Sự khác biệt lớn nhất giữa Nhật Bản và các nước châu á là

Văn hóa Nhật Bản hơi khác thường khiến bạn ngạc nhiên ở nước ngoài là gì?

Lần này, chúng tôi đã lựa chọn cẩn thận tám nền văn hóa Nhật Bản hơi khác thường sẽ khiến bạn ở nước ngoài ngạc nhiên, bao gồm các sự kiện kinh điển của mỗi mùa.

Như với bất kỳ trường hợp nào, vấn đề là "còn các quốc gia khác thì sao?"Ngay cả khi điều đó là tự nhiên ở Nhật Bản, có rất nhiều điều đáng ngạc nhiên không thể được coi là ở nước ngoài.

Lễ trưởng thành được tổ chức trên khắp cả nước

"Lễ trưởng thành" ở Nhật Bản là một sự kiện trọng đại trong cuộc đời được công nhận là người lớn trong xã hội. Nhiều người mới lớn chọn những bộ quần áo phù hợp với quần áo của họ, nhưng có thể rõ ràng rằng đây là một sự kiện chỉ có ở Nhật Bản, vì hình ảnh của tay áo và váy xoay có trước cả trong nước và quốc tế.

Tuy nhiên, những nền văn hóa tương tự tồn tại ở nước ngoài. Ví dụ: "Sweet sixteen" ở Hoa Kỳ coi một người 16 tuổi có thể lấy bằng lái xe khi trưởng thành và tổ chức sinh nhật của năm đó một cách hoành tráng.

Tất nhiên, mỗi người có một sinh nhật khác nhau nên thời điểm cũng khác với Nhật Bản, nơi tổ chức lễ kỷ niệm cho người lớn trên khắp đất nước.

Trang trí búp bê đắt tiền cho Lễ hội Hina

Lễ hội Hina, được tổ chức vào ngày 3 tháng 3 hàng năm như một ngày để kỷ niệm sự trưởng thành của các bé gái, là một trong những nét văn hóa Nhật Bản gây bất ngờ ở nước ngoài.

Vốn dĩ, có rất ít lễ kỷ niệm chỉ dành cho các cô gái ở nước ngoài, nhưng có nhiều lý do để ngạc nhiên hơn. Danh tính thực sự của nó là một "búp bê gà" mà cha mẹ cầu chúc cho sức khỏe và sự lớn lên của con gái họ.

Điều này là do giá búp bê Hina quá cao. Có một văn hóa trang trí cho trẻ em với các gia đình ở nước ngoài, chẳng hạn như Giáng sinh, nhưng dường như họ không tiêu nhiều tiền như Hinamatsuri.

Ngay từ đầu, bạn có thể tự hỏi tại sao nó lại là một con búp bê.

[Nếu bạn đọc bài viết, bạn có thể biết ý nghĩa của KARUTA này? ]

Tặng sô cô la cho nam giới trong ngày lễ tình nhân

"Ngày Valentine", được viếng thăm vào ngày 14 tháng 2 hàng năm, có nguồn gốc từ các linh mục Cơ đốc của Đế chế La Mã, và thường được toàn thế giới công nhận là "ngày mà những người yêu nhau cam kết tình yêu của họ."

Ở Nhật, việc phụ nữ tặng sôcôla cho nam giới là điều thường thấy ở Nhật Bản. Trên thực tế, hiếm khi người tặng và món quà được quyết định, và đó là một phong tục độc đáo của Nhật Bản.

Đặc biệt, Nhật Bản là quốc gia duy nhất trên thế giới tặng socola làm quà. Khi chúng ta nghe đến sô cô la, chúng ta có xu hướng nghĩ đến Châu Âu và Hoa Kỳ, nhưng người ta nói rằng nó bắt nguồn từ phong tục được quảng bá và lan truyền bởi nhân viên của các công ty bánh kẹo sau chiến tranh.

Làm chim hạc thành con chim may mắn

"Hạc" ở Nhật Bản từ lâu đã được coi là một loài chim tốt lành, biểu tượng của sự trường thọ, thịnh vượng và điềm lành. Bằng chứng cho điều này, nó thường xuất hiện với sự ưu đãi trong lời nói, câu chuyện dân gian, tác phẩm nghệ thuật và phong tục.

Tuy nhiên, những con vật dễ trở thành đối tượng thờ cúng thường có hình ảnh ngược lại tùy thuộc vào lĩnh vực văn hóa.

Những con sếu cũng vậy, và ở các nước Scandinavia quen thuộc với thần thoại Celt, chúng được ví là "loài chim mang xác chết". Ngoài ra, trong tôn giáo Voodoo được tôn thờ ở Haiti, đó là vai trò của "sứ giả của ma quỷ."

Trong một vùng văn hóa như vậy, ngoài việc có một ngàn con hạc lông. Nó rất thô lỗ, vì vậy hãy giữ nó trong góc đầu của bạn.

Lễ nhập học sẽ được tổ chức vào tháng 4

Nói đến "lễ nhập học" ở Nhật Bản, đó là một trong những sự kiện sẽ được tổ chức vào tháng 4 khi hoa anh đào nở và sẽ báo hiệu sự bắt đầu của một cuộc sống mới. Ở Nhật Bản thì có vẻ không xa lạ nhưng trên thực tế, rất ít quốc gia tổ chức lễ nhập học vào tháng 4.

Trên toàn cầu, có vẻ như tuyển sinh tháng 9, được các nước phương Tây [Mỹ, Pháp, Anh], Trung Quốc, Mông Cổ, v.v., áp dụng là phổ biến.

Làm ồn và ăn

Văn hóa ẩm thực thay đổi rất nhiều tùy thuộc vào khu vực văn hóa. Một trong những nét văn hóa ẩm thực độc đáo của Nhật Bản không được chấp nhận ở nước ngoài là “ăn uống với tiếng ồn”.

Ở Nhật, khi ăn các loại mì như soba, udon và ramen, người ta thường nhấm nháp và gây ồn ào. Tuy nhiên, nó không gây ấn tượng tốt ở nước ngoài, nơi những bữa ăn yên tĩnh và chậm rãi thường được coi là một đức tính tốt.

Ngay cả trong các nhà hàng Nhật Bản ở nước ngoài, có rất ít người ưu tiên thực hiện chế độ ăn kiêng kiểu Nhật. Bạn nên cẩn thận khi đi du lịch nước ngoài để không khiến những người xung quanh cảm thấy khó chịu.

[Bạn có quan tâm đến Nhật Bản không? Bạn có muốn học tiếng Nhật cùng nhau không? ]

Các cơ sở ăn uống cung cấp nước và vắt miễn phí

Trong ngành công nghiệp nhà hàng, dịch vụ “nhà hàng phục vụ nước và vắt miễn phí” đã trở thành một nét văn hóa chung của người Nhật.

Bạn có thể nhận được nó miễn phí với đồ uống như rượu vang, nhưng nó là tiêu chuẩn toàn cầu để đặt hàng nước có tính phí. Oshibori là một dịch vụ hiếm khi được tìm thấy bên ngoài Nhật Bản.

Những dịch vụ này có thể là phần tốt nhất trong văn hóa "lòng hiếu khách" đáng tự hào của Nhật Bản.

Những người cùng chủng tộc nói cùng một ngôn ngữ

Có thể bạn không biết, nhưng một đất nước như Nhật Bản, nơi "những người cùng chủng tộc nói cùng một ngôn ngữ" là điều bất thường trên thế giới.

Các yếu tố lịch sử như nhập cư có liên quan mật thiết đến điều này, nhưng ở châu Á, châu Âu và bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, các quốc gia đa sắc tộc chiếm ưu thế.

