Sức sống tiềm tàng của nhân vật A Phủ

Cuộc đời của Mị được tính từ khi cô về làm dâu nhà thông lí Pá Tra. Thường thì khi người con gái lấy chồng giàu thì sướng, nhàn hạ. Nhưng đây, Mị chỉ lùi lũi một mình, câm lặng. Xưa kia Mị cũng đã có một thời con gái hạnh phúc [ trong đói nghèo]. Những đêm tình mùa xuân, con trai đến thổi sáo đứng “chật cả chân vách đầu buồng Mị”. Và Mị đã có một tình yêu, có hiệu gõ vách hẹn hò. Tâm hồn cô gái xinh đẹp và loài hoa ấy luôn mở rộng để đón nhận hương hoa của cuộc đời. Nhưng rồi tất cả đều chấm dứt trong cái đêm Mị bi bắt cóc về nhà thống lí Pá Tra. “Sáng hôm sau, Mị mới biết mình đang ngồi trong nhà thống lí Pá Tra. Họ nhốt Mị vào buồng. Ngoài vách kia, tiếng nhạc tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa”. Mị bị bắt cóc để rồi trở thành con dâu thông lí là trả cái món nợ hôn nhân từ đời cha mẹ Mị.

Những ngày đầu làm dâu nhà thống lí, Mị thấm thìa nỗi đau một cuộc đời bị cướp đoạt “đêm nào Mị cũng khóc”. Đúng là về làm dâu gạt nợ, Mị bị cha con thống lí đốì xử không khác gì con vật. Suốt ngày Mị chỉ “ngồi quay sợi gai cạnh tảng đá, trước cửa tàu ngựa, gương mặt cô lúc nào cũng cúi xuống, mặt buồn rười rượi”. Cuộc đời cô cột chặt vào những công việc nặng nhọc. Đọc đoạn văn mở đầu của truyện không thể không băn khoăn, khao khát muốn hiểu nguyên nhân xô đẩy Mị vào tinh cảnh mà cô phải chịu.

Trước khi về cửa nhà thống lí Mị đẹp như một bông hoa rừng. Cô là một phụ nữ trẻ đẹp, chăm chỉ công việc, giàu lòng hiếu thảo, tự tin, thông minh…Người con gái ấy là niềm khát khao, ước mơ của bao nhiêu tràng trai “Có biết nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Mị chưa kịp nếm những trái ngọt của cuộc đời đã phải cay đắng tìm đến nắm lá ngón, mong kết liễu cuộc đời không ra gì. Bởi vì, Mị không muôn chấp nhận một cuộc sống chết mòn héo úa – điều này chứng tỏ con người Mị tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt, muốn thoát khỏi cuộc sống nô lệ. Nhưng vì tình thương cha, lòng hiếu thảo, Mị khó không đành chết nên vứt nắm lá ngón, trở lại nhà thống lí. Ngày lại ngày qua, nổi khổ cực đã dồn nén dần cái sức sống tiềm tàng trong con người Mị. Mị không nghĩ đến cái chết nữa [ngay cả khi cha cô không còn]. Mị tưởng mình cũng chỉ là con trâu, con ngựa nhà thông lí, sống trong nhà thống lí ách áp bức của giai cấp thống trị, thần quyền, sự mê tín đã biến Mị trở thành con người hoàn toàn khi “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Dường như mối giao cảm giữa Mị với cuộc sống bên ngoài chỉ còn thu hẹp của “căn buồng âm u, kín mít, có một chiếc cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trắng trắng, không biết là sương hay nắng”.

“Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha, bồi hồi”. Tiếng sáo ấy đã khơi dậy sức sống ẩn náu trong Mị tưởng như đã nguội tắt. Mị còn nhớ như in những lời hát tình tứ mà Mị đã nghe, đã hát, đã thổi sáo, thổi kèn lá ngày nào. Hiện tại bây giờ cô đang sống lại cảnh tượng ngày xưa. Cô đâu phải là con người “chết dần chết mòn” về nhân tính như Chí Phèo. Tiếng sáo bây giờ đã thấm vào trái tim Mị, thức tỉnh sự câm lặng bấy lâu. Rồi Mị uống rượu, men rượu hay men cuộc đời đã nâng bỗng tâm hồn Mị lên, tâm hồn Mị đã thoát xác, vượt ra ngoài cái ô cửa “mờ mờ trăng trắng kia”. Khát vọng đi chơi bỗng bùng cháy trong tâm hồn Mị. Khái vọng ấy là cuộc khởi nghĩa nhân tính trong Mị. Bởi vì, từ ngày về làm dâu nhà thông lí “Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết. Mị cũng chẳng buồn đi”. Vậy mà khi tiếng chó sủa xa xa, vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Sau bao nhiêu năm sống trong nhà thống lí, lần đầu tiên tiếng sáo của ai đó đến với Mị như một âm thanh của hiện tại. Rồi sau đó tiếng sáo làm sống lại bao rung động tâm linh của mùa xuân năm nào. Mới đầu tiếng sáo còn lấp ló nơi đầu núi, cuối cùng tiếng sáo đã thực sự hoá thân, nhập thân trong Mị “Trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo”. Góp phần làm nên cuộc “nổi loạn” nhân tính trong Mị có nhiều yếu tố; yếu tố ngoại lực, yếu tố nội lực. Trong đó, yếu tố quan trọng nhất phải chăng là tiếng sáo mùa xuân. Ngày xuân, không có gì cuốn hút Mị bằng tiếng sáo, tiếng áo đối với Mị mỗi lúc một mãnh liệt. Từ đầu là những âm thanh xa xôi, sau đó tiếng sáo trở thành lời mời gọi giúp Mị lãng quên quá khứ, sống vui vẻ với tương lai. “tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, đám chơi”.

Quá trình hồi sinh của Mị đã không được miêu tả một cách dễ dãi, hời hợt, tâm trạng nhân vật được nhìn nhận từ cái nhìn lưỡng phân. Con người hiện tại dường như đã chết, con người quá khứ đang dần dần từng bước được hồi sinh. Mị như cây hoa ban, hoa Đào Tây bắc trước lúc vào xuân, nhìn bề ngoài thì có vẻ khẳng khiu, khô gầy, mỏng manh như đã chết nhưng bên trong sức sống vẫn âm ỉ, vẫn chờ thời để bừng sáng sắc xuân. Tết đến, Mị rất muốn đi chơi, nhưng A Sử không cho Mị đi, năm nào cũng vậy, A sử toàn đi một mình để Mị ở nhà như người xa lạ. Nhưng giai cấp phong kiến, gia đình nhà thống lí không thể cưỡng ép được Mị lâu, một con người sức sống đang còn cháy rực trong tâm hồn. Lúc này khi “tiếng sáo đang lửng lơ bay ngoài đường” gọi bạn đi chơi mà Mị đã phải ngồi cô độc trong xó cửa. Cô không thể dằn lòng được “Mị vùng dậy khêu đèn sáng, cuốn lại lóc, mặc váy hoa vắt ở vách” toan bước đi, tìm đến nơi đang lửng lơ bay tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha. Nhưng Mị vừa bước đi thì A sử lại kéo cô lại. A Sử không hề đánh đập, chửi rủa mà anh lầm lì như cái bóng từ từ trói cô vào cột nhà. Và bây giờ Mị mới bật khóc, khóc oan trái cho một kiếp người khao khát sống, muốn yêu mà đang ghì chặt vào một cuộc sống “không bằng con ngựa”. Nhưng từ đây sức sống của một cô gái yêu đời lại trỗi dậy. Trong bóng tối, cô đang mơ màng đi theo tiếng sáo, tiếng sáo ấy đã có lần đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. Nhưng rồi quá khứ chưa đi, hiện tại lại về. Giờ đây, Mị đang bị A Sử trói, dường như cô sống mà như đã chết. Đã chết phần hồn lẽ nào giờ đây cô lại để chết cả phần xác, Mị thấy xung quanh mình chỉ là bóng tối, không một tiếng động, cô “vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa”.

Thời gian lại trôi qua, cho đến cái đêm A Phủ bị trói đứng vào cây cọc: trong nhà thống lí vì để hổ bắt mất con bò… A Phủ vì đánh lại con quan nên làng phạt vạ, và trở thành người ở gạt nợ của gia đình thống lí còn Mị làm dâu gạt nợ. A Phủ – Mị có cùng một cảnh ngộ, cùng là người đi ở gạt nợ cho nhà thống lí. A Phủ bị trói mấy đêm rồi nhưng đêm nào cũng vậy. Mị dậy đốt lửa sưởi và thản nhiên như không có gì bên cạnh. Mỗi đêm, đêm  nào cũng vậy khi ngọn lửa bùng, Mị nhìn sang biết A Phủ còn sống nhưng Mị không hề nói năng gì. “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa”. Bởi vì tâm hồn Mị đã khép kín và câm lặng rồi. Mặc dù, với ngọn lửa to như thế, hồng như thế cô vẫn cảm thấy lành lạnh, cô đơn. Sự cô đơn ấy cô đã từng nếm thử nhưng bây giờ nó cay và đắng lạ. Khi chỉ biết ngồi một mình bên bếp lửa. Dường như sức sống trong tầm hồn cô đã cạn dần. Không, ngược lại, sức  sống trong cô lâu nay bị dồn nén quá sức bây giờ nó để vỡ tung ra khi “Ngọn lửa vừa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ. Dòng nước mắt ấy đã làm trỗi dậy trong Mị tinh thương những người cùng cảnh ngộ. Mị chợt nhớ lại cái đêm mình cũng bị trói đứng vào cột nhà như thế kia, cũng  “nước  mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không lau đi được”. Cũng như lần trước, một khi ý thức sống trỗi dậy, thì Mị lại nghĩ đến cái chết, nhưng lần này là một cái chết oan ức, vô lí của một người khác. Vì mê tín, vì đã là người của nhà thống lí, Mị cam chịu chết ở cái nhà này. Còn A Phủ việc gì phải chết, A Phủ phải được sống. Sau ý nghĩ ấy lòng thương người lớn hơn thương thân. Mị đã cam chịu chết thì cô sợ gì mà không cứu A Phủ. “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ cần biết đợi ngày mà rũ xuống ở đây thôi- Người kia việc gì phải chết”.

