại với lập luận sắc sảo, bằng chứng rõ ràng, hình ảnh gợi cảm, ngôn từ
chính xác, kết hợp sâu sắc giữa văn học và chính trị, kế thừa và phát triển.
– Ngôn từ, hành văn, cách diễn dạt của Tuyên ngôn độc lập ngắn gọn, dễ hiểu, lập luận khoa học, sắc sảo. Nam Quốc Sơn Hà ngắn gọn, xúc tích chưa thật đầy đủ. Bình Ngô đại cáo dài hơn.
– Thể loại chữ viết hai bài trên: Tuyên ngôn độc lập là chữ quốc ngữ thể văn chính luận, Bình Ngô đại cáo chữ Hán thể phú, Nam Quốc Sơn Hà là chữ Hán thể thơ tứ tuyệt Đường luật.

Lí giải: Tại sao giữa Tuyên ngôn độc lập và Bình ngô đại cáo lại có sự khác nhau và giống nhau về nội dung và tư tưởng

– Giống: bởi vì cả hai tác giả đều là những danh nhân lớn của Việt Nam,tiếp thu tinh hoa dân tộc từ bao đời, có lòng yêu nước, yêu nhân dân.

– Khác: bởi vì hoàn cảnh sống giữa hai tác giả khác nhau, vốn sống, vốn hiểubiết và tài năng nghệ thuật cũng khác nhau, đặc biệt là ngoài tinh hoa của dântộc, Hồ Chủ tịch còn tiếp thu cả tinh hoa văn hoá thế giới một cách có chọnlọc.

Đánh giá

Cả 2 tác phẩm Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh và Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi đều được coi là “Tuyên ngôn độc lập của dân tộc Việt Nam” trong lịch sử hào hùng của dân tộc; khẳng định chủ quyền đất nước, là kim nam châm chỉ phương cho nhân dân tadựng và giữ nước.
Như vậy, Dehoctot.edu.vn vừa giới thiệu tới các em học sinh những nội dung cơ bản khi So sánh “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh và “Bình ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi. Dạng đề so sánh là một trong những dạng đề quan trọng, thường xuất hiện trong các đề thi học kì, thi tuyển sinh Đại học. Hy vọng đây là tài liệu hữu ích giúp các em ôn tập tốt hơn môn Ngữ văn 12luyện thi THPT Quốc gia nhé.

CÙNG CHUYÊN MỤC

  • Tổng ôn kiến thức tác phẩm Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh
  • Bài thơ Nam quốc sơn hà | Bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam
  • Xin thầy hãy dạy cho cháu biết rằng có thể bán cơ bắp và trí tuệ cho…
  • Truyện ngắn: Cỏ lau - Nguyễn Minh Châu
  • Hệ thống câu hỏi ôn tập truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu - có…
  • Bình luận ý kiến: Khoa học mà không có lương tâm chỉ là sự tàn lụi của…

XEM THÊM

  1. Tìm hiểu tác phẩm Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh
  2. Tổng ôn kiến thức tác phẩm Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh
  3. Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi
  4. Phân tích hình tượng con Sông Đà trong tùy bút “người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân
  5. Công thức viết mở bài nghị luận văn học “chuẩn chỉnh” để đạt điểm tuyệt đối
  6. Tổng ôn kiến thức bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên
  7. Tổng ôn kiến thức bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
  8. Tổng ôn kiến thức bài thơ Sóng của nhà thơ Xuân Quỳnh

So sánh ba bản tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam

Dàn ý so sánh ba bản tuyên ngôn độc lập của Việt Nam

1. Điểm giống nhau:

- Khẳng định chủ quyền, quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam.

- Thể hiện tình yêu quê hương, đất nước, đồng bào.

- Tố cáo tội ác của giặc, vạch trần bộ mặt gian xảo của chúng đồng thời ca ngợi, tôn vinh con người Việt Nam.

2. Điểm khác nhau

a. Hoàn cảnh sáng tác, đối tượng:

Ba bản tuyên ngôn ra đời trong ba hoàn cảnh khác nhau, hướng tới những đối tượng cụ thể khác nhau