Mục lục

Quốc hiệuSửa đổi

Bài chi tiết: Tên gọi Nhật Bản

Nhật Bản viết bằng Kanji [chữ Hán] là 日本, tiếng Nhật đọc là Nippon [にっぽん, Nippon? nghe] hoặc Nihon [にほん, Nihon? nghe], với Nhật [, nichi?] là "Mặt Trời" hoặc "ngày" và Bản [, hon?] trong từ "bản chất" hay "bản năng" có nghĩa là "nguồn gốc". Hai chữ này khi kết hợp lại mang nghĩa "gốc của Mặt Trời" hay "Mặt Trời mọc" [do vị trí địa lý của nước này có thể nhìn thấy Mặt Trời mọc đầu tiên ở Đông Á, và cũng bởi tổ tiên trong tín ngưỡng theo truyền thuyết của họ là Nữ thần Mặt Trời Amaterasu]. Nhiều quốc gia khác cũng vì nguyên do đó mà thường miêu tả Nhật Bản là "Đất nước Mặt Trời mọc". Một cách phiên âm Hán-Việt cũ của 日本 là Nhật Bổn hoặc Nhựt Bổn, ngày nay hiếm khi được sử dụng. Người dùng tiếng Việt thường xuyên gọi tắt tên của quốc gia này là Nhật. Người Nhật Bản gọi chính bản thân họ là Nihonjin [日本人[Nhật Bản Nhân], Nihonjin?] và ngôn ngữ tiếng Nhật của họ là Nihongo [日本語[Nhật Bản Ngữ], Nihongo?].

Nhật Bản còn có một mỹ danh trong cộng đồng người dùng tiếng Việt là "Xứ sở hoa anh đào", vì cây hoa anh đào [[][Anh]/ さくら/ サクラ, sakura?] mọc trên khắp nước Nhật từ bắc xuống nam. Loài hoa "thoắt nở thoắt tàn" này được người Nhật đặc biệt yêu thích, phản ánh tính nhạy cảm, yêu cái đẹp, sống và chết đều quyết liệt của dân tộc họ. Một mỹ danh khác là "Đất nước hoa cúc" vì đóa hoa cúc 16 cánh giống như Mặt Trời đang tỏa chiếu là biểu tượng của Hoàng gia và là quốc huy Nhật Bản ngày nay. Nhật Bản còn được gọi là Phù Tang [扶桑, Phù Tang?], đề cập đến cây phù tang. Theo truyền thuyết cổ phương Đông, có một loài cây rỗng lòng gọi là Phù Tang hay Khổng Tang, là nơi thần Mặt Trời nghỉ ngơi trước khi du hành ngang qua bầu trời từ Đông sang Tây, do đó Phù Tang hàm nghĩa văn chương chỉ nơi Mặt Trời mọc.

Vào thế kỷ IV, Nhật Bản đã lấy tên nước là Yamato [大和 [やまと][Đại Hòa], Yamato?], còn người Hán từ trước Công Nguyên đã gọi nước Nhật là Oa quốc [倭国, Oa quốc? nước lùn], người Nhật là Oa nhân [倭人, người lùn?], gọi cướp biển người Nhật trên Biển Hoa Đông thời nhà Minh là Oa khấu [倭寇, giặc lùn?]. Trong Hán-Việt, chữ "oa" [, "oa"?] vẫn thường bị đọc nhầm là "nụy". Trước thời kỳ Heian, người Nhật vẫn chưa có chữ viết riêng và vẫn phải vay mượn chữ Hán nên Yamato được viết là wa [[oa], wa?].[41] Về sau khi đã phát triển nên hệ thống ngôn ngữ cho riêng mình, người Nhật dùng hai chữ Hán 大和 [Đại Hòa] để ký âm chữ Yamato, thể hiện lòng tự tôn dân tộc. Năm 670, Yamato gửi một đoàn sứ bộ đến chúc mừng triều đình nhà Đường dưới thời vua Đường Cao Tông nhân dịp vừa bình định Triều Tiên, và từ đó đổi tên thành Nhật Bản [日本, Nhật Bản?]. Kể từ sau cuộc Duy tân Minh Trị cho đến khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai, quốc hiệu đầy đủ của Nhật Bản là Đại Nhật Bản Đế quốc [大日本帝國, Dai Nippon Teikoku?]. Ngày nay quốc hiệu Nhật Bản Quốc [日本国, "Nippon-koku" hoặc "Nihon-koku"?] có ý nghĩa tương đương về mặt nghi thức, với chữ Quốc [, koku?] nghĩa là "quốc gia", "nước" hay "nhà nước" thay thế cho một miêu tả dài về ý thức hệ của chính phủ đất nước [tương tự như "Quốc" của Trung Quốc và Hàn Quốc]. Tuy vậy thì chữ Hòa [, Wa?] lấy từ Yamato [大和 Đại Hòa] hiện nay vẫn hay được sử dụng như là viết tắt cho Nhật Bản, ví dụ như Washitsu [和室[Hòa Thất], Washitsu?] có nghĩa là "căn phòng kiểu Nhật", hay Wasei Eigo [和製英語[Hòa Chế Anh Ngữ], Wasei Eigo?] có nghĩa là "tiếng Anh do người Nhật chế ra".

Trong tiếng Anh, Nhật Bản được gọi là Japan [/əˈpæn/[]], từ này xuất hiện ở phương Tây vào đầu giai đoạn mậu dịch Nanban. Phát âm tên quốc gia này bằng Tiếng Quan Thoại cổ hoặc có thể là tiếng Ngô cổ đã được Marco Polo ghi lại là Cipangu. Trong tiếng Thượng Hải mới, một dạng phương ngữ tiếng Ngô, cách phát âm các ký tự 日本 'Nhật Bản' là Zeppen [zəʔpən]. Nhật Bản trong Tiếng Mã Lai cổ được gọi là Jepang, vay mượn từ tiếng địa phương ven biển miền nam Trung Quốc, có thể là tiếng Phúc Kiến hoặc Ninh Ba,[42] và từ Mã Lai này đã được các thương nhân Bồ Đào Nha sử dụng vào thời Malacca ở thế kỷ XVI. Đó là những người Bồ Đào Nha đầu tiên mang tên gọi này đến châu Âu.[43]

Xuất xứSửa đổi

Hoa Anh Đào [桜; さくら;Prunus serullata].Nhật Bản có mĩ danh là xứ sở hoa Anh Đào, vì người Nhật rất thích nên trồng cây hoa anh đào khắp nước Nhật và hoa anh đào nằm trải dài từ vùng Hokkaido giá lạnh đến vùng Okinawa ấm áp

Cho đến nay người ta vẫn chưa chắc chắn về xuất xứ và thời gian xuất hiện của những cư dân đầu tiên trên quần đảo Nhật Bản. Tuy nhiên, hầu hết các học giả đều cho rằng người Nhật đã có mặt tại quần đảo từ xa xưa và định cư liên tục từ đó cho đến thời nay. Những phát hiện trong nghiên cứu cổ vật, xương đã củng cố thêm sự nghi ngờ đối với thuyết trước kia cho rằng người Nhật là con cháu của những người xâm chiếm đến sau "thổ dân" Ainu và đã đẩy bộ tộc này ra khỏi quần đảo. Ngày nay, người ta tin rằng tổ tiên của người Nhật là những người đã làm nên đồ gốm mang tên Jomon. Những người này được biết là đã có mặt trên quần đảo ít nhất từ năm 5000 TCN, sau đó theo thời gian, pha trộn với các giống người khác, phát triển qua lịch sử thành dân tộc Nhật Bản ngày nay.