Rõ ràng, Mị đã suy nghĩ kỹ, đã lường trước những gì sẽ xảy ra. Cô sẵn s  àng chịu trói thay cho A Phủ. Nghĩ đến lúc rơi vào tình cảnh ấy Mị cũng không thấy sợ. Ngược lại lúc này cô bình tĩnh, can đảm hơn bao giờ hết. Đến giờ phút nà y thì việc rút dao cắt  dây trói cho A Phủ là một việc phải làm tất nhiên có thể xảy ra. Đó là hành động tự bản thân Mị chứ không phải là sự phát triển của tình huống truyện do tác giả sắp đặt. A Phủ đã được giải thoát, lòng thương của Mĩ đã chiến thắng còn Mị vẫn đứng trong bóng tối. vẫn biết rằng Mị không sợ hình phạt của thống lí, không sợ phải chết thay cho A Phủ vì chết đối với Mị là một giải thoát, Mị vốn nghĩ thế. Nhưng thấy A Phủ đã chạy đi rồi, chạy đi đến một cuộc sống tự do, thì Mị bừng tinh hẳn. Mị không muốn chết nữa mà Mị muốn sống, phải sống “Mị cũng vụt chạy ra” theo A Phủ. Giải thoát cho A Phủ, Mị cũng giải thoát luôn cho chính mình. Hành động cởi trói cho A Phủ bắt nguồn từ một sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Trong tính cách của Mị, không một uy vũ nào có thể dập tắt nổi. Hành động chạy theo A Phủ là một hành động thật bất ngờ nhưng rất hợp lí. Lần này, thì sức sống mãnh liệt của Mị đã chiến thắng. Mị đúng là con người hơn con người thật. Đêm cuối cùng ở nhà thống lí Pá Tra, đã thành thật xin A Phủ cho đi theo, lời xin ấy cũng chính là ngọn lửa lâu ngày âm ỉ đang được bùng cháy.

Nhân vật Mị đã thu hút được người đọc bằng chính cái sức sống tiềm ẩn ấy. Tô Hoài đã rất thành công khi tạo dựng nhân vật này. Một cô Mị xinh đẹp, tài hoa, yêu đời, ham sống và luôn luôn nghĩ đến cái chết vì không được sống cho ra sống. Một cô Mị câm lặng, khép kín và luôn luôn bùng nổ những hành động chống đối mãnh liệt. Mâu thuẫn đấy mà lại hết sức thống nhất, tự nhiên, hợp lí. Người đọc cảm giác ấy là nhờ cách kể  truyện rất sinh động, kết cấu hình tượng chặt chẽ và nhất là nhờ những chi tiết nghệ thuật có tính biểu cảm cao: một lỗ cửa sổ, “mờ mờ trăng trắng” soi rọi cuộc đời của cô con dâu gạt nợ nhà thống lí một tiếng sáo gọi bạn tình đêm xuân bồi hồi, tha thiết như giục giã, như gọi mời những hơi rượu say nồng đêm xuân; những giọt nước mắt trong đêm cuối cùng ở nhà thống lí… ở Mị có sự dửng dưng vô cảm, bén cạnh lòng thương xót xâu xa; có lúc lãng quên tất cả và cũng có lúc trào dâng nỗi nhớ thiết tha bồi hồi. Từ chỗ không thấy sợ Mị bỗng trở thành người hoảng hốt. Tất cả trạng thái đối nghịch ấy của tâm hồn Mị đều được Tô Hoài dẫn dắt, phân tích một cách hợp lí tưởng như không có thể nào khác được.

Đọc Vợ chồng A Phủ ta thấy Mị là bức chân dung tĩnh lặng. Hầu như trong thời gian nhà thống lí Mị chỉ nói có vài ba câu. Nhưng ẩn chứa trong tâm hồn câm lặng ấy là một sức sống mãnh liệt, một khát vọng lớn lao như mạch suối ngầm trong mắt. Tiếp xúc với Vợ chồng A Phủ ta nhớ, ta yêu một cô Mị ở Hồng Ngài càng bị đoạ đầy, đau khổ càng khao khát muốn vươn lên một cuộc sống tốt lành. Một cô Mị tiềm tàng sức sống mãnh liệt để có thể hiểu hơn một cô Mị du kích Phiềng Sa sau này.

Trong thiên truyện Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài đã rất thành công ở việc miêu tả tâm lí nhân vật. Sự dụng công ấy đã được kết đọng ở quá trình bộc lộ sức sống tiềm tàng của Mị, một thiếu nữ mà vẻ đẹp, tình yêu, niềm khát khao hạnh phúc đều đã bị chế độ phong kiến miền núi vùi dập. Song con người ham sống và sức sống tiềm tàng trong Mị vẫn không chết. Có dịp, con người ấy sẽ thức dậy như một sự tất yếu, thức dậy để giải phóng thân phận mình. Tô Hoài đã miêu tả chân thực và tinh tế diễn biến tâm lí phức tạp đó của Mị từ khi bị bắt làm con dâu gạt nợ nhà thống lí đến lúc cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài. Qua đó, giá trị nhân đạo lớn lao của tác phẩm được khẳng định.

Mở đầu tác phẩm, Mị đã được tác giả giới thiệu như hiện thân của một số kiếp nghiệt ngã, một tâm hồn đau khổ câm lặng: “ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Mị như một cái bóng, một mảng tối im lìm trong cảnh giàu sang nhà Thống lí Pá Tra. Càng ngày Mị càng không nói, chỉ “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Người đàn bà ấy bị cầm tù trong ngục thất tinh thần, nơi lui vào lui ra chỉ là “một căn buồng kín mít chỉ có một chiếc cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay” Đã bao năm rồi, người đàn bà ấy chẳng biết đến mùa xuân, chẳng đi chơi Tết…

Nhà văn có tả hình dáng nhưng không nhằm khắc họa chân dung ngoại hình mà chủ yếu làm nổi bật con người số phận, một số phận nghiệt ngã, cay đắng, tủi cực. Điều đó có sức ám ảnh đối với độc giả, gieo vào lòng người những xót thương. Ách áp chế nặng nề của bọn chúa đất phong kiến miền núi, cả cường quyền và thần quyền đã đè nén một tâm hồn yêu đời, khát sống trở thành một người hoàn toàn tê liệt về ý thức: “sống lâu trong cái khổ Mị cũng đã quen rồi”, “Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”, Mị chỉ “cúi mặt, không nghĩ ngợi”, chỉ “nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau”. Mị không còn ý thức được về thời gian, tuổi tác và cuộc sống. Mị sống như một cỗ máy, một thói quen vô thức. Mị vô cảm, không tình yêu, không khát vọng, thậm chí không còn biết đến khổ đau.

Nhưng đâu đó trong cõi sâu tâm hồn người đàn bà câm lặng vì cơ cực, khổ đau ấy vẫn tiềm ẩn một cô Mị ngày xưa, một cô Mị trẻ đẹp như đóa hoa rừng đầy sức sống, một người con gái trẻ trung hiếu thảo. Ngày ấy, tâm hồn yêu đời của Mị gửi vào tiếng sáo “Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Ở Mị, khát vọng tình yêu tự do luôn luôn mãnh liệt. Nếu không bị bắt làm con dâu gạt nợ, khát vọng của Mị sẽ thành hiện thực bởi “trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”. Mị đã từng hồi hộp khi nghe tiếng gõ cửa của người yêu. Mị đã bước theo khát vọng của tình yêu nhưng không ngờ sớm rơi vào cạm bẫy.

Tất cả những phẩm chất trên đây sẽ là tiền đề, là cơ sở cho sự trỗi dậy của Mị sau này. Nhà văn miêu tả những tố chất này ở Mị khiến cho câu chuyện phát triển theo một lô-gic tự nhiên, hợp lí. Chế độ phong kiến nghiệt ngã cùng với tư tưởng thần quyền có thể giết chết mọi ước mơ, khát vọng, làm tê liệt cả ý thức lẫn cảm xúc con người nhưng từ trong sâu thẳm, cái bản chất người vẫn luôn tiềm ẩn và chắc chắn nếu có cơ hội sẽ thức dậy, bùng lên.

Xem thêm:  Phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông? [Hoàng Phủ Ngọc Tường] – Văn mẫu lớp 12

Bị bắt về nhà thống lí làm con dâu gạt nợ, Mị định tự tử. Mị tìm đến cái chết chính là cách phản kháng duy nhất của một con người có sức sống tiềm tàng mà không thể làm khác trong hoàn cảnh ấy. “Mấy tháng ròng đêm nào Mị cũng khóc”, Mị trốn về nhà cầm theo một nắm lá ngón. Chính khát vọng được sống một cuộc sống đúng nghĩa đã khiến Mị không muốn chấp nhận cuộc sống bị chà đạp, cuộc sống lầm than, tủi cực, bị đối xử bất công như một con vật. Mị tìm đến cái chết như một hành động tự giải thoát.

