Tại sao tiền - hàng - tiền trở thành công thức chung của tư bản

TRUNG TÂM GIA SƯ GLORY    -    TRUNG TÂM UY TÍN TẠI HẢI PHÒNG.    ĐỊA CHỈ: NGÕ 275 ĐÔNG KHÊ, NGÔ QUYỀN, HẢI PHÒNG

    Xã hội loài người phát triển từ thấp đến cao, Trong nền kinh tế hàng hóa giản đơn, tiền là phương tiện lưu thông vận động theo công thức: H – T – H [hàng– tiền – H], nghĩa là , bán để mua. Khi sản xuất hàng hóa phát triển cao bước sang giai đoạn kinh tế thị trường TBCN,  sẽ có một bộ phận nhà tư bản dùng tiền để đầu tư , tiền của họ vận động theo công thức T – H – T [Tiền – Hàng – Tiền]. nghĩa là , mua để bán nhằm mục đích làm giàu hay mục đích gia tăng giá trị.     Theo Mác, bất cứ tiền nào vận động theo công thức T – H – T [Tiền – Hàng – Tiền] đều chuyển thành tư bản.

     Để hiểu rõ hơn về công thức chung của Tư bản, Ta đi so sánh 2 công thức : H – T – H và T – H – T, ta thấy rằng;

  • Điểm giống nhau của 2 công thức đều phản ánh những quan hệ chung của kinh tế hàng hóa, tức là đều có quá trình mua và bán, đều có yếu tố vật chất là Hàng và Tiền, đều có người mua và người bán tham gia.
  • Điểm khác nhau của 2 công thức đó là:

    + Điểm khác nhau thứ nhất, về hoạt động mua bán, Công thức 1: H – T – H, bán trước mua sau. Công thức 2; T – H – T, mua trước bán sau.      + Điểm khác nhau thứ hai, về mục đích trao đổi mua bán: Đối với lưu thông hàng hóa giản đơn [H – T – H] mục đích là H tức là giá trị sử dụng, đáp ứng nhu cầu sử dụng hàng hóa của người trao đổi. Công thức này viết cụ thể lại là H1 – T – H2 [H1, H2 là 2 loại hàng hóa khác nhau, có giá trị sử dụng khác nhau].      Còn đối với lưu thông tư bản trong Kinh tế thị trường tư bản Chủ nghĩa [T – H – T] mục đích cuối cùng của nhà tư bản là T tức là giá trị [giá trị thu về càng cao, nhà tư bản càng thích bởi đó tỷ lệ với lợi nhuận nhà tư bản có được]. Vì vậy, chúng ta thấy rằng, chẳng có nhà tư bản nào lại muốn bỏ tiền ra đầu tư để rồi thu lại 1 số tiền bằng với số tiền ban đầu. Đầu tư phải sinh ra lợi nhuận, thì họ mới tiếp tục đầu tư lâu dài. Nên công thức này, chính xác phải viết là: T – H –T’ [trong đó, T’ = T + ∆T , ∆T chính là giá trị thặng dư và phải là số dương].      + Điểm khác nhau thứ 3, về giới hạn của lưu thông: Đối với lưu thông hàng hóa giảng đơn [H1 – T – H2]. Mục đích của lưu thông này là giá trị sử dụng, nên sau khi có được hàng hóa H2, đã thỏa mãn nhu cầu sử dụng, thì công thức này dừng lại ở đây. Có nghĩa là lưu thông đã hoàn thành xong nhiệm vụ của nó. Người nuôi gà sau khi trao đổi lấy gạo, sẽ đem gạo về nhà nấu cơm cho con cái anh ta, tiêu dùng giá trị sử dụng của gạo. Nhưng đối với lưu thông tư bản thì khác, theo công thức T-H-T’ [ T’ = T + ∆T ], khi quá trình lưu thông này kết thúc, nhà tư bản có được T’, nhưng anh ta sẽ không dừng ở đó, vì mục đích của anh ta là giá trị, giá trị càng nhiều, anh ta càng sung sướng. Hay nói cách khác, nhà tư bản sẽ cố gắng kiếm được nhiều càng nhiều lợi nhuận càng tốt. Do đó, công thức này, sẽ tiếp tục được thực hiện ở vòng lưu thông tiếp theo. Công thức lưu thông mới là : T’ – H’ –T’’ [T’’ = T’ + ∆T’ ], thậm chí , còn kéo dài hơn nữa : T – H – T’ – H’ – T’’ – H’’ – T’’’…… Như vậy, công thức lưu thông tư bản  sẽ không có giới hạn, nếu nhà tư bản vẫn tiếp tục kiếm được giá trị mới.       Đến đây, Mác khái quát Công thức chung của tư bản là : T – H – T’ [trong đó T’ = T + ∆T ]. ∆T  Mác gọi đó là giá trị thặng dư. Khái niệm tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư.            Vấn đề thứ hai: Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản. Ngoài việc tìm ra công thức chung của tư bản, Mác còn phân tích mâu thuẫn của công thức chung đó.        Thoạt nhìn, công thức chung của tư bản T – H – T’[trong đó T’ = T + ∆T ] , khi xuất hiện ∆T, ∆T ở đâu mà ra?