Ngôn ngữ và phong tục của người Nhật gồm những thành tố văn hóa của cả phương Bắc lẫn phương Nam. Dưới góc độ sử dụng và cú pháp, rõ ràng tiếng Nhật thuộc ngữ hệ Altai của các dân tộc phía bắc lục địa châu Á, song trong từ vựng lại có nhiều từ gốc đến từ phía nam. Trong các tập quán và tín ngưỡng, ta thấy các lễ nghi gắn với văn hóa lúa nước vốn có nguồn gốc ở phía nam; còn huyền thoại lập nước bởi vị thần - ông tổ của nòi giống – từ thiên đường xuống hạ giới thì có nguồn gốc ở phía bắc. Vì vậy, người ta cho rằng dân cư ở đây có xuất xứ từ cả phương Bắc lẫn phương Nam, đến quần đảo Nhật Bản từ thời tiền sử và qua một quá trình hoà trộn các chủng tộc dần dần tạo ra dân tộc Nhật Bản.[cần dẫn nguồn]

Lịch sửSửa đổi

Bài chi tiết: Lịch sử Nhật Bản

Thời tiền sửSửa đổi

Từ 15.000 năm trước Công Nguyên, ở Nhật Bản đã có con người sinh sống.

Từ 13.000 năm trước Công Nguyên, người Nhật đã biết làm nông nghiệp sơ khai, làm đồ gốm[44][45][46], sống định cư.

Từ 8000–300 năm trước Công Nguyên là thời kì văn hóa Jomon đã sử dụng đồ kim khí, chế tạo đồ gốm, nấu chín thức ăn, chôn cất người chết theo thế nằm co, có tín ngưỡng vạn vật hữu linh, có tục xăm mình, nhổ răng cửa đánh dấu tuổi trưởng thành.[47][48][49][50]

Từ thế kỉ III trước Công Nguyên đến thế kỉ III Công nguyên là văn hóa Yayoi. Thời kì nay cư dân biết rèn sắt do tiếp nhận kĩ thuật từ Triều Tiên, Trung Hoa. Biết cày cuốc bằng cày gỗ, rìu đá. Họ sống quần cư, lập hào nước bao quanh làng [kango], có tục tái táng người chết [saisobo]; làm mộ hình gò [funkyuubo], sắp xếp người chết theo thế nằm ngửa tay chân duỗi thẳng. Mỗi tộc người có thủ lĩnh công xã đứng đầu, liên minh nhiều công xã gây chiến tranh xâm chiếm các vùng đất khác. Xây dựng thần xã [Yashiro].

Từ thế kỷ thứ III đến giữa thế kỷ thứ VI, những nhà nước đầu tiên xuất hiện. Thần đạo phát triển khắp cả nước. Nước Nhật bắt đầu có tên gọi là Yamato.[cần dẫn nguồn]

Thời phong kiếnSửa đổi

Từ thế kỷ thứ VI đến đầu thế kỷ thứ VIII, một nhà nước tập quyền được thành lập và đóng đô ở Asuka [gần thành phố Nara ngày nay]. Tên nước từ Yamato đổi thành Nhật Bản. Cũng trong khoảng thời gian này, thành lập nhà nước phong kiến Nhật, với cuộc cải cách Đại Hóa do Thiên hoàng Hiếu Đức đề xướng.[cần dẫn nguồn]

Giữa thế kỷ thứ VIII, Phật giáo đã thiết lập cơ sở vững chắc ở Nhật Bản.[51]

Từ thế kỷ thứ IX đến cuối thế kỷ XII, các dòng họ quý tộc hùng mạnh ở Heian thay nhau nắm sức mạnh chính trị của đất nước, lấn át quyền lực của Thiên hoàng. Cuối thời này, tầng lớp võ sĩ [samurai] bắt đầu hình thành và tranh giành quyền lực với các dòng tộc quý tộc.

Cuối thế kỷ XII đến đầu thế kỷ XIV, quyền lực thực sự nằm trong tay tầng lớp võ sĩ ở Kamakura. Vào các năm 1271 và 1281, các võ sĩ Nhật Bản với sự trợ giúp của bão và sóng thần đã đánh bại hải quân Nguyên – Mông định xâm lược nước mình.

Từ thế kỷ XIV đến cuối thế kỷ XVI, nước Nhật trong tình trạng mất ổn định do nội chiến và chia rẽ, gọi là Thời kỳ Chiến Quốc. Nhật Bản cũng từng tấn công bán đảo Triều Tiên và nhà Minh [Trung Quốc] trong thời kỳ này, nhưng thất bại.[cần dẫn nguồn]

Thời hiện đạiSửa đổi

Sau đó, nước Nhật có một thời kỳ thực hiện chính sách đóng cửa ổn định kéo dài ba thế kỷ dưới sự cai trị của Mạc phủ Tokugawa. Kinh tế, văn hóa và kỹ thuật có điều kiện phát triển mạnh mẽ. Người phương Tây, khởi đầu là người Hà Lan, được phép giao thương với Nhật Bản thông qua một thương cảng nhỏ.

Các lãnh thổ Đế quốc Nhật Bản đánh chiếm trong giai đoạn 1872-1942

Giữa thế kỷ XIX, với cuộc Minh Trị Duy Tân do Thiên hoàng Minh Trị đề xướng, Nhật mở cửa triệt để với phương Tây. Chế độ Mạc phủ và các phiên do đại danh đứng đầu bị bãi bỏ, quyền lực được tập trung tối cao trong tay Thiên hoàng. Năm 1868, Thiên hoàng Minh Trị dời đô từ Kyōto về Tōkyō. Theo Hiến pháp Đế quốc Nhật Bản được ban hành năm 1889, Nhật là nước theo chính thể quân chủ lập hiến với quyền uy tuyệt đối của Thiên hoàng, nắm toàn bộ quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp nhưng Hiến pháp cũng đã hạn chế ảnh hưởng quyền lực của Thiên hoàng. Trong thời kỳ này, công nghiệp hóa diễn ra mạnh mẽ, đất nước phát triển, vào đầu thế kỷ 20 thì Nhật Bản đã trở thành quốc gia có trình độ hiện đại hóa cao nhất châu Á. Với sức mạnh này, Nhật Bản xâm chiếm Đài Loan, Lưu Cầu, xâm lược Triều Tiên, đánh bại nhà Thanh, đế quốc Nga trong Chiến tranh Thanh-Nhật và Chiến tranh Nga-Nhật, trở thành nước đế quốc có thế lực ngang hàng với các cường quốc ở châu Âu[52].

Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Nhật đứng về phe Hiệp ước. Do ở bên chiến thắng, Nhật Bản chiếm thêm được một số thuộc địa của Đức ở Thái Bình Dương.

Sang Chiến tranh thế giới thứ hai, quân phiệt Nhật đứng về phe Trục với Ý và Đức Quốc xã [53]. Dựa vào lực lượng quân đội có trình độ khá hiện đại [đặc biệt là hải quân và không quân], trong giai đoạn đầu chiến tranh, Nhật Bản liên tiếp đánh bại quân Anh-Mỹ. Tuy nhiên, vào giai đoạn sau, Nhật Bản dần thất thế. Lần đầu tiên trong lịch sử, vào năm 1945, Nhật thất bại và phải chịu sự chiếm đóng của nước ngoài.[54] Hoa Kỳ phụ trách việc chiếm đóng Nhật Bản, và cho tới nay Hạm đội 7 Hoa Kỳ vẫn đang đóng ở đảo Okinawa của Nhật.

Sau chiến tranh, do quân đội đã bị giải tán, tất cả thuộc địa cũng bị mất, Nhật tập trung phát triển kinh tế. Tuy cơ sở hạ tầng bị chiến tranh tàn phá nặng, nhưng tiềm lực công nghệ và nhân lực của Nhật vẫn còn khá nguyên vẹn, do đó kinh tế tăng trưởng rất nhanh chóng từ năm 1955 tới năm 1970. Cuối thập niên 1970, Nhật Bản đã trở thành một nước tư bản phát triển. Manh nha những dấu hiệu đình trệ kinh tế đầu tiên sau khủng hoảng dầu lửa đầu thập niên 1970. Bong bóng bất động sản vỡ khiến kinh tế lâm vào trì trệ từ 1990 tới nay.