- Nam quốc sơn hà: Bắt đầu thời nhà Lý, dưới triều vua Lý Nhân Tông [1072-1127], tháng chạp năm Bính Thìn [1076], sau khi hội quân với Chiêm Thành và Chân Lạp nhà Tống [Trung Quốc] đưa quân sang xâm chiếm nước ta vào đến sông Như Nguyệt [nay là sông Cầu thuộc làng Như Nguyệt, Bắc Ninh]. Vua Lý Nhân Tông sai tướng Lý Thường Kiệt đem quân chặn đánh nhưng quân giặc dùng súng bắn đá gây tổn thất cho ta rất nhiều. Lý Thường Kiệt hết sức điều động dân quân chống giữ không cho giặc sang sông, nhưng lại lo quân mình ngã lòng, bèn ngâm lớn bài thơ có bốn câu bằng chữ Hán nói là của thần linh mách bảo để động viên, cổ cũ quan quân dốc lòng đánh giặc: Đêm khuya, các chiến sĩ nghe đọc mấy câu thơ đó ai nấy đều phấn chấn nên ra sức đánh giặc rất hăng làm cho quân Tống phải rút lui. Các nhà nghiên cứu sử đều cho rằng bài thơ trên có giá trị như bản tuyên ngôn độc lập vì đã rao truyền cho giặc biết sự độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của nước nhà mà không ai được xâm lấn. Nó còn nói lên khí phách, tư thế và quyết tâm của cả dân tộc lúc bấy giờ.

- Bản tuyên ngôn độc lập thứ hai là bài Bình Ngô đại cáo do Nguyễn Trãi soạn để bá cáo [công bố] cho thiên hạ biết sau khi Bình Định Vương Lê Lợi tổ chức thành công cuộc kháng chiến mười năm chống giặc ngoại xâm nhà Minh [1418-1427].

- Bản Tuyên ngôn độc lập thứ ba do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo và tuyên đọc ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình – thủ đô Hà Nội khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Văn kiện lịch sử này không phải chỉ được đọc trước quốc dân đồng bào mà còn trước thế giới, đặc biệt là trước bọn đế quốc thực dân đang chuẩn bị tái chiếm nước ta. Mặt khác, tại thời điểm này thực dân Pháp tuyên bố: Đông Dương là đất bảo hộ của người Pháp bị Nhật xâm chiếm, nay Nhật đã đầu hàng, vậy Đông Dương đương nhiên phải trở lại với người Pháp. Bản tuyên ngôn đã dứt khoát bác bỏ những luận điểm đó. Vì vậy đối tượng hướng tới của văn bản này, không chỉ là hai mươi triệu đồng bào Việt Nam để khẳng định quyền độc lập dân tộc, nhân dân tiến bộ thế giới để tranh thủ sự ủng hộ mà còn hướng đến bọn đế quốc: Anh, Pháp, Mỹ nhằm ngăn chặn mọi âm mưu xâm lược của chúng.

b. Cách khẳng định chủ quyền:

- Nam quốc sơn hà: chủ quyền được khẳng định trên 2 phương diện: bờ cõi, vua được ghi trong sách trời – lực lượng siêu nhiên thần bí.

- Bình Ngô đại cáo: chủ quyền được khẳng định trên nhiều phương diện hơn: tên nước, nền văn hiến, bờ cõi, phong tục, triều đại, anh hùng, hào kiệt – các phương diện sánh ngang với Trung Quốc.

- Tuyên ngôn độc lập: Đưa ra lập luận để khẳng định chủ quyền trên 2 phương diện: VN có quyền được hưởng tự do độc lập. Sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Từ đó mới tuyên bố độc lập. Đây là cách lập luận khoa học, chặt chẽ, thuyết phục.

c. Lòng yêu nước, thương dân:

- Nam quốc sơn hà: đề cập đến theo quan niệm Nho giáo, trung quân ái quốc. Yêu nước là yêu vua, yêu vua là yêu nước. Chủ quyền của nước chính là chủ quyền của vua.

- Bình Ngô đại cáo: Quan niệm lấy dân làm gốc, yêu nước là yêu nhân dân: dân đen, con đỏ

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”

Nhân dân là tầng lớp đáng thương nhất trong chiến tranh. Họ là nhân dân Đại Việt.

=> Đây là quan niệm có tiến bộ nhưng chưa rộng mở.

- Tuyên ngôn độc lập: Yêu nước là yêu nhân dân đất nước, là đem lại độc lập cho dân tộc và dân chủ cho nhân dân “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ …”. Tình yêu con người được đề cập đến rộng rãi hơn, con người trên toàn thế giới. Quan niệm tư tưởng tiến bộ của con người trong thời đại mới.

d. Cách mở đầu:

- Nam quốc sơn hà, Lý Thường Kiệt vào đầu bằng một lời tuyên ngôn đanh thép: Nam quốc sơn hà Nam đế cư [sông núi nước Nam vua Nam ở];

- Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã khẳng định một chân lý lịch sử: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân – Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