      Có vẻ xuất hiện ∆T như đang mâu thuẫn với lý luận về hàng hóa, giá trị, tiền tệ và lưu thông như đã nghiên cứu ở chương 2. Bởi vì, không chỉ lao động tạo ra giá trị, mà hình như tiền tệ tự nó cũng tạo ra giá trị; giá trị không chỉ được tạo ra trong sản xuất mà cả trong lưu thông.         Theo lý thuyết giá trị, trong mọi trường hợp, dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá, lưu thông và bản thân tiền tệ trong lưu thông không hề tạo ra giá trị.

      Để thấy điều đó, Ta xét 2 trường hợp có thể xảy ra trong lưu thông: Trao đổi ngang giá và trao đổi không ngang giá.      Trong trường hợp trao đổi ngang giá : tiền trao đổi ngang giá lấy hàng và hàng trao đổi ngang giá lấy tiền, thì tổng số giá trị cũng như phần giá trị nằm trong tay mỗi bên tham gia trao đổi trước sau vẫn không thay đổi. Vậy trao đổi ngang giá, không tạo ra giá trị mới. Còn trường hợp trao đổi không ngang giá thì sao? Đó là các việc mua rẻ, bán đắt hoặc lừa lọc để luôn mua rẻ, bán đắt để kiếm lợi.       Chúng ta biết rằng, Nhà tư bản tham gia vào lưu thông tư bản, họ phải đảm nhiệm với tư cách vừa là người mua đồng thời vừa là người bán. Trên thị trường có rất nhiều nhà tư bản cùng tham gia và có mối quan hệ dây chuyền tác động lẫn nhau. Giả sử, khi anh ta mua rẻ, tức là anh ta mua hàng hóa thấp hơn giá trị, anh ta được lợi ở khâu mua hàng hóa. Nhưng với tư cách là người bán, thì anh ta lại bị thiệt ở khâu bán. Và tương tự, ở trường hợp, người bán cao hơn giá trị cũng vậy, anh ta được lợi ở khâu bán, nhưng sẽ bị thiệt ở khâu mua.        Để dễ hình dung, tôi lấy 1 ví dụ như thế này: những người bán gạo tăng giá bán đắt hơn giá trị thực của gạo. Người bán gạo sẽ có lợi và kiếm lời được nhiều hơn khi bán. Tuy nhiên, khi gạo lên giá đối với những người mua khác, sẽ có tác động gián tiếp tới các loại hàng hóa dùng gạo làm đầu vào, như: Bánh, thịt, rượu, bia… và thậm chí , là mức lương của người lao động sẽ yêu cầu phải tăng theo, do chi phí sinh hoạt tăng. Người bán gạo, với tư cách là người bán có lợi khi bán gạo, nhưng với tư cách là người mua [ví du: mua bánh, mua thịt gà, trả công cho người xay xát …] sẽ lại bị thiệt , bởi giá các loại mặt hàng này đã tăng. Nhìn chung, thì mua rẻ , hay bán đắt thì không tạo ra giá trị mới.       Nếu có những trường hợp cá biệt, chuyên  lừa lọc, ép giá lúc nào cũng mua rẻ và bán đắt để kiếm lời. Thì xét trên phạm vi xã hội những người đó, luôn có lợi thì sẽ có những người luôn bị thiệt. Do đó,  nó không làm tăng thêm giá trị, mà chỉ là phân phối lại giá trị mà thôi,       Như vậy, qua 2 trường hợp phân tích trên, thì ta có kết luận thứ nhất: Tư bản không sinh ra trong lưu thông.