Bước vào thế kỷ XXI, Nhật Bản ưu tiên hơn đến những chính sách quốc gia để gia tăng vị thế về chính trị và quân sự trên trường quốc tế. Nâng cấp Cục phòng vệ quốc gia thành Bộ quốc phòng vào tháng 1 năm 2007. Tuy nhiên, Nhật Bản tiếp tục phải đối mặt với tình trạng kinh tế trì trệ, và nghiêm trọng hơn là việc tỷ lệ thanh niên kết hôn và sinh đẻ giảm mạnh, khiến nạn lão hóa dân số đã tới mức báo động.

Địa lýSửa đổi

Bài chi tiết: Địa lý Nhật Bản

Sự hình thành của Nhật BảnSửa đổi

Bản đồ mô phỏng địa hình Nhật Bản.

Nhật Bản nằm trên đường ranh giới giữa bốn mảng kiến tạo địa chất của Trái Đất. Nhưng quan trọng là mảng chuyển động này diễn ra không mấy êm ả và có thể dẫn tới những xung động đột ngột mà kết quả là động đất. Khi mảng Thái Bình Dương chìm xuống, các lớp trầm tích bề mặt bị vỡ ra và bị biến dạng. Thậm chí lớp vỏ đại dương cũng sẽ bị tan chảy thành dung nham dâng lên bề mặt, phun trào ở vô số các ngọn núi lửa. Sự phun trào núi lửa cùng với quá trình trầm tích tạo thành một chuỗi các hòn đảo nhiều núi – một dải đảo hình cung.

Núi lửaSửa đổi

Khí sulfide bốc lên từ miệng Nakadake.

Ngọn núi lửa nổi tiếng nhất ở Nhật Bản là Núi Phú Sĩ, mà người Nhật gọi là Fuji-san [Phú Sĩ sơn], cao 3776 m. Sự dốc đứng và dạng hình nón gần như hoàn hảo của ngọn núi đã biến nó thành một cảnh tượng kỳ thú có thể nhìn thấy từ Tokyo. Núi Phú Sĩ là một điểm du lịch được ưa thích và hàng năm có nhiều người leo lên ngọn núi này. Ngọn núi lửa này phun trào lần cuối vào năm 1707 và ngủ yên từ đó đến nay. Tuy nhiên, tháng 8 năm 2000, các nhà khoa học đã phát hiện có những chấn động nhẹ bên dưới núi Phú Sĩ. Các chấn động này đang được nghiên cứu kỹ lưỡng, nhưng cũng đủ để đưa ra lời cảnh báo.

Tất cả những ngọn núi lửa đang hoạt động ở Nhật Bản đều được giám sát nghiêm ngặt để có thể đưa ra lời cảnh báo sơ tán kịp thời như núi Aso, đảo Kyushu. Tại đây đã xảy ra nhiều đợt phun trào và một trong những đỉnh núi lửa chính là đỉnh Nakadake, vẫn tiếp tục phun khí sulfide và đôi lúc có những vụ nổ ở miệng núi lửa. Những màn khí lưu huỳnh bốc lên từ đá dung nham cổ đầy màu sắc và nước hồ trên miệng núi lửa ánh lên một màu xanh kỳ quái luôn sôi sục ở nhiệt độ 900°C.

Động đất và sóng thầnSửa đổi

Bài chi tiết: Động đất và sóng thần tại Nhật Bản

Vị trị địa lý của Nhật Bản khiến cho nước này là một trong những quốc gia xảy ra nhiều thiên tai nhất thế giới. Hai mối đe dọa nghiêm trọng nhất là động đất và sóng thần. Mỗi năm Nhật Bản phải chịu 7500 trận động đất nhẹ, riêng Tokyo có đến 150 trận. Hầu hết các trận động đất này quá nhẹ, không thể nhận ra, nhưng cũng có những trận động đất rất mạnh. Từ trận động đất Kanto chết chóc năm 1923, tới nay Nhật Bản đã phải trải qua 16 vụ động đất và sóng thần. Vụ sóng thần khủng khiếp gần đây nhất xảy ra vào ngày 11 tháng 3 năm 2011 là hậu quả của trận động đất ngầm ngoài khơi Tohoku của Nhật Bản mạnh 9 độ richte, sóng thần cao nhất là 39m, đánh vào ven bờ Sendai làm cho cả thành phố và các khu vực xung quanh bị thiệt hại nặng nề, làm gần 16.000 người chết, hơn 6.000 người bị thương và hơn 2.600 người mất tích.[55]

Hoa anh đào ở công viên Eboshiyama, thành phố Nanyo, Nhật Bản.

Phong cảnh thiên nhiênSửa đổi

Nhật Bản là một xứ sở có phong cảnh được coi là một trong những nơi đẹp nhất thế giới, được đánh giá là một trong 10 đất nước tuyệt vời nhất trên thế giới [năm 2010] và cũng là đại diện châu Á duy nhất có mặt trong danh sách này với bốn mùa thay đổi rõ rệt: mùa xuân với hoa anh đào nở dần từ nam lên bắc, mùa hè cây cối xanh mướt, mùa thu lá phong [momiji] đỏ thắm từ bắc xuống nam, mùa đông tuyết trắng tinh khôi. Núi Phú Sĩ [Fujisan] là ngọn núi cao nhất Nhật Bản, nằm giữa đồng bằng, lại có tuyết bao phủ nơi phần đỉnh núi, là nguồn cảm hứng của rất nhiều văn sĩ và thi sĩ cũng như của các văn nghệ sĩ, trong đó có các nhiếp ảnh gia và họa sĩ khắp bốn phương.

Chủ đề địa lý Nhật Bản
Vị trí các Tỉnh Nhật Bản

Hokkaido

Aomori
Akita Iwate
Niigata Yamagata Miyagi
Ishikawa Toyama Tochigi Fukushima
Fukui Nagano Gunma Saitama Ibaraki
Shimane Tottori Hyōgo Kyoto Shiga Gifu Yamanashi Tokyo Chiba
Yamaguchi Hiroshima Okayama Osaka Nara Aichi Shizuoka Kanagawa
Saga Fukuoka Wakayama Mie
Nagasaki Kumamoto Ōita Ehime Kagawa
Kagoshima Miyazaki Kōchi Tokushima
Okinawa


Người Việt sang Nhật Bản học và làm đều nên 'nhập gia tùy tục'

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

"Việt Nam và Nhật Bản không có sự va chạm về văn hóa và hai nước có thể dễ hiểu nhau"

Giữa tháng 4/2019 BBC News Tiếng Việt có dịp nói chuyện với ông Seiichi Kuriki, một người Nhật ở Tokyo có nhiều duyên nợ với Việt Nam, về văn hóa Nhật Bản và những điều người Việt nên biết khi sang Nhật sống, học tập hay làm việc.

Ông chia sẻ ý kiến về những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai nền văn hóa, về tính cách người Việt cũng như một số quan điểm của người Nhật đối với người nước ngoài.

Đã từng sang Việt Nam học tiếng Việt và sử dụng tiếng Việt trong công việc trong nhiều năm, ông Kuriki trả lời phỏng vấn của BBC bằng ngôn ngữ này.

Du học Nhật Bản: Làm sao để thành công?

Quảng cáo

Vì sao thực tập sinh Việt tử vong ở Nhật Bản?

BBC: Theo ông, văn hóa Việt Nam và Nhật Bản có điểm gì tương đồng?

Seiichi Kuriki: Điểm tương đồng quan trọng nhất giữa văn hóa Việt Nam và Nhật Bản là cả hai đều chịu ảnh hưởng của văn hóa đến từ Trung Quốc, và Phật giáo và Nho giáo.

Ngôn ngữ của hai nước này cũng chịu ảnh hưởng của Trung Quốc rất nhiều. Tư tưởng cũng có nền tảng chung.

So với các nước châu Âu và Trung Đông thì Việt Nam và Nhật Bản không có sự va chạm về văn hóa và hai nước có thể dễ hiểu nhau.

BBC: Có điểm gì ông thích và không thích về tính cách người Việt?