- Tuyên ngôn độc lập mở đầu bằng cách trích dẫn hai câu nói nổi tiếng trong hai bản tuyên ngôn của thế giới. Câu thứ nhất được trích từ Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776: Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa đã cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Câu thứ hai được rút ra từ bản Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền Cách mạng Pháp năm 1791: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đây là một dụng ý chiến lược và chiến thuật của Bác. Người muốn dùng lời của ông cha người Pháp và người Mỹ để đập vào lưng của con cháu họ, dùng cây gậy độc lập tự do đánh vào lưng những kẻ thù của độc lập tự do. Nếu câu mở đầu của Nam quốc sơn hà là lời khẳng định chủ quyền dân tộc, mở đầu của Bình Ngô đại cáo là một triết lí nhân nghĩa gắn với an dân thì mở đầu của Tuyên ngôn độc lập là một lời tranh luận ngầm nhằm lột tẩy những mưu mô thủ đoạn của bọn thực dân. Cách trích dẫn ấy vừa tạo được cơ sở vững chắc cho Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam, vừa sảng khoái niềm tự hào dân tộc.

Trong phần mở đầu, ngoài việc trích dẫn lời lẽ của hai bản Tuyên ngôn độc lập trên, Bác còn thể hiện một tư duy đầy biến hóa và sáng tạo qua luận điểm suy rộng ra: Tất cả các dân tộc đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Ở đây, Bác đã nâng từ quyền con người lên thành quyền dân tộc, từ vấn đề nhân quyền, vấn đề quyền cá nhân lên thành quyền của mọi dân tộc bị áp bức trên thế giới. Một nhà văn hóa nước ngoài đã viết: Cống hiến nổi tiếng của Cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi của dân tộc. Như vậy, tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh.

e. Cách tố cáo tội ác của giặc:

- Nam quốc sơn hà: lời vạch trần tội ác của quân xâm lược, là lời dự báo cho số phận của bọn cướp nước tội xâm phạm đất nước khác [d/c]. Cách nói hàm xúc, cô đọng.

- Bình Ngô đại cáo: Ức Trai tiên sinh đã từng vạch tội giặc Minh mượn gió bẻ măng, lợi dung thời cơ phù Trần diệt Hồ để thôn tính nước ta: Nhân họ Hồ chính sự phiền hà - Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa. Năm xưa, Nguyễn Trãi đã khái quát lại tội ác tày trời và chủ trương cai trị phản nhân đạo của giặc Ngô qua hai câu thơ: Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn- Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

- Tuyên ngôn độc lập: trong tác phẩm của mình, Bác đã dùng lập luận bác bỏ để vạch trần năm tội ác về chính trị, bốn tội ác về kinh tế của thực dân Pháp. Nếu nước mẹ Pháp đưa ra chiêu bài bảo hộ thì Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ: Trong năm năm, chúng bán nước ta cho Nhật… Ở Tuyên ngôn độc lập, với văn phong đĩnh đạc, giàu tính luận chiến, Bác đã viết: Chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu. Với cách lặp kết cấu cú pháp, điệp ngữ “chúng”, kết cấu song hành, tăng tiến, Tuyên ngôn độc lập là bản tuyên cáo chi tiết những hành động tham tàn bạo ngược của giặc Tây trên đất nước Việt Nam. Đặc biệt, ở Tuyên ngôn độc lập, với những dẫn chứng, số liệu cụ thể, bằng ngòi bút giàu sức chiến đấu, Nguyễn Ái Quốc còn vạch rõ thủ đoạn thâm độc của chính sách ngu dân, cai trị dân tộc Việt Nam bằng rượu và thuốc phiện, lập nhà tù nhiều hơn trường học. Nước Pháp ở thời điểm này đang rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế; thay vì đổ xuống biển hàng tấn rượu thì bọn thực dân đã mở rộng khai thác thuộc địa sang các nước Đông Dương và biến các nước này trở thành nơi tiêu thụ hàng hóa ế thừa của chúng. Vì vậy chúng cấm người dân Việt Nam không được nấu rượu bằng các sản vật địa phương như gạo, mía, sắn mà phải dùng rượu Pháp. Trở lại những năm ba mươi của thế kỷ hai mươi, ta mới thấy hết được không khí ngột ngạt, đau khổ của thôn xóm Việt Nam. Khắp nơi , bọn tay sai phong kiến và thực dân Pháp truy tìm, bắt bớ bỏ tù hàng ngàn người dân vì tội nấu “rượu lậu”. Bên cạnh đó, bọn chúng cho phép các tiệm hút được mở công khai ở Hà Nội, Hải Phòng nhằm làm suy nhược sức khỏe và băng hoại ý chí đấu tranh của tầng lớp thanh niên ta. Lên án âm mưu thâm độc này, trong Tuyên ngôn độc lập, Bác viết: Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.

g. Tính chất chính nghĩa, thái độ khoan hồng và nhân đạo:

- Nam quốc sơn hà: sách trời đã định, không thể thay đổi.

- Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi: Đem đại nghĩa để thắng hung tàn – Lấy chí nhân mà thay cường bạo. Tư tưởng nhân nghĩa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong Bình Ngô đại cáo và cuộc đấu tranh chống quân Minh của quân dân Đại Việt. Sau khi giặc đầu hàng, lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn đã có những hành động hết sức cao thượng: Mã Kì, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể mà hồn bay phách lạc – Vương Thông, Mã Anh phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà tim đập chân run. Sự thảm hại của kẻ thù vừa làm tôn lên khí thế hào hùng của nghĩa quân đồng thời càng làm nổi bật tính chất chính nghĩa, nhân đạo sáng ngời của cuộc kháng chiến chống quân Ngô thuở nào.

- Trong Tuyên ngôn độc lập, Bác đã ngợi ca thái độ khoan hồng và nhân đạo của người dân đất Việt: Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng, tài sản cho họ. Tinh thần nhân nghĩa đó vốn xuất hiện từ lâu trong đạo lý dân tộc: Đánh kẻ chạy đi không ai đánh người chạy lại. Trong truyện cổ dân gian, khi nghe Thạch Sanh đàn, quân giặc rụng rời chân tay và xin hàng. Trước khi chúng về nước, Thạch Sanh không chỉ tha bổng mà còn cấp cho chúng niêu cơm “ăn mãi không hết”...

h. Tuyên bố độc lập:

- Lời kết thúc Bình Ngô đại cáo với sự hòa quyện giữa cảm hứng độc lập và cảm hứng vũ trụ, Ức Trai tiên sinh trịnh trọng tuyên bố nền độc lập tự do: Xã tắc từ nay vững bền – Giang san từ đây đổi mới – Càn khôn bĩ mà lại thái – Nhật nguyệt hối mà lại minh – Muôn thuở nền thái bình vững chắc – Ngàn năm, vết nhục nhã sạch làu.

- Ở Tuyên ngôn độc lập, trước khi công bố quyền được hưởng tự do độc lập một cách xứng đáng của dân tộc ta, Hồ Chí Minh đã tuyên bố thoát lí mọi quan hệ với thực dân, xóa bỏ mọi hiệp ước, mọi quyền lợi của Pháp trên đất nước Việt Nam. Đây là một việc làm vô cùng có ý nghĩa. Để thiết lập một đất nước Việt Nam mới và mở ra một kỉ nguyên độc lập tự do của đất nước, ta phải xóa bỏ mọi ràng buộc, mọi mối quan hệ với thực dân Pháp, phải đập tan mọi luận điệu của Đờ Gôn [tướng Pháp] và bọn thực dân phản động Pháp đang âm mưu tái chiếm Đông Dương: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. Đoạn văn gồm ba ý, xây dựng theo lối tăng cấp: quyền hưởng tự do độc lập của dân tộc, hưởng tự do độc lập là sự thực, quyết tâm giữ vững độc lập tự do bằng mọi giá của con người Việt Nam. Đây là lời tuyên bố hào hùng, là kết quả của bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu dân [Trần Dân Tiên].

i. Về nghệ thuật.

- Về tổng thể, Tuyên ngôn độc lập có điểm tương đồng giữa các phần như Bình Ngô đại cáo song bố cục ngắn gọn và chặt chẽ hơn. Nếu hai tác phẩm trên sáng tác theo các thể thơ văn cổ Trung đại thì Tuyên ngôn độc lập viết theo phong cách văn chính luận hiện đại với lập luận sắc sảo, bằng chứng rõ ràng, hình ảnh gợi cảm, ngôn từ chính xác, kết hợp sâu sắc giữa văn học và chính trị, kế thừa và phát triển.

- Ngôn từ, hành văn, cách diễn đạt của TNĐL ngắn gọn, dễ hiểu, lập luận khoa học, sắc sảo. NQSH ngắn gọn, xúc tích chưa thật đầy đủ. BNĐC dài hơn.

- Thể loại chữ viết hai bài trên: TNĐL là chữ quốc ngữ thể văn chính luận, BNĐC chữ Hán thể phú, NQSH là chữ Hán thể thơ tứ tuyệt Đường luật.

3. Lí giải: Tại sao giữa TNĐL và BNĐC lại có sự khác nhau và giống nhau về nội dung và tư tưởng.

- Giống: là bởi vì cả hai tác giả đều là những danh nhân lớn của Việt Nam, tiếp thu tinh hoa dân tộc từ bao đời, có lòng yêu nước, yêu nhân dân.