Vậy ngoài lưu thông có tạo ra giá trị không?

      Nếu người có tiền không đem tiền đầu tư, không thực hiện lưu thông mà chỉ để trong két thì  thì cũng không  tạo ra giá trị được. Các bạn để vào két 10 triệu, giả sử không có yếu tố lạm phát, thì 10 năm sau, các bạn bỏ ra vẫn chỉ có 10 triệu.

      Vậy kết luận thứ hai: Tư bản không thể sinh ra ngoài lưu thông.

Với hai kết luận 1 và 2, thì mâu thuẫn của công thức chung của tư bản đó là: “tư bản không sinh ra từ lưu thông, cũng không thể sinh ra ngoài lưu thông.” Vậy tư bản hay giá trị thặng dư được sinh ra như ra như thế nào?

Mác đã giải quyết tận gốc mâu thuẫn chung tư bản qua lý luận về “hàng hóa sức lao động”.

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Tư bản hay vốn trong kinh tế học là khái niệm để chỉ những vật thể có giá trị, có khả năng đo lường được sự giàu có của người sở hữu chúng. Tư bản là sở hữu về vật chất thuộc về cá nhân hay tạo ra bởi xã hội. Vậy trong tư bản thì công thức chung của tư bản là gì là câu hỏi được đông đảo độc giả quan tâm tìm kiếm.

Tư bản là gì?

Theo Nguyễn Văn Ngọc, Từ điển Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân thì tư bản [capital] được hiểu là khái niệm được dùng để chỉ nhân tố sản xuất do hệ thống kinh tế sản xuất ra.

Hàng hóa tư bản [còn gọi là hàng đầu tư] là những hàng hóa được sản xuất ra, sau đó được sử dụng làm đầu vào nhân tố phục vụ cho các quá trình sản xuất khác, như máy móc, trang thiết bị, nhà xưởng, nguyên vật liệu.

Do khái niệm này bao gồm nhiều thứ khác nhau, nên việc xác định khối lượng tư bản là vấn đề gây nhiều tranh cãi giữa các nhà kinh tế. Tựu chung lại có thể thấy tư bản là khái niệm để chỉ nhân tố sản xuất trong hệ thống kinh tế sản xuất ra và quen thuộc phổ biến với con người.

Theo nội dung của sản xuất giá trị thặng dư – quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản về sự chuyển hóa của tiền thành tư bản thì khẳng định rẳng tiền là sản vật cuối cùng của lưu thông hàng hoá, đồng thời cũng là hình thức biểu hiện đầu tiên của tư bản.

Mọi tư bản lúc đầu đều biểu hiện dưới hình thái một số tiền nhất định nhưng bản thân tiền không phải là tư bản. Tiền chỉ biến thành tư bản trong những điều kiện nhất định, khi chúng được sử dụng để bóc lột lao động của người khác.

Theo đó tiền được chia thành là tiền thông thường hoặc tiền tư bản. Tiền thông thường sẽ vận động theo công thức: H – T – H [hàng – tiền – hàng], nghĩa là sự chuyển hoá của hàng hoá thành tiền, rồi tiền lại chuyển hoá thành hàng hoá. Trong trường hợp tiền được coi là tư bản, thì vận động theo công thức: T – H – T [tiền – hàng – tiền], tức là sự chuyển hoá của tiền thành hàng hoá, rồi hàng hoá lại chuyển hoá ngược lại thành tiền. Bất cứ tiền nào vận động theo công thức T – H – T đều chuyển hoá thành tư bản.

Giữa tiền thông thường hoặc tiền tư bản thì cả hai sự vận động đều do hai giai đoạn đối lập nhau là mua và bán hợp thành, trong mỗi giai đoạn đều có hai nhân tố vật chất đối diện nhau là tiền và hàng, và hai người có quan hệ kinh tế với nhau là người mua và người bán.