Seiichi Kuriki: Theo nhận xét của cá nhân tôi, nói chung người Việt Nam giỏi về giải quyết vấn đề trước mắt, nhưng xử lý vấn đề lâu dài thì không giỏi như người Nhật.

Người Nhật có tầm nhìn xa hơn cho tương lai. Đây là nhận xét nói chung còn tất nhiên đối với từng người thì khác nhau.

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Người Việt sang Nhật nên học hỏi về văn hóa và tập quán của người Nhật để làm cho người Nhật thân thiện và gần gũi hơn, theo ông Seiichi Kuriki

BBC: Người Việt sang du học và làm việc ở Nhật cần lưu ý những điểm gì về văn hóa giao tiếp của người Nhật?

Seiichi Kuriki: Như tôi nói, Nhật Bản và Việt Nam rất may mắn là có nền tảng văn hóa chung, nên nói chung là dễ hiểu nhau. Nhưng vấn đề là vẫn có sự khác biệt.

Khi tôi đi Việt Nam, tôi rất để ý đến câu "Nhập gia tùy tục". Đó là cái rất quan trọng. Nên người Việt phải học hỏi những luật lệ và quy định của Nhật Bản, và tập quán của người Nhật. Phải luôn quan tâm đến cái văn hóa của họ như thế nào và học hỏi. Thái độ như thế sẽ làm cho người Nhật thân thiện và gần gũi hơn.

Một ví dụ là người Việt Nam cũng thích tiếp xúc cơ thể con người. Khi tôi đi chơi với người Việt Nam, con trai Việt Nam hay bá vai bá cổ, nhưng đối với người Nhật, kể cả bạn bè thì không có cái tập quán như thế này. Nên tôi rất là hoảng sợ [cười lớn]. Thường người Nhật có thể nghĩ anh này có phải đồng tính luyến ái hay không, nhưng mà hóa ra không phải như thế.

Nhật Bản: Vấn đề nữ thực tập sinh Việt có thai

Cơm hộp bento: Truyền thống Nhật có sức lan tỏa lớn

BBC: Người Nhật có tác phong rất khác người Việt. Vậy theo ông, người Việt sang đây gặp khó khăn gì khi giao tiếp và hòa nhập với người Nhật?

Seiichi Kuriki: Chắc là ban đầu người Việt sang đây gặp khó khăn là họ không biết nên giao tiếp với người Nhật chúng tôi như thế nào.

Có lẽ khi sang Nhật Bản, người Việt có ấn tượng ban đầu là họ cảm thấy người Nhật Bản lạnh nhạt với người Việt Nam. Đặc biệt là ở các đô thị thành phố lớn như Tokyo, Osaka, nếu nhìn bên ngoài thì người Nhật có vẻ cách biệt và cô lập, không có quan hệ mật thiết. Người Việt Nam chắc là cảm thấy như thế.

Nhưng thực chất là không phải. Người Nhật cần thời gian dài hơn để xây dựng quan hệ với nhau. Lúc đầu, người Nhật tránh biểu hiện sự thân mật rõ ràng.

Cho nên chắc là người Việt ban đầu không biết làm cách nào để tiếp xúc với người Nhật, và nên biểu hiện sự thân mật tới mức nào.

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Thái độ của người Nhật ở vùng quê rất khác với ở các thành phố lớn

Nhưng ở vùng quê thì khác hẳn. Ở vùng quê, thái độ của người Nhật gần giống như vùng quê ở Việt Nam, rất là hiếu khách.

Phải để ý là người ở vùng quê cũng rất là bảo thủ. Mến khách thì lúc đầu họ rất là mến khách, nhưng nếu không hiểu cái văn hóa của họ, mà không thân mật với nhau thì họ sẽ né tránh những người đó.

Nên ở vùng quê và ở thành phố phải có thái độ hơi khác nhau.

BBC: Có ý kiến cho rằng người Nhật coi thường người các nước châu Á khác nhưng lại vừa thích vừa e ngại người Phương Tây. Anh nghĩ sao về ý kiến này?

Seiichi Kuriki: Trong lịch sử Nhật Bản, có một thời gian dài dưới thời đại Edo, thì Nhật rất hạn chế giao lưu với bên ngoài. Chỉ có giao thương với Trung Quốc và Hà Lan thôi. Khoảng gần 300 năm như vậy.

Sau đó, Nhật Bản chỉ mới mở rộng lưu được 200 năm thôi. Thế cho nên người Nhật chúng tôi nói chung là không khéo léo khi giao lưu với người nước ngoài. Có một số người Nhật nghĩ là không nên cho nhiều người nước ngoài vào Nhật Bản, và họ rất ái ngại với việc giao lưu với người nước ngoài.

Nhưng bây giờ quốc tế hóa rồi, cho nên cũng có những người nói phải tăng cường giao lưu nhiều hơn.

Có một số người suy nghĩ là nếu mà đất nước Nhật Bản và con người Nhật Bản không thể có quan hệ tốt với người nước ngoài, thì người nước ngoài cũng sẽ không thấy nước Nhật có sự hấp dẫn, và họ sẽ đi nơi khác.

Như vậy thì tình trạng thiếu lao động ở Nhật Bản hiện nay sẽ không thể cải thiện được. Thế cho nên dù thế nào cũng phải xây dựng quan hệ tốt với người nước ngoài để chúng ta cùng tồn tại, cùng phồn vinh được.

Cho nên bây giờ có vấn đề với thực tập sinh kỹ năng, có không ít trường hợp kiểu như là bóc lột ở các cơ sở. Để cải thiện tình hình như thế thì bây giờ có cái tư cách mới. Việt nam và Nhật Bản đang xem xét chi tiết về tư cách này để có thể thu hút lao động nước ngoài nhiều hơn, với cái điều kiện tốt hơn, ngăn chặn những bất đồng như hiện nay xảy ra nữa.

[*Tháng 12/2018, Chính phủ Nhật Bản đã chính thức thông qua chính sách mới với 2 tư cách lao động dành riêng cho chương trình Thực tập sinh kỹ năng. Luật mới có hiệu lực từ tháng 4/2019 nhưng thời điểm áp dụng là khác nhau cho từng nước và từng ngành nghề.]

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Nhiều phụ nữ Nhật Bản được trông đợi sẽ ở nhà nuôi dạy con cái, nhưng ngày càng nhiều phụ nữ vừa đi làm vừa chăm sóc con cái.

BBC: Nhiều phụ nữ Việt theo chồng sang Nhật Bản cảm thấy khó thích nghi với xã hội Nhật vì Nhật Bản là xã hội nam trị và phụ nữ được trông đợi phải ở nhà nuôi dạy con cái. Họ nên làm gì để hòa nhập với xã hội Nhật dễ dàng hơn?

Seiichi Kuriki: Cơ cấu của xã hội Nhật Bản không thay đổi được nhanh chóng. Tuy nhiên, cũng rất nhiều phụ nữ vừa đi làm vừa chăm sóc con cái. Nên nếu họ tìm được chỗ nào đi làm việc thì làm việc cũng được.

Còn nếu không thì tôi khuyên các bạn ấy nên tham gia vào các sinh hoạt tình nguyện hay sinh hoạt xã hội. Các mamasan [các mẹ] ở Nhật cũng thế đó. Có thể thông qua sinh hoạt ở trường học của các con, xây dựng quan hệ bạn bè với các mẹ. Không nên ở nhà buồn.

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Ngày càng có nhiều đàn ông Nhật tham gia vào việc chăm sóc, nuôi dạy con cái

BBC: Còn vai trò của đàn ông Nhật Bản trong việc nuôi dạy con cái thì như thế nào?

Seiichi Kuriki: Theo truyền thống của Nhật Bản, vai trò của người cha theo trong việc nuôi dạy con cái là rất ít. Từ xưa tới nay, nói chung người cha Nhật thường là tấm gương và chỉ cho con cái con đường chúng phải đi. Người cha Nhật ít khi chơi với con hay dạy con học.