- Khác: là bởi vì hoàn cảnh sống giữa hai tác giả khác nhau, vốn sống, vốn hiểu biết và tài năng nghệ thuật cũng khác nhau, đặc biệt là ngoài tinh hoa của dân tộc, Hồ Chủ Tịch còn tiếp thu cả tinh hoa văn hoá thế giới một cách có chọn lọc.

4. Đánh giá:

Cả 3 đều khẳng định chủ quyền đất nước, là kim nam châm chỉ phương cho nhân dân ta dựng và giữ nước.

So sánh hình ảnh đoàn quân trong Tây Tiến và Việt Bắc

Dàn ý so sánh hình ảnh đoàn quân Tây Tiến và Việt Bắc

I. Mở bài:

- Quang Dũng là nghệ sĩ đa tài, tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm Tây Tiến. Bài thơ thể hiện nỗi nhớ của tác giả về thiên nhiên và con người nơi tác giả cùng gắn bó khi tham gia trong đoàn quân Tây Tiến. Bốn câu thơ đầu đã thể hiện rõ nét nội dung cũng như cảm hứng sáng tạo nghệ thuật của tác giả.

– Việt Bắc là bài thơ xuất sắc của Tố Hữu. Bài thơ đã thể hiện tình cảm sâu sắc của người cán bộ kháng chiến với chiến khu và con người nơi núi rừng Việt Bắc. Bốn câu thơ thuộc phần một của bài thơ đã khắc họa phần nào đạo lí ân tình thủy chung đó

II. Thân bài

1. Đoạn thơ trong bài thơ “Tây Tiến”:

* Vẻ đẹp bi thương vừa hào hùng của đoàn quân Tây Tiến trên đường hành quân:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”.

- Cái bi thương của người lính được gợi lên từ ngoại hình ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc, da dẻ xanh như màu lá.

+ Sở dĩ người lính Tây Tiến đầu trọc da xanh là do hậu quả của những tháng ngày hành quân vất vả vì đói và khát, là dấu ấn của những trận sốt rét ác tính.

+ Hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc” không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng mà nét vẽ này xuất phát từ 1 hiện thực trong cuộc sống của người lính Tây Tiến: họ phải cạo trọc đầu để giảm bớt những bất tiện trong sinh hoạt ở rừng và để tạo thuận lợi trong đánh trận; có khi những cái đầu không mọc tóc kia là hậu quả của những trận sốt rét liên miên nơi rừng thiêng nước độc. Và dù hiểu theo cách nào thì đó cũng là hình ảnh gợi lên sự gian khổ thiếu thốn, khắc nghiệt của chiến tranh. Tuy nhiên với cách diễn đạt độc đáo của Quang Dũng, người lính Tây Tiến hiện lên không tiều tụy, mà kiêu dũng, ngang tàng. Nói về họ, Quang Dũng vẫn dùng từ “đoàn binh” – gợi cảm giác về 1 đội ngũ đông đảo, hừng hực khí thế.

+ Hình ảnh “quân xanh màu lá” ở đây có thể hiểu là màu xanh áo lính hay màu xanh của lá ngụy trang khiến cho cả đoàn quân xanh màu lá. Nhưng theo mạch thơ có lẽ còn nên hiểu đây là câu thơ miêu tả gương mặt xanh xao, gầy yếu vì sốt rét rừng, vì cuộc sống kham khổ. Ở đây, cách diễn đạt của của Quang Dũng khá tinh tế khi miêu tả đoàn quân “xanh màu lá” chứ không phải xanh xao, người lính do đó mà như hài hòa cùng với thiên nhiên, ốm mà không yếu, ốm mà vẫn trẻ trung, vẫn tràn đầy sức sống.

Đặc biệt, kết hợp từ “dữ oai hùm” gợi cho người đọc thấy trên gương mặt xanh xao, gầy ốm của người lính vẫn toát lên vẻ dữ dội, kiêu hùng của những con hổ nơi rừng thiêng. Dường như, ở miền đất hoang sơ, bí ẩn có bóng hổ rình rập, đe dọa với “cọp trêu người” thì người lính cũng có “oai hùm” dữ dội, uy nghi để chế ngự và chiến thắng.

Liên hệ: Những cơn sốt rét rừng ấy không chỉ có trong thơ Quang Dũng mà còn để lại dấu ấn đau thương trong thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Thơ ca thời kỳ kháng chiến khi viết về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”

[“Đồng chí” – Chính Hữu]

“ Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Anh vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế”

[“Cá nước” – Tố Hữu].

Sau này một nhà thơ trẻ thời kì kháng chiến chống Mĩ cũng viết về căn bệnh sốt rét rừng của những người lính bằng những vần thơ tê tái:

“Nơi thuốc súng trộn vào áo trận
Cơn sốt rừng đi dọc tuổi thanh xuân”.