Đêm tình mùa xuân là cái đêm đáng ghi nhớ nhất trong cuộc đời Mị. Mị thốt nhiên lại muốn đi chơi và đã sửa soạn để đi chơi. Với một người như Mị, muốn đi chơi có nghĩa là muốn nổi loạn, muốn phá phách, không cam chịu sống “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” nữa.

Tô Hoài đã bộc lộ tài năng nghệ thuật già dặn của mình trong việc lí giải sự chuyển biến tâm lí của Mị vừa như một sự bột phát đột phá vừa như là hệ quả tất yếu của một sức sống tiềm tàng, tiềm ẩn được khơi dậy, bùng lên để quên đi thực tại, sống đúng với bản chất của mình.

Sự thức tỉnh ý thức của Mị trước hết là nhờ ở sự tác động của hoàn cảnh: “những chiếc váy hoa đã đem phơi trên mỏm đá, xòe như con bướm sặc sỡ, hoa thuốc phiện vừa nở trắng lại đổi ra màu đỏ au, đỏ thẫm rồi sang màu tím man mác”. Cảnh vật cùng với những âm thanh rộn rã báo hiệu mùa xuân: “đám trẻ đợi tết chơi quay cười ầm trên sân chơi trước nhà” cũng có những tác động nhất định đến tâm lí của Mị. Nếu ngoại cảnh là những chất xúc tác gián tiếp thì rượu là chất xúc tác trực tiếp để tâm hồn yêu đời, khát sống của Mị trỗi dậy. “Mị đã lấy hũ rượu uống ừng ực từng bát một”. Mị vừa như uống cho hả giận vừa như uống hận, nuốt hận. Hơi men đã dìu tâm hồn Mị theo tiếng sáo.

Trong đoạn diễn tả tâm trạng hồi sinh của Mị, tiếng sáo có một vai trò đặc biệt quan trọng. “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha, bồi hồi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”. “Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi…

Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác”. Với Mị, tiếng sáo là biểu tượng lôi cuốn nhất của mùa xuân, của khát vọng tình yêu, hạnh phúc. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả lại dụng công miêu tả tiếng sáo nhiều lần đến thế: “Tiếng sáo gọi bạn cứ thiết tha, bồi hồi”, “ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo”, “tai Mị vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”, “mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường”, “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”, “trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo”… Tô Hoài đã miêu tả tiếng sáo như một dụng ý nghệ thuật để lay tỉnh tâm hồn Mị. Tiếng sáo là biểu tượng của khát vọng tình yêu tự do, đã theo sát diễn biến tâm trạng Mị, là ngọn gió thổi bùng lên đốm lửa tưởng đã nguội tắt. Thoạt tiên, tiếng sáo còn “lấp ló”, “lửng lơ” đầu núi, ngoài đường. Sau đó, tiếng sáo đã thâm nhập vào thế giới nội tâm của Mị và cuối cùng tiếng sáo trở thành lời mời gọi tha thiết để rồi tâm hồn Mị bay theo tiếng sáo. Mị đã vượt khỏi tâm trạng thờ ơ, nguội lạnh lâu nay của mình. Dấu hiệu đầu tiên của việc sống lại đó là Mị nhớ lại quá khứ, nhớ về hạnh phúc ngắn ngủi trong cuộc đời tuổi trẻ của mình và niềm ham sống trở lại “Mị thấy phơi phới trở lại, lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. “Mị còn trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ lắm. Mị muốn đi chơi”. Phản ứng đầu tiên của Mị là: “nếu có nắm lá ngón trong tay Mị sẽ ăn cho chết”. Mị đã ý thức được tình cảm đau xót của mình. Mị muốn chết chứ “không buồn nhớ lại nữa” cái ngày xưa đẹp đẽ ấy bởi nhớ lại chỉ thêm đau, “chỉ thấy nước mắt ứa ra”. Những giọt nước mắt tưởng đã cạn kiệt vì đau khổ đã lại có thể lăn dài. Đau khổ tưởng đã làm Mị tê liệt cả lí trí lẫn tình cảm nhưng từ trong sâu thẳm, tâm hồn Mị không chết, Mị vẫn còn khóc được cho hoài niệm của mình, khóc cho vết thương tưởng đã mãi mãi thành sẹo, thành chai. Từ những sôi sục trong tâm tư đã dẫn Mị tới hành động “lấy ống mỡ xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa dầu”. Đây là hành động của sự thức tỉnh. Mị muốn thắp lên ánh sáng cho căn phòng bấy lâu chỉ là bóng tối. Mị muốn thắp sáng cho cuộc đời tăm tối của mình. Chí ít, thứ ánh sáng thực này cũng khiến Mị cảm thấy mình không phải là một thứ đồ vật bị bỏ quên, không phải là một con rùa trong xó tối. Hành động này đẩy tới hành động tiếp: Mị “quấn tóc lại, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”, chiếc váy hoa mà có lẽ đã bao nhiêu mùa xuân rồi Mị không biết đến sự tồn tại của nó. Và cứ như một người đàn bà mộng du, Mị quên hẳn sự có mặt của A Sử, quên hẳn mình đang bị trói mà tiếng sáo vẫn dìu tâm hồn Mị “đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào”. Tâm hồn Mị đã thuộc về một thế giới khác, một thế giới lung linh như ngọc bích, lóng lánh như pha lên, một thế giới mà ở đó Mị thổi sáo, Mị hát, Mị yêu và được yêu. Đó là một sức sống tiềm tàng, dữ dội và mãnh liệt.

Sức sống tiềm tàng, mãnh liệt ở Mị được bộc lộ rõ ở hành động “vùng bước đi” giữa lúc cả người bị trói đứng vào cột. Chỉ khi “tay chân đau không cựa được” Mị mới sức tỉnh trở về hiện tại. Tiếng sáo im bặt, thay vào đó là “tiếng chân ngựa đạp vào vách” khiến Mị cay đắng nghĩ “mình không bằng con ngựa”. Trong tác phẩm, rất nhiều lần tác giả nhắc đến cuộn dây trói [trói Mị, trói A Phủ]. Đó như là một biểu tượng cho chế độ cường quyền và thần quyền khắc nghiệt. Nhưng ngay cả khi cuộn dây trói thít chặt nhất cũng không thể ngăn con người nghĩ đến cuộc sống, sống với thế giới của tình yêu và khát vọng.

Tô Hoài đã đặt sự hồi sinh của Mị vào tình huống bi kịch: khát vọng mãnh liệt – hiện thực phũ phàng khiến cho sức sống ở Mị càng thêm phần dữ dội. Quá trình hồi sinh của một sức sống tiềm ẩn được nhà văn miêu tả không hề hời hợt, dễ dãi. Nhân vật vượt khỏi sự thờ ơ, nguội lạnh không hề đơn điệu, dễ dàng. Mị sống quá lâu trong cái khổ vì thế sự hồi sinh đến nhanh rất dễ gây cảm giác giả tạo. Đó phải là một quá trình chuyển biến lớn dần và phải có một sự tác động đặc biệt. Sự tác động đó không gì thay được tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân. Một làn sóng cảm xúc đi qua, dù mãnh liệt cũng không thể làm thay đổi cuộc đời Mị. Nhưng những gì mà Tô Hoài viết về cái đêm tình mùa xuân ấy thật vô cùng ý nghĩa. Qua đây, nhà văn muốn phát biểu một tư tưởng: sức sống của con người cho dù bị giẫm đạp, bị trói chặt vẫn không thể chết mà luôn luôn âm ỉ, chỉ cần gặp dịp là bùng lên.

Khi tiếng sáo im bặt, chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách cũng là lúc mọi kí ức tan biến, cuộc đời Mị lại như những đêm đông trên miền núi cao, vừa dài vừa buồn. Trước cảnh A Phủ bị trói, Mị hoàn toàn vô cảm. “Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay”. Có đêm, bị A Sử đánh gục ngay cửa bếp vậy mà đêm sau Mị vẫn trở dậy thổi lửa, hơ tay như thế. Ta cứ tưởng sức sống trong Mị giống như ngọn đèn cạn dầu, chỉ bùng lên để rồi tắt ngấm. Nhưng không, phần trên mới chỉ là phần chuẩn bị cho một bước đột phá. Tâm hồn tê dại của người đàn bà ấy đột ngột bùng lên thật mãnh liệt: cắt dây trói cứu A Phủ và tự giải thoát chính mình. Đây là một hành động táo bạo có ý nghĩa quyết định đối với cuộc đời Mị. Sau hành động này, Mị đã tìm thấy hạnh phúc và sống một cuộc đời đáng sống – trở thành vợ A Phủ và thành viên đội du kích Phiềng Sa.

Hành động của Mị vừa mang tính tự phát vừa có ý thức tự giác. Tự phát bởi sự việc đến nhanh, đột ngột và Mị không kịp tính trước rồi sẽ đi đâu, làm gì, ngay cả việc có chạy theo A Phủ hay không cũng chỉ được Mị quyết định sau khi cắt dây trói, đứng lặng một phút trong bóng tối. Tô Hoài thật tinh tế và bản lĩnh khi sắp xếp chi tiết này bởi nếu không khéo rất có thể có hai khả năng xảy ra: một là Mị trốn chồng vì khổ quá, hai là Mị bỏ chồng theo A Phủ vì A Phủ vốn là người mà bao nhiêu cô gái mơ ước có được. Cả hai khả năng này đều hạ thấp giá trị nhân vật, Mị cắt dây trói cho A Phủ nhưng không hề chạy theo. Chỉ sau một phút định thần, nỗi hoảng sợ đã đẩy bàn chân Mị vùng chạy theo một cách tự nhiên.