Nhưng truyền thống đó bắt đầu có sự thay đổi rồi. Họ tham gia nuôi dạy con nhiều hơn. Tôi cũng là một ví dụ. Trường hợp của cá nhân tôi, tôi công tác ở Tokyo, gia đình tôi ở Nagoya. Nhưng mỗi khi về thăm nhà, tôi đều dạy con cái học hành.

Phương Tây nhìn người Châu Á thế nào?

Nguồn hình ảnh, PA

Chụp lại hình ảnh,

Nhiều nước Phương Tây đã quen với xã hội đa văn hóa

Trong bài tiểu luận trước, tôi đã đề cập đến những vấn đề, góc nhìn và sự phát triển gần đây mà người Việt cần biết trước khi họ mạo hiểm sang Phương Tây.

Tuy nhiên, tôi đã sao nhãng một câu hỏi rất quan trọng: “Nói chung, người Tây nhìn và đối xử với người Việt và người Châu Á như thế nào?”

Tin mừng là người Tây nói chung nhìn người Châu Á cũng giống như mọi người khác. Vì đạo đức tự do được phổ biến và cá nhân được đề cao, nhiều nước Phương Tây tin tưởng rằng mọi người nên được đối đãi bình đẳng và công bằng. Có pháp luật ở mỗi nước khuyến khích và bảo vệ lý tưởng này, tức là trong việc làm và cả trong đời sống công cộng, không phân biệt nam hay nữ, gia đình, giới tính, tôn giáo, dân tộc hoặc là chủng tộc. Quan trọng nữa là những đạo luật này phản ánh sự cởi mở và quyết tâm có công bằng xã hội mà đã giúp cho phương Tây thành công và đáng được đến thăm hay định cư.

Nhưng dĩ nhiên, xã hội phương Tây, như bất cứ xã hội nào, không phải lúc nào cũng sống đúng theo lý tưởng của mình. Mặc dù những vụ phân biệt chính thức hay quá khích ít xảy ra, nhưng sự phân biệt thực sự vẫn còn. Theo kinh nghiệm của tôi sau khi ở Úc hơn 30 năm, rất hiếm khi xảy ra các vụ tấn công bạo lực do kỳ thị chủng tộc. Vì vậy, mỗi người đi nước ngoài, dù phải lo về an toàn cá nhân, nhưng không phải vì thế mà ngần ngại làm chuyến “Tây du ký”.

Tệ phân biệt mà người Châu Á nên chú ý hơn là sự phân biệt “tinh tế hơn”, hiện hữu trong những cửa hàng và quán ăn nơi mà người bán hàng và hầu bàn có vẻ đối xứ với mình cộc lốc và uể oải hơn những khách không phải là người Châu Á. Đôi khi chúng ta bị bắt gặp đang nói chuyện to bằng tiếng Việt và người qua đường nhìn chúng ta với thái độ khinh miệt. Và chúng ta có thể nhận ra khi người khác cười khẩy vì những điều bình thường đại loại như râu tóc, ngón tay nhỏ dài, một món ăn không quen hay cách ta đậu xe hơi.

Sự khác biệt trong văn hóa Đông – Tây và những suy nghĩ đối với việc phát triển văn hóa Việt Nam hiện nay

05/03/2014
Share
Facebook
Email
Print
Viber
Pinterest
Linkedin

TCCSĐT – Văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây tự nó đã có sự khác biệt. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay, sự giao lưu văn hóa Đông – Tây tạo nên những cơ hội để mỗi quốc gia phát huy và tiếp thu những khía cạnh tích cực của mỗi nền văn hóa, góp phần làm giàu thêm bản sắc văn hóa của đất nước, dân tộc mình.

Một số điểm khác biệt chủ yếu giữa văn hóa phương Đông và phương Tây
Một là,sự khác biệt trong việc nhìn nhận và đánh giá về thế giới xung quanh. Đối với người phương Tây, ngay từ thời cổ đại, cách nhìn nhận và đánh giá về thế giới xung quanh đã thể hiện khá rõ lập trường triết học của họ dưới các hình thức thế giới quan khác nhau, thậm chí đối lập nhau: có thế giới quan duy vật, có thế giới quan duy tâm, có thế giới quan lạc quan, tích cực, có thế giới quan bi quan, tiêu cực…

Trong sự phát triển của các nước phương Tây từ xưa đến nay, những người có thế giới quan duy vật, lạc quan tích cực [dù dưới các hình thức thô sơ, máy móc hay biện chứng…] thường đại diện cho xu hướng tư duy tiến bộ, ủng hộ hoặc đồng hành với sự phát triển của khoa học. Trái lại, những người có thế giới quan duy tâm, bi quan tiêu cực [dù dưới các hình thức chủ quan, khách quan hay tôn giáo] thường đại diện cho xu hướng tư duy phản tiến bộ, không tin hoặc cản trở sự phát triển của khoa học. Trong thói quen xem xét của người phương Tây, thế giới chỉ có thể là đen hoặc trắng chứ không chấp nhận một thế giới đen – trắng lẫn lộn. Điều đó lý giải tại sao người phương Tây lại coi trọng lối tư duy “duy lý” chứ không phải “duy tình”.

Trái lại, đối với người phương Đông, do điều kiện sinh tồn có sự khác biệt so với các nước phương Tây [tính khép kín trong sự phát triển của nền văn minh nông nghiệp, mô hình kinh tế – xã hội chủ yếu mang đặc điểm của phương thức sản xuất châu Á, chịu ảnh hưởng nặng nề của chế độ phong kiến…], nên cách nhìn nhận và đánh giá về thế giới xung quanh thường phức tạp hơn. Trong nhận thức của người phương Đông, thế giới xung quanh không phải là những mảnh ghép rời rạc nhau mà là một chỉnh thể có tính thống nhất giữa trời, đất và con người. Chính vì thế, trong triết học phương Đông một số lý thuyết triết học, như lý thuyết về “tam tài” [Trời – Đất – Người], lý thuyết “Thiên Nhân hợp nhất” [Trời với Người là một] luôn được các nhà triết học qua các thời đại ở các nước phương Đông đề cao. Đây chính là cơ sở quan trọng để hình thành nên thói quen đề cao văn hóa cộng đồng. Việc coi nhẹ văn hóa cá nhân của người phương Đông cũng là một sự khác biệt căn bản giữa văn hóa phương Đông với văn hóa phương Tây.

Trong quá trình hình thành nên thế giới quan của mình, người phương Đông ít chịu ảnh hưởng bởi các khuynh hướng triết học cụ thể. Sự cạnh tranh của các học thuyết triết học ở các nước phương Đông không gay gắt như ở các nước phương Tây. Đồng thời, cũng do nền tảng phát triển của tri thức khoa học, đặc biệt là các tri thức về khoa học tự nhiên qua các thời đại còn hạn chế, nên trong thế giới quan của người phương Đông, các yếu tố duy tâm, duy vật, biện chứng và siêu hình thường đan xen lẫn lộn. Điều này cũng có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành phương pháp luận trong văn hóa ứng xử của người phương Đông, trong đó, những khía cạnh tích cực là tính linh hoạt, mềm dẻo,…; còn những khía cạnh tiêu cực là: tính hữu khuynh, tính dễ thỏa hiệp trong việc thừa nhận chân lý…