* Cái hào hoa:

+ Thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa ngoại hình ốm yếu và tâm hồn bên trong đã làm nên khí chất mạnh mẽ của người lính. “Không mọc tóc” là cách nói ngang tàn rất lính, hóm hỉnh đùa vui với khó khăn gian khổ của mình.

+ Thể hiện qua cách dùng từ Hán Việt “đoàn binh”. Chữ “đoàn binh” chứ không phải “đoàn quân” đã gợi lên được sự mạnh mẽ lạ thường của sự hùng dũng. Ba từ “dữ oai hùm” gợi lên dáng vẻ oai phong lẫm liệt, oai của chúa sơn lâm. Qua đó ta thấy người lính Tây Tiến mạnh mẽ làm chủ tình hình, làm chủ núi rừng, chế ngự mọi khắc nghiệt xung quanh, đạp bằng mọi gian khổ. “mắt trừng” là đôi mắt dữ tợn, căm thù, mạnh mẽ, nung nấu quyết đoán làm kẻ thù hoảng sợ.

* Họ còn là những chàng trai Hà Nội hào hoa, lãng mạn:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

- “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới” là đôi mắt thao thức về quê hương Hà Nội, về một dáng kiều thơm trong mộng. Mộng và mơ gửi về hai phía của chân trời: biên giới và Hà Nội.

+ Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động, nhớ nhung về vẻ đẹp của Hà Nội: đó có thể là phố cũ, trường xưa,… hay chính xác hơn là nhớ về bóng dáng của những người bạn gái Hà Nội yêu kiều, diễm lệ. Đó chính là động lực tiếp thêm sức mạnh để họ vững vàng tay súng, sẵn sàng cống hiến, hi sinh để bảo vệ Tổ Quốc, vì mục tiêu lí tưởng cao đẹp: “Quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh”.

2. Đoạn thơ trong bài thơ “Việt Bắc”:

* Vẻ đẹp hào hùng của đoàn quân:

“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng”

+ Đại từ sở hữu “của ta” vang lên một cách dõng dạc thể hiện niềm tự hào của những con người được làm chủ đất nước, đồng thời khẳng định Việt Bắc là chiến khu tự do.

+ Không khí sôi nổi của những ngày chiến dịch được tác giả tái hiện sinh động qua những từ ngữ, hình ảnh: rầm rập, đất rung, những từ láy: điệp điệp, trùng trùng. Hai chữ “rầm rập” vừa gợi âm thanh, vừa tạo hình ảnh. Biện pháp nghệ thuật so sánh, tượng trưng được tác giả sử dụng triệt để giúp ta cảm nhận hình ảnh những đoàn quân đang ngày đêm tiến về mặt trận. Mỗi bước đi của đoàn quân ấy mang cả sức mạnh của lòng yêu nước, của lí tưởng cách mạng, khát khao chiến đấu và chiến thắng quân thù.

*Vẻ đẹp lãng mạn:

“Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”

Đây có thể là hình ảnh sao trời treo trên đầu súng của những người lính trong mỗi đêm hành quân, cũng có thể là ánh sáng của ngôi sao gắn trên chiếc mũ nan của người lính, ánh sáng của lí tưởng cách mạng soi cho người lính bước đi. Họ là những con người có lí tưởng cao cả, đẹp đẽ, sẵn sàng cống hiến vì sự nghiệp chung. Ý thơ khiến người đọc liên tưởng đến hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong thơ Chính Hữu.

3. So sánh hai đoạn thơ:

* Giống nhau: Đều khắc họa người lính với vẻ đẹp vừa hào hùng, vừa lãng mạn, bay bổng.

* Khác nhau:

III. Kết bài:

- Đánh giá chung: Nội dung chủ yếu của hai đoạn thơ là thể hiện nỗi nhớ về cảnh và người nơi núi rừng Tây Bắc và chiến khu Việt Bắc.

- Khẳng định: Hai đoạn thơ đã thể hiện tình cảm gắn bó sâu sắc của con người khi nghĩ về một thời quá khứ gian khổ mà hào hùng.

Dàn ýSo sánh nỗi nhớ trong bài Tây Tiến và Việt Bắc

1. Mở bài

- Giới thiệu vài nét về tá giả và tác phẩm:

+ Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài, tên tuổi của ông gắn liền với thi phẩm “Tây Tiến”. Bài thơ là nỗi nhớ lớn của tác giả về thiên nhiên và con người. Bốn câu đầu thể hiện rõ nhất nội dung cũng như cảm hứng sáng tạo nghệ thuật.