Tuy vậy, hành động của Mị chính là kết quả tất yếu của một con người có sức sống tiềm tàng. Hành động này có nguồn gốc từ bản chất một người con gái hiếu thảo, yêu đời, ham sống trong quá khứ, từ cái “buồn rười rượi”, từ cách uống rượu “ừng ực từng bát một” và ngay cả từ ý định tự sát của Mị nữa. trực tiếp hơn cả là những giây phút Mị rạo rực nghe tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân. Sâu xa hơn nữa là vì Mị cảm thấy đau đớn giống như những lần chính Mị bị trói. Mị không nỡ để một con người vô tội phải chết dần trong đau đớn.

Tất cả được khơi dậy đúng lúc: “Mị hé mắt trông sang thấy một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xạm đen lại của A Phủ”. Giọt nước mắt tuyệt vọng của A Phủ đã giúp Mị nhớ lại mình, nhận ra mình, xót xa cho mình. Thương người và thương mình đồng thời nhận ra tất cả sự tàn ác của nhà thống lí, tất cả đã khiến cho hành động của Mị mang tính tất yếu.

Tất nhiên, Mị cũng rất lo lắng, hoảng sợ. Mị sợ mình bị trói thay vào cái cọc ấy, “phải chết trên cái cọc ấy”. Khi đã chạy theo A Phủ, cái ý nghĩ ấy vẫn còn đuổi theo Mị: “ở đây thì chết mất”. Nỗi lo lắng của Mị cũng là một khía cạnh của lòng ham sống, nó đã tiếp thêm cho Mị sức mạnh vùng thoát khỏi số phận mình.

Nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài để lại dấu ấn khó phai mờ trong tâm trí độc giả. Mị là nạn nhân của ách áp chế nặng nề kiểu trung cổ. Nhưng trong Mị luôn tồn tại những mâu thuẫn gay gắt: bên trong người đàn bà cam chịu là một sức sống tiềm ẩn, bên cạnh sự dửng dưng vô cảm có lúc lại thiết tha, bồi hồi, mãnh liệt.

So với chị Dậu [Tắt đèn – Ngô Tất Tố], sức sống của Mị có thể không tiềm tàng, quyết liệt bằng nhưng ở Mị, sức sống ấy một khi trỗi dậy thì có hướng đi rõ rệt. Chị Dậu vùng lên mãnh liệt để rồi đứng bơ vơ trong đêm tối đen như mực, tối như cái tiền đồ của chị. Hành động rút dao của Mị cũng không phải là hành động tự giải thoát bi kịch bằng một bi kịch kiểu Chí Phèo [Chí Phèo – Nam Cao] mà là hành động cắt đứt sợi dây mê tín thần quyền và sức mạnh man rợ cường quyền. Hành động của Mị tượng trưng cho sự chiến thắng của tinh thần phản kháng và con đường của Mị cũng như của bao người nghèo khổ đến với cách mạng là con đường tất yếu.

Cả quãng đường dài dằng dặc của Mị ở nhà thống lí Pá Tra có hai đêm đáng nhớ nhất. Đó là “đêm tình mùa xuân” và đêm cắt dây trói cho A Phủ. Hai biến cố đó đã chứng minh được sức sống tiềm tàng trong con người Mị mà không thế lực nào giết chết được. Đó cũng là tình cảm nhân đạo lớn lao của ngòi bút Tô Hoài. Nhà văn đã miêu tả quá trình diễn biến tâm lí và hành động của Mị rất tự nhiên, sinh động, vừa bất ngờ, vừa tất yếu hợp qui luật. “Mị là nhân vật thành công bậc nhất trong văn xuôi cách mạng đương đại Việt Nam” [Trần Đình Sử].

Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Bài số 3

Trên cánh đồng văn chương Việt Nam, có nhà văn độc canh bằng một loại thể. Tiêu biểu cho khuynh hướng này phải kể đến nhà văn Kim Lân – nhà văn cả đời đi về với đất, với người, với cuộc sống nông thôn thuần hậu [nói như Nguyên Hồng]; lại có nhà văn thâm canh tăng vụ bằng nhiều loại thể. Tiêu biểu ta phải kể đến nhà văn Tô Hoài. Tính đến nay sự nghiệp của Tô Hoài đã già nửa thế kỉ. Ông là tác giả của khoảng trăm đầu sách, hàng nghìn bài báo với nhiều thể loại phong phú và đa dạng. Nhưng nhắc đến Tô Hoài trước Cách mạng tháng Tám, người yêu văn không thể không nhắc tới “Dế mèn phiêu lưu kí”; sau Cách mạng tháng Tám với tập “Truyện Tây Bắc” gồm ba truyện ngắn: “Cứu đất cứu Mường”, “Mường Giơn giải phóng” và “Vợ chồng A Phủ”. Những năm gần đây người ta lại xôn xao nhắc đến ông với “Cát bụi chân ai” và tiểu thuyết “Ba người khác”. Đến nay “Vợ chồng A Phủ” vẫn là cái mốc thách thức của nhà văn Tô Hoài. Truyện được giải thưởng văn nghệ 1954 – 1955; là một truyện ngắn xuất sắc viết về đề tài miền núi Tây Bắc. Tác phẩm được đưa vào trong chương trình giảng dạy như một kiệt tác của Tô Hoài. Truyện xoay quanh cuộc đời của người con gái Mèo nghèo khổ, xinh đẹp nết na; được Tô Hoài phát hiện và thể hiện với sức sống tiềm tàng bất diệt. Đó là Mị – nhân vật chính trong tác phẩm này. Thông qua sức sống tiềm tàng của Mị, Tô Hoài bộc lộ là một nhà văn nhân đạo, nhân văn, sâu sắc và cao cả. Văn hào Nga Shê-khốp đã từng nói: “Một người nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy”. Tô Hoài là một nhà văn như thế.

   Cuộc đời con người là một chuỗi vận động liên hoàn mà chúng ta không thể chia cắt hoặc phân tách. Tuy nhiên cuộc đời ấy lại được hình thành bằng một chuỗi sự kiện và hoàn cảnh. Ở những hoàn cảnh lớn, sự kiện lớn; bản chất của con người được bộc lộ. Ban – dắc đã từng nói “Bản chất của con người thường bị bánh xe của số phận che đậy, còn một khi lao vào bão tố thì bản chất ấy dù tốt hay xấu tự nó bộc lộ”. Khẳng định như vậy bởi lẽ sức sống tiềm tàng là sức sống tiềm ẩn dưới đáy sâu tâm hồn con người. Nó là toàn bộ sức mạnh về thể chất và tinh thần của con người. Ở Mị, nó biểu hiện ra là niềm khao khát, muốn sống cuộc đời hạnh phúc trong tự do. Niềm khao khát ấy cứ âm ỉ cháy dưới đáy sâu tâm hồn Mị như một ngọn lửa chưa bao giờ tắt, như một chồi cây đâm sâu trong lòng đất chờ cơ hội để phát triển. Trong cuộc sống thường nhật, sức sống tiềm tàng còn được thể hiện ở thái độ phản kháng, sự chống lại và luôn vươn lên mọi thế lực bạo tàn; lúc nào cũng muốn lăm le hòng tiêu diệt lại nó.

Câu nói bình thường, nhưng đã làm toát lên bản chất của một con người. Đó là con người có sức sống tiềm tàng bất diệt. Câu nói của Mị hàm chứa sự đánh đổi, đánh tráo: Mị thà ở nhà lao động cực nhọc trên nương rẫy, nhưng được sống một cuộc đời hạnh phúc tự do với ước mơ của một thời con gái còn hơn phải làm con dâu nhà giàu; sống kiếp trâu ngựa nô lệ mất cả quyền làm người. Sự tráo đổi này chỉ có thể có ở những con người mạnh mẽ, tự tin, biết quý trọng danh dự và nhân phẩn của bản thân. Có câu “thân gái như hạt mưa sa”. Làm dâu của nhà giàu là ước mơ của nhiều người phụ nữ. Nhưng với Mị, người con gái giàu lòng tự trọng và có sức sống tiềm tàng, Mị không bao giờ chấp nhận cuộc hôn nhân gả bán này. Điều đó thể hiện rõ ở lời quả quyết của Mị với cha: “Bố đừng bán con cho nhà giàu”.