Bên cạnh đó giữa hai công thức đó có những điểm khác nhau về chất. Lưu thông hàng hoá giản đơn bắt đầu bằng việc bán [H – T] và kết thúc bằng việc mua [T – H]. Điểm xuất phát và điểm kết thúc của quá trình đều là hàng hoá, còn tiền chỉ đóng vai trò trung gian. Ngược lại, lưu thông của tư bản bắt đầu bằng việc mua [T – H] và kết thúc bằng việc bán [H – T]. Tiền vừa là điểm xuất phát, vừa là điểm kết thúc của quá trình, còn hàng hoá chỉ đóng vai trò trung gian; tiền ở đây không phải là chi ra dứt khoát mà chỉ là ứng ra rồi thu về.

Mục đích của lưu thông hàng hoá giản đơn là giá trị sử dụng để thoả mãn nhu cầu, nên các hàng hoá trao đổi phải có giá trị sử dụng khác nhau. Sự vận động sẽ kết thúc ở giai đoạn thứ hai, khi những người trao đổi có được giá trị sử dụng mà người đó cần đến. Còn mục đích của lưu thông tư bản không phải là giá trị sử dụng, mà là giá trị, hơn nữa giá trị tăng thêm.

Vậy công thức chung của tư bản là gì thì theo C.Mác gọi công thức T – H – T’ là công thức chung của tư bản. Nguyên nhân công thức T – H – T’ là công thức chung của tư bản vì sự vận động của mọi tư bản đều biểu hiện trong lưu thông dưới dạng khái quát đó, dù là tư bản thương nghiệp, tư bản công nghiệp hay tư bản cho vay.

Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Mục đích lưu thông tư bản là sự lớn lên của giá trị, là giá trị thặng dư, nên sự vận động của tư bản là không có giới hạn, vì sự lớn lên của giá trị là không có giới hạn. C.Mac gọi công thức T – H – T là công thức chung của tư bản, vì sự vận động của mọi tư bản đều biểu hiện trong lưu thông dưới dạng khái quát đó, dù đó là tư bản thương nghiệp, tư bản công nghiệp hay tư bản cho vay.

Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản

Trong lưu thông, dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá cũng không tạo ra giá trị mới, do đó cũng không tạo ra giá trị thặng dư.

Trường hợp trao đổi ngang giá: nếu hàng hoá được trao đổi ngang giá, thì chỉ có sự thay đổi hình thái của giá trị, từ tiền thành hàng và từ hàng thành tiền, còn tổng giá trị cũng như phần giá trị nằm trong tay mỗi bên tham gia trao đổi trước sau vẫn không thay đổi. Tuy nhiên, về mặt giá trị sử dụng, thì cả hai bên trao đổi đều có lợi.

Trường hợp trao đổi không ngang giá: nếu hàng hoá được bán cao hơn giá trị, thì số lời anh ta nhận được khi là người bán cũng chính số tiền anh ta sẽ mất đi khi là người mua, rốt cuộc anh ta sẽ không được lợi thêm gì cả. Còn nếu mua hàng hoá thấp hơn giá trị, thì tình hình cũng tương tự như trên. Số lời anh ta nhận được khi là người mua sẽ mất đi khi là người bán.

Như vậy, nếu người ta trao đổi những vật ngang giá sẽ không sinh ra giá trị thặng dư; nếu người ta trao đổi những vật không ngang giá thì cũng không sinh ra giá trị thặng dư. Lưu thông không tạo ra giá trị mới. Nhưng nếu người có tiền không tiếp xúc gì với lưu thông, tức là đứng ngoài lưu thông, thì cũng không thể làm cho tiền của mình lớn lên được. “Vậy là tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông”.

Trên đây là những chia sẻ của chúng tôi về vấn đề công thức chung của tư bản là gì đến bạn đọc. Trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu về vấn đề này nếu có bất cứ thắc mắc nào, Quý khách hàng đừng ngần ngại liên hệ với chúng tôi để được đội ngũ chuyên viên tư vấn của chúng tôi hỗ trợ tốt nhất.

Video liên quan

Chủ Đề