+Việt Bắclà bài thơ xuất sắc của Tố Hữu. Cả bài thơ là tình cảm cách mạng sâu nặng của những người cán bộ kháng chiến với chiến khu và những kỉ niệm kháng chiến. Bốn câu thơ nằm ở phần I của bài thơ phần nào thể hiện được đạolí ân tình thuỷ chung đó.

Ví dụ:Trong cuộc đời ai cũng có ít nhất một niềm thương nỗi nhớ. Có lẽ vì thế mà nỗi nhớ đã trở thành đề tài quen thuộc được các nhà văn, nhà thơ ưu ái nói đến. Nếu như trong “Tây Tiến”, Quang Dũng nhớ da diết thiên nhiên và con người miền Tây thì đến với “Việt Bắc”, nhà thơ không chỉ nhớ về con người và thiên nhiên hùng vĩ thơ mộng, nhớ về những ngày tháng kháng chiến gian khổ, hào hùng mà hơn thế nữa là những dấu ấn tươi nguyên về những ngày chiến thắng. Trong rất nhiều nỗi nhớ đó nổi bật lên là những kí ức của Quang Dũng và Tố Hữu về những vùng đất, những địa danh đã làm nên lịch sử. Và điều đó được thể hiện rõ nhất qua hai đoạn thơ sau:

[Trích dẫn 2 đoạn thơ]

2. Thân bài

a. Cảm nhận vềhai đoạn thơ:

*Đoạn thơ bài Tây Tiến

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!…..

Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”

– 2 câu thơ đầu: gọi tên cho cảm xúc chủ đạo của toàn bộ thi phẩm. Đó là nỗi nhớ và những hoài niệm.

+ Câu thơ thứ nhất với nhịp 2/2/3, vừa như đứt quãng, vừa như liền mạch. Khi Quang Dũng nhớ về sông Mã thì ngay lập tức lại thấy nó xa rồi nên “Tây Tiến ơi” vừa như một lời gọi thiết tha, lưu luyến vừa như một cảm xúc dâng trào và nỗi nhớ đã nổi hình, nổi khối. Vì sao khi nhớ về Tây Tiến, Quang Dũng lại gọi tên sông Mã? Vì dọc con đường hành quân của họ, dòng sông Mã như một địa danh đồng hành, từng chứng kiến bao kỉ niệm, đau thương, mất mát.

+ Câu thơ thứ hai, Quang Dũng muốnnói rõ hơn về nỗi nhớ của mình, nỗi nhớ rừng núi và mang cảm xúc chơi vơi. Vì địa bàn hoạt động của người chiến binh chủ yếu là núi rừng hiểm trở nên hình ảnh núi, rừng đã ăn sâu vào tâm khảm những người chiến binh cho dù đã xa Tây Tiến. Còn nỗi “nhớ chơi vơi”, đó là trạng thái cảm xúc mông lung, không định hình rõ rệt. Nhất là hai chữ “chơi vơi” ấy phối hợp với chữ “rồi”, chữ “ơi” ở câu trên tạo nên một thứ hòa âm của nỗi niềm thao thức, nó cứ lan tỏa mênh mông. Những tình cảm này cũng từng được cha ông ta nói đến trong ca dao như là nỗi nhớ chơi vơi, sự bâng khuâng, xao xuyến: “Ra về nhớ bạn chơi vơi”.

+ Cả hai câu thơ cùng kết lại trong vần “ơi”, “chơi vơi”. Nó vẽ lên điều gì đó như xa xôi, như mất mát. Cảm xúc của tác giả như hụt hẫng, chới với vì Tây Tiến lúc này chỉ là quá khứ. Từ nỗi nhớ và tiếng vẫy gọi của tác giả làm cho Tây Tiến như một sinh thể có hồn, đang chuyển tải cảm xúc của nhà thơ.

– 2 câu thơ tiếp theo:

+ Sài Khao, Mường Lát là những địa danh rất quen thuộc của Tây Bắc góp phần gợi nỗi nhớ chơi vơi. Hình ảnh Tây Bắc hiện lên trong câu thơ mịt mù và cả mệt mỏi, gian khó của đoàn quân như lẫn vào sương. Bên cạnh cái gian khổ lại pha một chút rất thơ, có vẻ như huyễn hoặc mà có thật:

“Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”

+ Câu thơ rất độc đáo, “hoa về” chứ không phải là hoa nở, “đêm hơi” chứ không phải là đêm sương. Vì nhìn từ xa, đoàn quân Tây Tiến hành quân về Mường Lát mang theo những ngọn đuốc giống như một dòng sông hoa lung linh, ẩn hiện trong đêm sương mờ ảo. Đọc đến đây, cái “mỏi” của đoàn quân dường như tan biến. Quang Dũng thật tài tình khi viết một câu thơ hầu hết là thanh bằng, lâng lâng, chơi vơi như sương, như hoa, như hồn người. Bên cạnh cái khắc nghiệt của núi rừng, nguy hiểm của chiến tranh là những giây phút người lính thả hồn đầy lãng mạn. Đó cũng là chất thơ toát lên từ hiện thực cuộc chiến, rất đặc trưng cho hồn thơ tài hoa của Quang Dũng.