Xem thêm:  Phân tích tác phẩm Thuốc của Lỗ Tấn và nói lên suy nghĩ của bạn

Mặc dù Mị không chấp nhận làm dâu nhà thống lí, nhưng cuộc đời Mị không được yên thân. Bởi Mị đang sống trong xã hội tiền quyền và thần quyền. Đây là xã hội thổ ty, lang đạo ở miền núi, tương ứng với xã hội phong kiến ở miền xuôi. Trong xã hội ấy, cạm bẫy người giăng giăng như mắc cửi, thì những người nết na như Mị không thoát được. Mị bị bắt cóc, lừa gạt, về cúng trình ma nhà thống lí Pá Tra, đợi ngày chết rũ xương ở đây. Biết được điều này, Mị đã khóc ròng rã hàng tháng trời. Sống ở nơi đây cũng đồng nghĩa với cái chết, và Mị đã nghĩ đến cái chết. Là một cô gái nết na, hiếu thảo, Mị không thể nào chết ở nhà thống lí mà không về chào cha lần cuối. Nhưng khi về đến gia đình, Mị mới thấy rõ bi kịch của gia đình mình. Bố Mị nói như van xin: “Mày về lạy chào tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày chết rồi thì không lấy ai làm nương ngô giả được nợ người ta, tao thì ốm yếu quá rồi. Không được, con ơi!”. Sau khi nghe người cha nói ra những lời đầy nước mắt, Mị đứng trước hoàn cảnh oái oăm, éo le và cay cực: Mị sống thì không muốn, giờ đây Mị chết lại không xong. Mặc dù vậy, ý định tự tử của Mị lại là biểu hiện của sức sống tiềm tàng, biểu hiện của một lòng ham sống. Điều này có gì là nghịch lí hay không? Mới nghe qua tưởng đó là một nghịch lí, nhưng đặt trong hoàn cảnh của Mị, đó lại là sự hợp lí sâu sắc. Bởi lẽ Mị muốn chết như một con người, còn hơn phải sống như một con vật; Mị muốn chết ngay một lần để được làm người còn hơn chết dần, chết mòn, chết khô, chết héo, chết cả về thể xác và tâm hồn. Nếu Mị chết, nghĩa là Mị đã làm theo tiếng gọi của sức sống tiềm tàng, làm theo tiếng gọi của khao khát cá nhân mình; Mị buộc phải chà đạp lên chữ hiếu, phải dày xéo lên tình phụ tử. Là một cô gái nết na, hiếu thảo, Mị không thể ngoảnh mặt làm ngơ trước nỗi đau của cha mình và bi kịch của gia đình. Nghĩa là Mị không bước qua được chữ “hiếu”. Chỉ vì chữ “hiếu”. Mị đành gạt nước mắt, quăng nắm lá ngón, quay trở về nhà thống lí Pá Tra ở Hồng Ngài. Cái nhà thống lí ở Hồng Ngài không khác gì hang hùm nọc rắn. Dấn thân vào nhà thống lí Pá Tra là dấn thân vào địa ngục trần gian, vào nơi thiên la địa võng. Ở đó cái ác hiện lên từng ngày, từng giờ và phát triển lên cùng cực. Cái ác lúc nào cũng muốn lăm le hòng tiêu diệt bản tính tốt đẹp của con người. Nhưng không phải vì thế mà người dân vùng cao bị xói mòn tình người, bị cằn cỗi tâm hồn. Ngược lại, trong lòng của cái ác, bản tính tốt đẹp của con người vẫn thăng hoa, nổi loạn. Chữ “hiếu” vẫn ngời sáng. Điều ấy cho thấy: tất của những gì tốt đẹp nhất của cuộc đời này không hề bị tiêu diệt. Cái thiện luôn chiến thắng cái ác!

Vì tình thương cha, Mị vẫn đành chấp nhận vào nhà thống lí. Đọc đến đây, người yêu văn nhớ đến bi kịch mà hơn 200 năm về trước, Thúy Kiều từng phải gánh chịu: bán mình chuộc cha. Điều đáng nói ở đây là sự việc hãi hùng này đến với Mị khi miền Bắc nước ta tiến lên Chủ nghĩa xã hội. Nhưng có lẽ ánh sáng của cách mạng chưa rọi chiếu đến cuộc sống của những người dân rẻo cao Tây Bắc. Tô Hoài – với tư cách của một anh tuyên truyền viên, thông qua tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” cũng như sức sống tiềm tàng của Mị, nhà văn đã mang ánh sáng của Đảng đến với cuộc sống của những người dân Tây Bắc để cứu đất, cứu Mường, để Mường Giơn được giải phóng. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thư gửi họa sĩ nhân triển lãnh tranh toàn quốc ở miền Bắc lần thứ nhất năm 1951, có viết: “Văn học nghệ thuật là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Nếu đứng từ góc độ này để cảm nhận thì Tô Hoài thực sự là người chiến sĩ đi đầu trên mặt trận văn chương.

Chấp nhận vào nhà thống lí Pá Tra, nên từ đây Mị đã không khóc nữa, Mị hoàn toàn thay đổi. Mị đành đào sâu chôn chặt mọi ước mơ của một thời con gái với quãng đời thiếu nữ tự do, với hạnh phúc trong mối tình đầu. Cô Mị tự trọng xinh đẹp là thế. Mị sống lầm lũi như con rùa ở trong xó cửa, xó bếp. Mị sống như một cái bóng, cái xác vô hồn giữa địa ngục trần gian. Mị sống chẳng qua chỉ là kéo dài những ngày chưa chết được mà thôi. Những câu văn đầy tính tạo hình, Tô Hoài đã dựng lên những chân dung của Mị với sức sống tàn phai mai một ngay ở những dòng đầu tác phẩm: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước của, cạnh tàu ngực. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.

Tất cả những gì tưởng như đã chết rồi trong lòng Mị thì giờ đây lại hồi sinh – hồi sinh một cách chóng vánh khi mùa xuân đến. Có thể nói những trang văn viết về mùa xuân của Tô Hoài là những trang văn tuyệt bút. Ta bắt gặp một cây bút vốn viết văn hiện thực, giờ đây lại có những trang văn vô cùng lãng mạn. Có thể không quá lời khi khẳng định, những trang văn viết về mùa xuân của Tô Hoài là những bài thơ trữ tình viết bằng văn xuôi. “Vợ chồng A Phủ” là minh chứng cho lời nhận định của một nhà phê bình văn học: “Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 có sự kết hợp hài hoà giữa hai nhân tố hiện thực và lãng mạn”. Nhưng điều chúng ta quan tâm là ngòi bút tâm lí của nhà văn Tô Hoài khi lách sâu vào tâm hồn Mị để phát hiện ở Mị có sức sống tiềm tàng bất diệt. Nhà văn tập trung vào những ngõ ngách động cơ, những tâm lí phức tập âm thầm bên trong tâm hồn Mị. Cùng với Nam Cao, Tô Hoài thực sự là một nhà văn hiện thức tâm lí.

Để sức sống của Mị trỗi dậy trong những ngày mùa xuân, đầu tiên nhà văn tập trung miêu tả những đổi thay bên ngoài. Năm ấy mùa xuân đến sớm. Tô Hoài miêu tả những làn gió đem mùa xuân vê trên khắp các bản làng. Tất cả không khí nơi đây đều cuốn vào không khí của ngày hội. Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi và cỏ gianh vàng ủng. Trên những bản của người Mèo Đỏ, những nương thuốc phiện đã nở hoa sặc sỡ, rồi những chiếc váy hoa xòe ra trông như những cánh bướm khổng lồ. Mùa xuân – nơi hội tụ sức sống của các bản làng, chất thơ của xứ sở được tập trung vào mỗi đám hội. Ban ngày từng đám thanh niên đến đánh quay, ném pao, tung còn… Tất cả không khí này âm thầm dội vào tâm hồn Mị – một tâm hồn vốn khô cằn; và nó làm cho sức sống của Mị bắt đầu có sự vận động trở lại. Nó chẳng khác nào như những nốt nhạc đầu tiên của bản tình ca thay đổi lớn sắp diễn ra trong lòng người đàn bà đã và đang phải chịu quá nhiều đau khổ.

Kế đó nhà văn tập trung vào để miêu tả tiếng sáo đêm tình của mùa xuân. Nếu ban ngày từng đám thanh niên nô nức đến với đám hội thì cứ tối đến, trong không gian kia là tiếng sáo, tiếng hát; tiếng khèn lá, khèn môi của trai gái gọi bạn tình; réo rắt đi hết quả đồi này sang quả đồi khác. Những tiếng sáo, tiếng hát ấy đánh thức dậy trong lòng Mị những bài hát từ ngày xưa mà kể từ ngày bước chân vào nhà thống lí Pá Tra, Mị đành đào sâu chôn chặt. Mị bổi hổi bồi hồi nhẩm lại bài hát từ ngày xưa. Ngày xưa Mị thổi sáo thật tài, chỉ cần uốn chiếc lá trên môi, cô thổi hay như thổi sáo:

“Anh ném pao, em không bắt

Em không yêu, quả pao rơi rồi

Em yêu người nào, em bắt pao nào.”

Hoặc:

“Mày có con trai con gái rồi

Mày đi làm nương

Ta không có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu.”

Điều đáng nói là tiếng sáo, tiếng hát ấy đã mang lại hai tiếng “ngày xưa” trở về với Mị. Nói cách khác, nhờ có tiếng sáo mà thời gian trở về với Mị. Từ ngày bước chân vào nhà thống lí Pá Tra, Mị sống một cuộc sống phi không gian, phi thời gian. Thế giới của Mị là một căn buồng tăm tối, nhìn ra bên ngoài qua ô cửa mờ mờ trăng trắng, không biết ngày hay đêm, sương hay nắng. Khi một người không nhận thức được ngày – đêm, sương – nắng nghĩa là họ không nhận thức được không gian – thời gian. Đó là phương thức tồn tại của một sự sống. Nói cách khác, sức sống của Mị đang tàn phai mai một. Hôm nay nhờ có tiếng sáo mà thời gian đã trở về. Thời gian ấy cho Mị thấy hiện tại là đau khổ, quá khứ ngày xưa mới là hạnh phúc. Thế là lòng Mị chỉ hướng về ngày trước, với những quãng đời thiếu nữ tự do, hạnh phúc trong mối tình đầu. Mị muốn quay trở về với quá khứ, muốn vớt vát quá khứ, muốn kéo dài quá khứ để bù đắp lại những cay đắng trong hiện tại.