Hai là,sự khác biệt về phương thức tư duy và văn hóa ứng xử. Có lẽ đây là một trong những điểm khác biệt dễ nhận thấy nhất khi so sánh sự khác biệt giữa văn hóa phương Đông với văn hóa phương Tây. Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển tư duy của nhân loại, người ta thấy có sự khác biệt, thậm chí đối lập nhau, trong phương thức tư duy giữa phương Đông và phương Tây. Đối với người phương Đông, do đặc điểm về điều kiện địa lý, phương thức sản xuất và lịch sử phát triển xã hội nên họ thường chú trọng và đề cao phương thức tư duy trực giác [duy cảm]. Đặc điểm nổi bật của phương thức tư duy trực giác [triết học] là “cách thức tư duy chú trọng đến sự cảm nhận hay thể nghiệm”[1]. [1]. Về mặt đời thường, phương thức tư duy trực giác thể hiện thành thói quen tư duy khi đứng trước đối tượng nhận thức thường chỉ chú trọng tới yếu tố trực quan cảm tính, bề ngoài, mà ít đi sâu nghiên cứu các chi tiết bên trong. Về phương diện văn hóa, do chịu ảnh hưởng bởi phương thức tư duy trực giác nên trong cách suy nghĩ và ứng xử của người phương Đông trong cuộc sống thường ngày thường mang tính trực quan, cảm tính, đề cao nhận thức kinh nghiệm [chủ yếu là kinh nghiệm đời thường của cư dân nông nghiêp], coi nhẹ vai trò của tri thức lý luận, tri thức khoa học. Đặc biệt trong cách ứng xử, người phương Đông thường theo lối “duy tình”. Lối tư duy này cũng có những điểm tích cực, như đề cao tính cố kết cộng đồng; tính dễ thân thiện; coi trọng các quan hệ thân tộc. Nhưng lối tư duy này tự nó cũng bộc lộ những hạn chế, như sự cả tin [dễ tin do vẻ bề ngoài]; sự nể nang [do tình thân, do quan hệ] mà làm mất đi lý trí, sự sáng suốt trong đánh giá, nhận định; dễ tạo ra sự ồn ào, chạy theo vẻ bề ngoài; coi trọng đạo đức hơn tài năng con người, coi trọng tình cảm hơn lý trí [một trăm cái lý không bằng một tí cái tình].

Ngược lại với thói quen văn hóa dựa vào phương thức tư duy trực giác của phương Đông, người phương Tây có thói quen văn hóa dựa vào phương thức tư duy duy giác. Tư duy duy giác [hay tư duy duy lý] là phương thức tư duy chỉ chú trọng đến giai đoạn nhận thức lý tính, là “lối tư duy độc lập chỉ thiên về lý trí, chỉ tin vào lý trí”.

Về mặt văn hóa, lối tư duy duy lý của người phương Tây cũng có những điểm tích cực trong nhận thức cũng như hành vi ứng xử, thường phân minh rõ ràng, trắng ra trắng, đen ra đen và không chấp nhận sự lẫn lộn giữa đen và trắng, tính thực tế trong nhận thức và hành động. Tuy nhiên, bản thân phương thức tư duy đó cũng bộc lộ yếu tố hạn chế, như tính máy móc, khả năng thích ứng với sự thay đổi của hoàn cảnh bị hạn chế. Đặc biệt, người có tư duy duy lý nếu chịu ảnh hưởng bởi mặt trái của chủ nghĩa thực dụng có thể tạo ra thói quen ứng xử thực dụng một cách ích kỷ.

Ba là,sự khác biệt về chủ thể văn hóa. Chủ thể văn hóa ở đây được hiểu là văn hóa cá nhân hay văn hóa tập thể. Do chịu ảnh hưởng bởi thói quen kinh nghiệm về lao động sản xuất của cộng đồng cư dân nông nghiệp nên văn hóa ứng xử của người phương Đông thường coi trọng tính tập thể. Một số lý thuyết triết học phương Đông cũng góp phần tạo cơ sở cho văn hóa ứng xử theo lối tập thể của người phương Đông, như thuyết “Trung dung” của Nho giáo hay thuyết “Đại thừa” trong kinh Phật. Đặc điểm của văn hóa tập thể của người phương Đông là lối nhận thức và ứng xử thường dựa vào số đông. Trong văn hóa ứng xử tập thể thì vai trò của tập thể thường được đề cao thay vì cá nhân; mỗi cá nhân muốn tồn tại trong cộng đồng phải tự biết khép mình, hòa vào số đông thay vì muốn tách ra hoặc bộc lộ năng lực vượt trội của cá nhân trước tập thể. Ưu điểm của dạng văn hóa này là có khả năng phát huy sức mạnh của cộng đồng [một dạng dân chủ cơ sở mang tính sơ khai] nhưng tự nó cũng có những nhược điểm hạn chế, như hạn chế sự phát triển của cá nhân, thiếu địa chỉ cụ thể để quy trách nhiệm về các sai lầm, dễ bị cá nhân lợi dụng để lũng đoạn quyền lực…

Nếu chủ thể văn hóa ở phương Đông là tập thể, cộng đồng thì chủ thể văn hóa ở phương Tây lại là cá nhân. Về phương diện triết học, chủ nghĩa cá nhân [individualism] là khuynh hướng triết học đề cao, thậm chí tuyệt đối hóa vai trò vị trí và những lợi ích có liên quan đến cá nhân với tư cách là một trong những bộ phận cấu thành nên cộng đồng hay xã hội. Những người theo chủ nghĩa cá nhân chủ trương không hạn chế mục đích và ham muốn cá nhân. Họ phản đối sự can thiệp từ bên ngoài lên sự lựa chọn của cá nhân – cho dù sự can thiệp đó là của xã hội, nhà nước, hoặc bất kỳ một nhóm hay một thể chế nào khác. Chủ nghĩa cá nhân do vậy đối lập với chủ nghĩa toàn luận [neo full comment], chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa cộng đồng, và chủ nghĩa công xã, tức là đối lập với những chủ thuyết nhấn mạnh đến việc công xã, nhóm, xã hội, chủng tộc, hoặc các mục đích quốc gia cần được đặt ưu tiên cao hơn các mục đích của cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân cũng đối lập với quan điểm truyền thống, tôn giáo, tức là đối lập với bất cứ quan niệm nào cho rằng cần sử dụng các chuẩn mực đạo đức hay luân lý ở bên ngoài, khách thể, để hạn chế sự lựa chọn hành động của cá nhân. Các khuynh hướng triết học đề cao chủ nghĩa cá nhân xuất hiện từ khá sớm trong triết học phương Tây, nhưng chỉ đến khi chủ nghĩa tư bản hình thành và phát triển ở các nước phương Tây thời kỳ cận đại thì chủ nghĩa cá nhân mới chính thức được khẳng định cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn.

Về mặt văn hóa, chủ nghĩa cá nhân với tính cách là một chủ thể văn hóa thường bộc lộ khả năng nhận thức và hành vi ứng xử mang tính cá nhân, như nhấn mạnh đến sự độc lập của con người và tầm quan trọng của tự do và tự lực của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, chủ nghĩa cá nhân trong văn hóa tự nó cũng mang tính hạn chế, như việc đề cao vai trò của cá nhân thường dẫn tới khuynh hướng cực đoan, tuyệt đối hóa vai trò của cá nhân đơn lẻ, dung dưỡng cho tính ích kỷ của cá nhân, hạ thấp vai trò của cộng đồng, của xã hội. Về mặt này, chủ nghĩa cá nhân gần với chủ nghĩa vị kỷ [egoism]. Chủ nghĩa cá nhân kết hợp với chủ nghĩa thực dụng làm cho văn hóa cá nhân ở các nước phương Tây mang một màu sắc mới – văn hóa thực dụng, một hình thức văn hóa khá điển hình trong văn hóa Mỹ hiện nay.