*Đoạn thơ bài Việt Bắc

“Nhớ gì như nhớ người yêu…..

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.”

– Nỗi nhớ đằm thắm, sâu nặng của người cán bộ kháng chiến dành cho Việt Bắc, trong đó chan hòa tình nghĩa riêng chung.

– Đoạn thơ là nỗi nhớ người, nhớ cảnh Việt Bắc – mảnh đất gắn bó máu thịt với người cách mạng. Không phải thể hiện một cách chi tiết nỗi nhớ, Tố Hữu sử dụng hình ảnh so sánh hết sức độc đáo “nhớ gì như nhớ người yêu”. Nhà thơ đã lấy nỗi nhớ trong tình yêu làm thước đo giá trị để cắt nghĩa, lí giải cho tình cảm cán bộ đối với nhân dân. Vì thế, đó không phải là nỗi nhớ của ý thức, của nghĩa vụ mà là nỗi nhớ của hai trái tim yêu, của tình cảm chân thành.

– Câu thơ “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương” thể hiện hai nửa thời gian của nỗi nhớ: vế đầu là thời gian đêm trăng, vế sau là thời gian buổi chiều lao động. Thời gian như chảy ngược, nỗi nhớ đi từ gần tới xa. Để rồi tình yêu như chuyển thành nỗi nhớ trong tình cảm gia đình. Toàn không gian núi rừng Việt Bắc được gói gọn trong không khí gia đình ấm áp tình thương:

“Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.”

=> Hiện lên trong nỗi nhớ mà Tố Hữu thể hiện là một Việt Bắc thân thương, đẹp bình dị mà thơ mộng với nhịp sống êm đềm. Hình ảnh “bếp lửa” là một hình ảnh nhiều sức gợi. Nó cho thấy con người Việt Bắc ấm áp, giàu yêu thương đồng thời thể hiện tình cảm chứa chan, nồng nàn mà người cán bộ cách mạng dành cho con người nơi đây mỗi khi nhớ về. Tình cảm quân dân kết tinh trong ngọn lửa thiêng liêng bất diệt ấy.

b. So sánh sự tương đồng giữa nỗi nhớ được nhắc tới trong Tây Tiến và Việt Bắc:

–Điểm giống nhau:

+ Đều thể hiện nỗi nhớ gắn với một vùng đất cụ thể. Nếu như nỗi “nhớ chơi vơi” của Quang Dũng gắn với địa danh Tây Tiến thì nỗi “nhớ người yêu” của Tố Hữu gắn chặt với không gian Việt Bắc.

+ Ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc, đầy ý nghĩa.

–Điểm khác nhau:

+ Tây Tiến: sử dụng một loạt các tên địa danh để cụ thể hóa nỗi nhớ, sử dụng khéo léo bút pháp lãng mạn khi viết về hiện thực. Thể thơ 7 chữ điêu luyện.

+ Việt Bắc: nêu rất nhiều không gian [đầu núi, lưng nương, bản, bếp lửa], thời gian khác nhau [trăng lên đầu núi, nắng chiều, sớm khuya], thể thơ lục bát làm cho nỗi nhớ đậm chất dân gian.

–Nguyên nhân của sự khác biệt:

+ Lí giải từ hoàn cảnh sáng tác và phong cách nghệ thuật của từng nhà thơ.

3. Kết bài

Đây là hai đoạn thơ đặc sắctrongbài thơ trữ tình của nền thi ca cách mạng. Thông qua cách thể hiện nỗi nhớ rất riêng biệt của từng nhà thơ, chúng ta thấy được cá tính sáng tạo đặc biệt của họ và điều đó tạo nên dấu ấn lâu bền trong lòng người đọc.

– Hai đoạn thơ đều diễn tả những nỗi nhớ rất sâu đậm về một địa danh cụ thể gắn với một vùng đất chan chứa kỉ niệm.

- Dù là nỗi nhớ chơi vơi hay nỗi nhớ người yêu thì chúng ta đều nhận thấy mức độ sâu nặng trong tình cảm nhớ thương của hai nhà thơ.

- Họ không chỉ nhớ về một nơi cụ thể mà đó còn là nơi cất giấu những kỉ niệm, những ân tình kháng chiến, những gian khổ đã từng trải qua và hơn thế nữa còn là tình cảm quân dân gắn bó.

Video liên quan

Chủ Đề