Khi Mị đang đứng trước đôi bờ thời gian thì sức sống của Mị lại được tiếp thêm bằng bữa cơm tất niên nhà thống lí Pá Tra. Hình ảnh những người ốp đồng, nhảy múa vui vẻ trong tiếng nhạc sênh tiền càng làm cho lòng Mị trở nên rộn ràng náo nức. Niềm rộn ràng náo nức ấy biến thành một nỗi thúc bách khi những người trong nhà thống lí mặc váy áo mới đi chơi. Niềm rộn ràng náo nức này cũng như nỗi thúc bách kia là gì nếu không phải đó là biểu hiện của sức sống tiềm tàng đang trỗi dậy trong lòng Mị. Nó trở thành nhiều đòi hỏi bên trong lòng Mị, nó muốn bật ra thành hành động cụ thể bên ngoài.

Hành động đầu tiên là Mị lén lấy hũ rượu rồi uống ực từng bát. Nếu ai đọc “Đồng bạc hoa xòe” của Ma Văn Kháng thì không xa lạ khi gặp hình ảnh người phụ nữ uống rượu. Ở đây, ta quan tâm đến cách thức uống rượu của Mị. Mị uống ực từng bát. Mị uống như để nuốt những tủi hờn cay đắng, quên đi hiện tại khổ đau. Rồi say, Mị “lịm mặt” ngồi đấy, nhìn mọi người nhảy đồng và múa hát. Nhưng lòng Mị không ở thực tại, Mị đang sống về ngày trước. Mị thấy văng vẳng bên tai mình tiếng sáo gọi bạn ở đầu làng. Mị thấy mình còn trẻ đẹp, có nhu cầu đi chơi hội. Mị nghĩ: “Biết bao nhiêu người đàn bà có chồng, họ cũng đi chơi hội; huống hồ Mị với A Sử chẳng có lòng với nhau.” Thế là Mị cũng sửa soạn đi hội. Bước vào căn buồng tăm tối, việc đầu tiên Mị làm là xắn miếng mỡ để vào đĩa đèn, cho đèn sáng hơn. Đây là chi tiết có chiều sâu về nghệ thuật. Bởi trước đây không thiết sống, nên căn buồng của Mị tăm tối, hôi hám, luộm thuộm, ẩm thấp; Mị cũng chẳng bận lòng. Hôm nay thì khác, sức sống tiềm tàng trỗi dậy rất mạnh trong lòng Mị, Mị muốn cuộc đời mình phải sáng sủa hơn; có lẽ đây là bước ngoặt với những đổi thay của Mị.

Viết về khát vọng sống của những người nông dân, các bậc tao nhân thường mượn hình ảnh ngọn đèn. Cuộc đời của người nông dân tăm tối hiện lên trên cánh đồng lúa của ngày xưa. Đó là những bức chân dung thiếu ánh sáng của Đảng chiếu vào, được Ngô Tất Tố viết trong “Tắt đèn”; là ngọn đèn dầu của mẹ con chị Tí cũng bị phân chia thành hai vùng sáng tối trong “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam; là ngọn đèn dầu thắp sáng lên trong túp lều của bà cụ Tứ ngày Tràng nhặt được vợ và đưa vợ về xóm ngụ cư. Còn ở đây là ngọn đèn trong căn buồng của Mị. Mỗi gia đình là một tế bào của xã hội. Trong từng tế bào ấy, có những thành viên biết thắp lên ngọn lửa sống, như Mị trong “Vợ chồng A Phủ”, như Tràng trong “Vợ nhặt”… Đồng nghĩa cả một dân tộc lầm than đang:

“Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”

[“Đất nước” – Nguyễn Đình Thi]

Rồi Mị đi tìm một chiếc váy hoa vắt tít ở phía trong vách. Bởi Mị thấy mình con trẻ, đẹp, Mị cũng sắp đi chơi hội. Mị quấn lại tóc. Khi một người đàn bà cuộc đời sống đồng lõa trong bóng tối, sống lầm lũi như con rùa ở xó cửa, xó bếp; bỗng một hôm thấy mình trẻ ra, đẹp hơn, có nhu cầu ăn mặc đẹp; đó là “dấu hiệu của sự tái xuân” [nói như Chu Văn Sơn]. Đó là lúc sức sống tiềm tàng trong Mị trỗi dậy mạnh mẽ nhất. Đúng lúc ấy, A Sử xuất hiện. Lấy làm lạ khi thấy Mị sửa soạn đi hội, hắn hỏi: “Mày muốn đi chơi à?” Ngay lúc ấy, A Sử trói Mị vào cột nhà bằng cả thúng dây đay, từ chân đến đầu, chưa bao giờ Mị thấy đau đớn, nhục nhã như lúc này. Đọc truyện, người yêu văn nhận thấy, sợi đay đã trở thành phương tiện trói buộc Mị vào nhà thống lí Pá Tra bên cạnh tiền quyền và thần quyền. Bởi lúc nào trên tay Mị cũng có đay. Ở trang văn này Mị ngồi giặt đay, trang văn khác Mị lại ngồi xe sợi. Và giờ đây những sợi đay ấy lại trói buộc Mị vào nhà thống lí. Mị thấy mình không bằng con trâu, con ngựa trong nhà thống lí Pá Tra; bởi khi mỏi nó còn được đổi tàu, đứng gãi chân, nhai cỏ. Còn Mị giờ đây khóc không thể tự lau nước mắt. Cơ chừng sau lần ấy, sức sống của Mị đã chết hẳn.

Rõ ràng khi đọc tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, đến đây, người yêu văn lại thấy phải chăng, nhà văn Tô Hoài, một nhà văn viết văn ở sau Cách mạng tháng Tám, chẳng nhẽ ông lại để cho nhân vật của mình chết rũ xương ở Hồng Ngài? Cuộc đời của Mị sẽ thế nào nếu như lại đi vào cái bước lặp của văn học hiện thực phê phán trước Cách mạng? Nhưng nhìn lại truyện “Vợ chồng A Phủ”, ta vẫn thấy ở đó còn vài ba trang truyện mà thông thường trong truyện ngắn, nhà văn đẩy kịch tính lên đến cao trào ở phần cuối truyện, rồi cởi trói truyện cũng ở phần cuối tác phẩm, Đọc hết “Vợ chồng A Phủ”, ta lại ngỡ ngàng nhận ra, nhà văn Tô Hoài đã để cho đứa con tinh thần của mình gặp được một người, không ngờ người ấy đã tiếp thêm cho Mị sức mạnh để giải thoát người cùng cảnh ngộ, giải thoát người cùng cảnh ngộ, giải thoát cuộc đời của mình, ấy chính là A Phủ. Do vậy, truyện có nhan đề “Vợ chồng A Phủ”.

Lại nói đến A Phủ, là một đứa trẻ mồ côi cha mẹ, sau một trận đậu mùa, người thân đã không còn. A Phủ là một con người sống bộc trực, thẳng thắn, khỏe mạnh; là người mà Hồng Ngài nhận định: “Có được A Phủ chẳng khác nào có được một con trâu tốt trong nhà.” Nhưng vì sống bộc trực thẳng thắn nên A Phủ đã đánh lại con quan là A Sử, nhân một lần hắn gây lộn trong đám chơi xuân. Vì đánh phải con quan, A Phủ đã bị gia đình nhà thống lí Pá Tra bắt về để xử vả.
Đọc truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, người yêu văn kinh hoàng trước cảnh tượng xử vả A Phủ. Những quan thống lí, thống phán và xéo phải ở đây ngất ngây trong cơn thuốc phiện, vừa đánh, vừa hút. Và kết cục cuộc đời của A Phủ, từ một con người tự do; nay đã trở thành kẻ trâu ngựa, nô lệ cho nhà thống lí Pá Tra với 100 đồng bạc trắng cùng tội trạng “đánh phải con quan”. Người yêu văn nhận thấy, chỉ với 10 đồng bạc mà món nợ nhà Mị đã trở thành món nợ truyện kiếp, cuộc đời của Mị đã bị bắt cúng trình mà ở nơi địa ngục trần gian này; thì với số tiền gấp 10 lần ấy của A Phủ, rõ ràng đời đời kiếp kiếp con cháu A Phủ ở nợ cho nhà thống lí Pá Tra cũng không trả hết được. Cuối cùng, cuộc đời của A Phủ đã trở thành kẻ trâu ngựa, nô lệ cho nhà thống lí Pá Tra.

Về chốn thiên la địa võng này, A Phủ có nhiệm vụ chăn thả bò ngựa, đi chăn bò tót và bẫy nhím. Một lần do mải bẫy nhím nên A Phủ đã để hổ vồ mất một con bò. Nhân sự kiện này, gia đình nhà thống lí Pá Tra đã đánh đập A Phủ, đánh trói A Phủ, bỏ đói hàng tuần lễ giữa những ngày mùa đông đầy sương muối ở vùng cao Tây Bắc.