Bốn là,sự khác biệt về tôn giáo và đức tin. Về mặt lịch sử, các tôn giáo lớn trên thế giới xuất hiện lần đầu tiên vào những năm đầu Công nguyên nhưng ý thức tôn giáo của nhân loại thì đã xuất hiện trước đó hàng nghìn năm cả ở phương Đông và phương Tây. Tuy nhiên, theo thời gian, việc lựa chọn đức tin đối với các tôn giáo giữa người phương Đông và phương Tây có khác nhau. Đa số các cộng đồng dân cư các quốc gia phương Tây đều theo Thiên chúa giáo, nên trong ý thức về tôn giáo của họ đức tin đối với đạo Thiên chúa có một vị trí và ý nghĩa rất lớn. Điều đó giải thích tại sao trong rất nhiều sinh hoạt văn hóa và lễ hội của người phương Tây đều có liên quan đến đức tin đối với đạo Thiên chúa và góp phần tạo ra bản sắc văn hóa riêng của họ. Ngược lại, đức tin tôn giáo của cộng đồng dân cư phương Đông lại có vẻ phức tạp hơn. Do điều kiện lịch sử, địa lý và chính trị khác nhau nên người phương Đông thường có đức tin về các tôn giáo khác nhau. Ngoài đức tin về một số tôn giáo phổ biến như Phật giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Nho giáo hay Đạo giáo, người phương Đông còn có đức tin tôn giáo vào các hiện tượng tín ngưỡng và văn hóa tâm linh khác. Do đó, so với đức tin tôn giáo của người phương Tây, sự hình thành đức tin và các sinh hoạt văn hóa liên quan đến tôn giáo của người phương Đông cũng thường đa dạng và phức tạp hơn. Chính vì thế, tại các quốc gia phương Đông không có ý thức tôn giáo thuần nhất như ở phương Tây mà chỉ có các trung tâm sinh hoạt tôn giáo khác nhau góp phần tạo nên bản sắc văn hóa riêng cho từng vùng, miền trong khu vực.

Một số suy nghĩ rút ra đối với Việt Nam

Việt Nam là một quốc gia thuộc khu vực châu Á nên trong quá trình phát triển, nền văn hóa Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng và bị chi phối bởi các đặc trưng văn hóa của các quốc gia phương Đông nói chung. Trong điều kiện toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay, cũng giống như nhiều quốc gia khác, Việt Nam không nằm ngoài xu hướng giao lưu văn hóa Đông – Tây. Do đó, để chủ động trong việc “xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiến tiến đậm đà bản sắc dân tộc” [2] [2] như Đại hội XI của Đảng đã khẳng định, có thể nêu một số suy nghĩ trong cách ứng xử và xây dựng nền văn hóa Việt Nam hiện nay.

Thứ nhất, cần tạo lập một môi trường đa văn hóatrong phát triển văn hóa ở mỗi quốc gia. Tính đa văn hóa trong phát triển văn hóa quốc gia hiện nay được hiểu là tính chất đa dạng, sự giao lưu và tồn tại đan xen các dạng thức văn hóa khác nhau trong một nền văn hóa thống nhất. Môi trường đa văn hóa ấy cần được hiểu ở cả hai chiều cạnh:Một là,tạo ra sự giao lưu và tính tiếp biến giữa văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại; vàhai là,tạo lập môi trường giao lưu giữa văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây. Bài học của các quốc gia phát triển trong khu vực và trên thế giới cho thấy, tạo lập một môi trường đa văn hóa không những không cản trở mà còn tạo động lực cho sự phát triển của quốc gia.

Thứ hai, phát huy ưu điểm, khắc phục những hạn chế của văn hóa Đông – Tâytrong việc tạo lập một nền văn hóa mới. Là một quốc gia phương Đông, dĩ nhiên nền văn hóa của Việt Nam trong tương lai phải là một nền văn hóa mang bản sắc phương Đông. Nhưng muốn văn hóa phương Đông trở thành một phần động lực trong quá trình phát triển, trước hết chúng ta cần xác định rõ những giá trị trong văn hóa phương Đông cần phát huy cũng như hạn chế, những nhược điểm có thể gây cản trở cho sự phát triển của nó. Đối với việc tiếp thu các giá trị văn hóa phương Tây trong quá trình xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam cũng cần có quan điểm biện chứng, nghĩa là biết kế thừa, tiếp thu những giá trị hợp lý, đồng thời cũng biết loại bỏ những giá trị không phù hợp. Bài học chung của nhiều quốc gia trong khu vực, như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Xin-ga-po, là: trong quá trình phát triển nền văn hóa của mình, họ chú ý nhiều hơn đến các giá trị văn hóa phương Đông để tạo nên đường hướng hình thành bản sắc riêng cho nền văn hóa, đồng thời tiếp thu các giá trị tích cực trong văn hóa phương Tây để tạo ra tính chất tiên tiến, hiện đại của nền văn hóa. Có thể coi đây là gợi ý quan trọng cho Việt Nam trong việc kế thừa, tiếp thu các giá trị văn hóa Đông – Tây trong phát triển văn hóa hiện nay.

Thứ ba, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.Xu thế hội nhập thế giới khiến mỗi nền văn hóa ngày càng mở rộng giao lưu với các nền văn hóa khác trên thế giới, đặc biệt là sự giao lưu giữa hai nền văn hóa Đông và Tây. Tuy nhiên, quá trình hội nhập quốc tế cũng dễ dẫn đến chỗ nền văn hóa bản địa bị hòa tan hoặc đơn giản là không còn bản sắc, do đó việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa trong bối cảnh hiện nay đối với nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, là hết sức cần thiết. Bài học của nhiều quốc gia trên thế giới và trong khu vực cho thấy, việc giữ gìn và phát huy có hiệu quả bản sắc dân tộc trong quá trình phát triển văn hóa là giải pháp quan trọng nhất để đưa nền văn hóa quốc gia hội nhập sâu rộng với các giá trị văn hóa tiên tiến của thế giới. Chứng kiến sự phát triển của nền văn hóa Nhật Bản hiện nay, bên cạnh các giá trị tiên tiến, hiện đại mang dáng dấp của văn hóa châu Âu được nhà nước Nhật Bản cho phép du nhập và phát triển thì những giá trị văn hóa truyền thống của Nhật Bản cũng được giữ gìn và phát huy có hiệu quả. Sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố truyền thống và yếu tố hiện đại đã tạo ra tính chất độc đáo trong sự phát triển của văn hóa Nhật Bản hiện nay. Cũng giống như Nhật Bản, Hàn Quốc không chỉ nổi tiếng là một đất nước hiện đại và năng động mà còn là một đất nước có nền văn hóa với truyền thống lâu đời được gìn giữ và phát triển qua hàng nghìn năm lịch sử. Thành công trong phát triển của nền văn hóa Hàn Quốc không chỉ dừng lại ở sự thành công trong kết hợp giữa yếu tố truyền thống và hiện đại mà quan trọng hơn đã tạo ra những giá trị văn hóa riêng và mới, góp phần làm thay đổi nhanh hơn diện mạo đất nước, con người Hàn Quốc.

Như vậy, quá trình nghiên cứu và đi đến khẳng định sự khác biệt trong văn hóa Đông – Tây chính là để thấy rõ hơn sự cần thiết phải kết hợp văn hóa Đông – Tây trong xây dựng và phát triển nền văn hóa của mỗi quốc gia trong bối cảnh hiện nay./.

________

[1]. PGS.TS. Phạm Công Nhất [chủ biên]: Giáo trình triết học [Dành cho học viên cao học và nghiên cứu sinh thuộc nhóm ngành khoa học xã hội và nhân văn], Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2013, tr. 41
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 75

5 / 5 [ 1 bình chọn ]
  • TAGS
  • bản sắc
  • cach mang
  • chinh tri
  • cơ hội
  • dân tộc
  • dang
  • dang bo
  • dang spkt
  • dang uy
  • dangbo
  • giao lưu
  • góp phần
  • hcmute
  • hiện nay
  • khác biệt
  • khía cạnh
  • làm giàu
  • ly luan
  • phát huy
  • phương tây
  • quốc gia
  • quốc tế
  • spkt
  • tích cực
  • tiếp thu
  • toàn cầu
  • ute
  • văn hóa
Share
Facebook
Email
Print
Viber
Pinterest
Linkedin
Bài trướcBình thường hay không bình thường
Bài tiếp theoNhững điều cần biết

Video liên quan

Chủ Đề