Đêm nào cũng vậy, Mị vẫn dậy thổi than để hơ tay, Mị vẫn luôn nhìn thấy A Phủ, nhưng cô không động lòng thương nữa. Có lẽ cô đã sống quá lâu trong gia đình nhà thống lí Pá Tra, trong cái địa ngục trần gian ấy, nơi mà việc đánh đập con người nhiều hơn cơm bữa, nên lòng thương người của cô Mị nay đã bị chai sạn, bị chai lì. Hôm nay thì khác, chợt nghe thấy tiếng thở phì phì của A Phủ, Mị lén mắt nhìn sang, bất ngờ thấy một chàng trai to khỏe nhất bản, giờ đã bị hành xác đến tiều tụy: mặt xám lại, má hõm sâu, hai con mắt trũng sâu đầy bóng tối. Điều kị lạ là đúng lúc ấy, hai dòng nước mắt từ hai hố mắt của A Phủ, lặng lẽ bỏ xuống hõm má. Mị cảm thấy không đành lòng. Một niềm thương cảm chợt dâng lên trong lòng Mị. Mị nhớ đến mình ngày trước, cô cũng từng bị trói, bị đánh như thế. Mị thương mình, rồi lại thương người. Bỗng nhiên từ trong lòng Mị đã xuất hiện một lời độc thoại: “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì lại phải chết thế. A Phủ…” Khi một người đàn bà sống lầm lũi trong bóng tối, cam chịu, nhẫn nhục như con rùa ở xó cửa, xó bếp như cái bóng, cái xác vô hồn giữa địa ngục trần gian, sống như để kéo dài những ngày chưa chết được, bỗng một hôm ném ra câu hỏi như vậy trong bóng tối; thì đó là khởi đầu của sự nổi loạn trong tâm hồn. Chưa bao giờ Mị lại liều lĩnh như thế này. Và có lẽ chính hai dòng nước mắt của A Phủ đã chạm vào lòng thương của Mị. Nó khơi dậy một sức sống tiềm tàng ác liệt, trỗi dậy trong lòng Mị. Nghĩ đến cái chết, Mị không sợ nữa. Trong khoảnh khắc, Mị cầm dao cắt dây trói cho A Phủ, cho đến khi vòng dây cuối cùng được cắt đứt, A Phủ khuỵu người xuống rồi bật người đứng dậy, chạy băng băng vào trong bóng tối. Đến lúc này đây, Mị cũng chỉ nghĩ đến việc mình phải cứu A Phủ. Nhưng nhìn vào cái cọc bỏ không, Mị lại nghĩ tới nguy cơ mình sẽ bị trói thay, trói thế vào đó. Ý định tự cứu mình đến với Mị, Mị không thể chết một cách vô lí như vậy. Mị vọng thanh theo A Phủ: “A Phủ, cho tôi đi.” Đó là câu nói của một lòng ham sống. Và thế là hai con người nô lệ đã giải thoát cho nhau, nương tựa vào nhau để trốn khỏi Hồng Ngài, đến Phiềng Sa. Hành động Mị giải thoát cho A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài, đến Phiềng Sa cho đến nay vẫn là cái mốc thách thức của chính nhà văn Tô Hoài. Chính nhờ hành động này mà “Vợ chồng A Phủ” đã trở thành một tác phẩm bản lề, khép mở 2 thế giới. Nó khép lại cái thế giới tăm tối với những kiếp sống trâu ngựa, nô lệ ở Hồng Ngài; và mở ra một cuộc sống mới, tươi sáng hơn ở phía Phiềng Sa. Ngoài ra, chính hành động này đã gián tiếp khắc phục được cái hạn chế của dòng văn học hiện thực phê phán một thời. Đồng thời, nó còn mở ra hướng đi mới cho văn học thời kì giải phóng. Chính nhờ chi tiết này mà “Vợ chồng A Phủ” được trao giải thưởng Nhà nước về văn học – nghệ thuật năm 1954 – 1955. Không phải ngẫu nhiên mà sau khi đọc xong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, cũng như sau khi đọc xong tác phẩm này, nhà văn Nguyễn Tuân đã nhận định: “Tôi nhớ như đã có lần nào tôi gặp chị Dậu trong một đám đông đi phá kho thóc Nhật, địch hậu o ép, chị tải lương và đậy nắp hầm cho cán bộ, bộ đội cơ sở trong những ngày huyện kì khởi nghĩa…” Rõ ràng trong truyện, chị Dâu không hề đi phá kho thóc Nhật. Nhưng chị là tiền thân của sức mạnh, là một con người chưa bao giờ đầu hàng trước hoàn cảnh. Vậy người mà Nguyễn Tuân nhầm tưởng là ai? Nếu không phải là vợ chồng A Phủ,…? Vì khi đến Phiềng Sa, Mị và A Phủ đã gặp được cán bộ cách mạng là A Châu. Vậy nên chúng ta có thể tin tưởng rằng, những người như Mị và A Phủ mới và sẽ trở thành những người chiến sĩ cách mạng kiên cường. Bởi nói như Tố Hữu:

Xem thêm:  Thế giới Kinh Bắc trong Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm

“Đời cách mạng từ khi tôi mới hiểu

Dấn thân vô là phải chịu tù đày

Là gươm kề cổ, súng kề vai

Là thân sống chỉ còn một nửa.”

Chỉ có những con người chịu nhiều khổ đau trong bóng tối thì mới có thể trở thành những chiến sĩ cách mạng, những con người coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.

Ta có thể kết luận rằng, “Vợ chồng A Phủ” là một bài ca mô tả quá trình bừng thức, bùng dậy của kiếp sống trâu ngựa, nô lệ và còn là bài ca, ca ngợi tự do, lòng yêu đời mang tính nhân bản của con người. Ngòi bút của Tô Hoài đã đạt đến trình độ nhân văn, sâu sắc, cao cả. Chính hành động Mị cởi trói cho A Phủ đã làm sáng rõ hơn chân lí của cuộc đời mà Nguyễn Khải đã gửi gắm qua truyện ngắn “Mùa lạc”, nghĩa là mùa vui: “Sự sống nảy sinh ở trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ những gian khổ, hi sinh.” Không có con đường cùng, chỉ có ranh giới giữa sự sống và cái chết. Điều cốt yếu là phải chuẩn bị cho mình sức mạnh để vượt qua ranh giới vô hình ấy.

Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Bài số 4

Mị trong tác phẩm “Vợ chổng A Phủ” là một người phụ nữ bất hạnh, bị cướp mất quyền con người. Theo cách miêu tả ở ngay đầu truyện người đọc dễ có một cảm giác như Mị đã bị chai lì với khổ đau và đã chấp nhận cuộc sống giống như một con vật trong nhà thống lí. Nhưng giữa lúc đau khổ bị dồn nén đến ddirnhr điểm thì người đọc đã nhận ra trong con người  Mị còn tiềm tàng một sức sống mãnh liệt đến khó tin.

Từ khi Mị bị bắt về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị đã phải sống của một người nô lệ. Vì tình thương đối với cha, Mị đã cố gắng chịu đựng ở lại để trừ nợ cho cha, và dần con người ấy đã chai sạn với những khổ đau khủng khiếp ấy. Những tưởng con người ấy sẽ chịu làm kiếp trâu ngựa đến hết đời nhưng Mị đã trỗi dậy một cách bất ngờ. Chính những tiếng hát, tiếng sáo của những đêm tình mùa xuân đã làm tâm hồn chai sạn của Mị sống lại.

“Mày có con trai con gái rồi

Mày đi làm nương

Ta không có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu”

MỊ đã khao khát có được niềm vui hạnh phúc giống như những con người đang ở thế giới bên ngoài, Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát. Càng uống tâm hồn Mị càng thêm tỉnh. Mị nhớ lại rằng, ngày xưa Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Mùa xuân, Mị uống rượu trên bếp và thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác. Sức sống lại dạt dào trong lòng nàng. “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng độy nhiên vui sướng như đêm tết ngày trước. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi.” Tiếng sáo còn rập rờn trong đầu Mị, Mị quấn lại tóc, Mị mặc váy hoa. Ai bảo cô Mị chỉ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Giữa lúc cuộc sống tươi đẹp đang sống lại với người phụ nữ đáng thương ấy thì A Sử một lần nữa lại cướp mất của nàng. Hắn cuốn tóc Mị lên và trói vào cột rồi bỏ đi. Không giống như những lần bị đày đọa trước, lần này Mị đã vùng dậy bước đi nhưng toàn thân đau nhói.

Hành động đáng ca ngợi ở Mị chính là hành vi nổi loạn giải thoát cho A Phủ và cho chính mình. Trước kia khi nàng nhìn thấy cảnh A Phủ bị đánh đập, nàng tỉnh bơ như không co cảm giác. Nhưng giờ đây nàng lại thấy thương cho số phận A Phủ, nàng không muốn A Phủ phải chết. Từ suy nghĩ nổi loạn dẫn đến hành động nổi loạn của mình, Mị đã mạnh dạn lại cắt sợi dây mây trói A Phủ và dục chàng đi ngay. Mị cắt sợi dây trói A Phủ cũng chính là nàng đã cắt sợi dây vô hình trói nàng vào gia đình thống lí Pá Tra. Nàng đã chạy theo A Phủ, A Phủ nói: “Đi với tôi” và hai người lẳng lặng đỡ nhau chạy xuống dốc núi. Hình ảnh đó nói lên sự can đảm liều lĩnh của Mị. Hành động táo bạo này có ý nghĩa quyết định trong cuộc đời Mị. Mị và A Phủ đã nương tựa vào nhau và thành vợ chồng A Phủ để xây dựng cuộc đời mới. Hành động giải thoát của Mị có xen lẫn ý thức tự phát và tự giác. Có lẽ ý thức tự phát mạnh hơn. Đó chính là kết quả biểu lộ tất yếu của một sức sống vốn đã tiềm tàng, tiềm ẩn của Mị trước đó. Hành động giải phóng và tự giải phóng này của Mị có nguồn gốc từ cái buồn rười rượi, từ cái cách uống ừng ực từng bát rượu và ngay cả ý định muốn tự sát của Mị.

Hành đồng vùng lên đấu tranh, tìm lại hạnh phúc chân chính cho mình chính là sức sống của tác phẩm trong lòng độc giả. Bằng việc phân tích tâm lí nhân vật một cách sâu sắc, tác phẩm đã đưa ra một lời tuyên bố đanh thep đối với thế lực cường hào phong kiến, dù bọn chúng có tàn ác, có dùng thủ đoạn tàn nhẫn với người dân, chúng vẫn không thể đập tan ý chí và sức sống mãnh liệt của con người.

Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Bài số 5

Vợ chồng A Phủ in trong tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài [xuất bản năm 1953]. Đây là tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Thông qua số phận của Mị và A Phủ, nhà văn đã dựng lại quãng đời đau khổ, tối tăm của người dân miền núi trước Cách mạng và phản ánh quá trình đến với cách mạng của họ. Tô Hoài đã thành công trong việc xây dựng nhân vật Mị với diễn biến tâm lí vô cùng phức tạp.

Nhân vật Mị mang đầy đủ phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ vùng cao. Đẹp người, đẹp nết, Mị được nhiều trai bản yêu mến, ước ao. Tuổi thanh xuân hứa hẹn với cô bao điều tốt lành, nhưng chì vì món nợ cha mẹ cô vay của tên thống lí Pá Tra từ ngày cưới, cho đến khi mẹ cô đã chết mà vẫn chưa trả được nên Mị bị bắt về làm con dâu trừ nợ cho nhà hắn. Mị bị coi như một thứ đồ vật vô tri vô giác để tính ra tiền trừ vào số nợ. Những năm tháng Mị sống với cha con tên thống lí gian ác là chuỗi dài đau thương, khổ ải. Cô bị coi rẻ hơn cả con trâu, con ngựa.

Đau khổ, cực nhục đã cướp mất tuổi xuân của Mị, biến cô thành kẻ nhẫn nhục, cam chịu. Cô gái xinh đẹp, hồn nhiên, đa cảm thủa nào đường như đã chết, chỉ còn lại người đàn bà lúc nào cũng vậy… cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi… ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa… của nhà thống tí. Mị sống âm thầm, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.

Không những bị đọa đày về thể xác, Mị còn bị đè nén, áp bức về tinh thần. Cô chán sống nhưng không được chết, vì Mị chết thì món nợ truyền kiếp kia vẫn còn và người bố già càng thêm đau khổ. Cuộc đời Mị bị trói buộc bằng quyền lực, bằng tập tục mê tín dị đoan lâu đời của người dân miền núi. Mị cho rằng mình đã bị Con ma nhà thống lí nhận mặt: nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi. Cách đối xử bất công, tàn bạo của cha con thống lí làm cho Mị sống triền miên trong đau khổ. Cô lặng lẽ ra vào như cái bóng, không một người bạn chia sẻ tâm tình. Cô chỉ biết làm bạn với ngọn lửa trong những đêm đông dài và buồn. Thân xác Mị héo úa, tâm hồn Mị lạnh lẽo, trống vắng, nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo… Ngọn lửa là người bạn duy nhất giúp cô xua bớt phần nào bóng tối u ám đang vây phủ cuộc đời. Không có người thông cảm với nỗi khổ của mình, Mị phải tìm đến ngọn lửa và coi nó là bạn… Khổ biết chừng nào!

Tác giả giúp người đọc hình dung rõ hơn về cuộc đời bế tắc của Mị qua hình ảnh căn buồng cô ở kín bưng, tối mò, chỉ thông với bên ngoài bằng lỗ cửa sổ bé như bàn tay. Ở trong nhìn ra không biết là đêm hay ngày, sương hay nắng…

Bao năm qua, bị đày đọa trong nhà thống lí, mọi cảm xúc của Mị hầu như tê liệt. Tinh thần phản kháng cũng vậy. Mị nghĩ rằng mình là con trâu con ngựa của nhà giàu, chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Con trâu, con ngựa đêm còn được nghỉ, còn cô không lúc nào ngớt việc. Trước kia, có lần cô phản kháng dữ dội bằng cách định ăn lá ngón tự tử, giờ đây cô không nghĩ đến cái chết nữa vì đã quá quen với cái khổ rổi. Đời Mị cứ thế lặng lẽ trôi đi trong vô vọng. Với Mị, cuộc sống không còn ý nghĩa.

Đau khổ kéo dài khiến cho lòng Mị tưởng chừng nguội lạnh. Dường như mọi cảm xúc, khát khao dã bị dập tắt từ lâu. Điều kì diệu là dẫu trong tột cùng đau thương thì mọi thế lực tội ác cũng không hủy diệt được con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã nhưng Mị vẫn sống âm thầm, mãnh liệt. Từ trong sâu thẳm tâm hồn người con gái bị dày đọa kia vẫn âm ỉ, le lói một ngọn lửa yêu đời, ham sống. Mùa xuân về, Mị lén uống rượu và lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng… Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi…

Rõ ràng, bản chất đích thực đã trở lại với Mị. Tất cả mọi giác quan, cảm xúc tưởng như đã lụi tàn vì đau khổ nay đang sống dậy. Mị thấy mình còn trẻ lắm, mà còn trẻ thì phải được hưởng hạnh phúc. Vì thế nên bất chợt Mị muốn đi chơi. Nhưng khát vọng chính đáng đã bị hiện thực phũ phàng vùi dập. A Sử đánh Mị, trói Mị, Mị vẫn thả hồn lâng lâng theo tiếng sáo gọi bạn. Tiếng sáo mùa xuân, tiếng sáo gọi tình yêu khơi lên niềm khao khát hạnh phúc trong lòng Mị. Phản ứng tự phát ban đầu của Mị không thể giải phóng được cuộc đời cô nhưng những giây phút trỗi dậy ấy có ý nghĩa thức tỉnh. Giống như đốm lửa âm ỉ trong đám tro tàn, có ngày nó sẽ bùng cháy dữ dội khi gặp cơn gió mạnh.

Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, bị đánh, mấy đêm đầu, Mị vẫn thản nhiên thức dậy sưởi lửa. Mị thản nhiên vì chuyện đánh người, trói người xảy ra thường xuyên ở nhà thống lí. Nhưng đêm nay, trông thấy dòng nước mắt bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ, Mị không cầm lòng được. Mị thương A Phủ cũng bị rơi vào vòng đọa đày, khốn khổ như mình. Cô liên tưởng tới bao kẻ tôi tớ khác trong nhà này đã bị cha con tên thống lí bạo tàn đối xử dã man. Có người chết đói, chết rét sau mấy ngày cùm trói. A Phủ kia cũng sẽ như vậy thôi và đến một ngày nào đó, Mị cũng thế. Hơn bao giờ hết, ý thức về nỗi khổ, về thân phận trỗi dậy trong lòng Mị. Nếu cứ cúi đầu chấp nhận số phận có nghĩa là chấp nhận cái chết bi thảm. Từ hình ảnh đau thương của A Phủ trước mắt, Mị liên tưởng đến tương lai mù tối, bế tắc của mình. Chính điều đó đã làm sống lại trái tim tưởng chừng đã bị đau khổ làm cho chai đá của Mị. Cô thương người, thương thân. Giọt lệ bất lực và thống khổ của A Phủ như giọt nước cuối cùng làm tràn đầy bình nước, cảm thương số phận A Phủ, một chàng trai dũng cảm, khỏe mạnh sắp bị cướp đi mạng sống, Mị càng thương thân và càng căm thù cha con tên thống lí gấp bội. Cái thương cái ghét bùng lên, lấn át nỗi sợ, dẫn Mị đến hành động táo bạo ngoài ý thức: cắt dây trói cứu A Phủ.

Đây là hành động bộc phát song nó là kết quả tất yếu của cả một quá trình bị dồn nén, bức xúc về mặt tinh thần bây giờ đã đến lúc giải thoát và đó cũng chính là biểu hiện tất yếu của một sức sống vốn đã tiềm tàng ẩn chứa trong con người Mị bấy lâu nay. Mị cắt dây trói cho A Phủ cũng là cắt dứt những dây trối vô hình đã cột chặt cô vào quãng đời tủi nhục. Cô vụt chạy theo A Phủ bởi cô ý thức được nỗi khổ và sự sống còn của mình: ở đây thì chết mất Mị chạy theo tiếng gọi mãnh liệt của tự do, cô tự giải phóng mình khỏi nanh Vuốt cha con tên thống lí tàn bạo. Từ trong cái địa ngục giam cầm đày ải mình suốt mấy năm qua, từ trong sự bủa vây tàn khốc của cái chết, Mị đã vùng dậy tìm lẽ sống, làm lại cuộc đời.

Qua việc miêu tả diễn biến tâm lí và sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong hoàn cảnh đau thương, nhà văn Tô Hoài muốn khẳng định không bạo lực đen tối nào có thề vùi dập được sức sống và khao khát tự do của con người ; đồng thời nhấn mạnh rằng, chỉ có sự tự vùng dậy của bản thân theo sự dẫn dắt của cách mạng mới giải phóng được con người ra khỏi kiếp ngựa trâu, nô lệ. Đó chính là giá trị nhân đạo to lớn của tác phẩm.

Thanh Bình tổng hợp

Video liên quan

Chủ Đề