Thế nào là bệnh còi xương ở trẻ em

Nguyên nhân gây bệnh còi xương là do thiếu vitamin D – thành phần quan trọng giúp tạo xương. Có thể tìm thấy vitamin D có trong các loại thức ăn, và còn được tổng hợp dưới tác dụng của ánh sáng mặt trời. Còi xương hiện nay vẫn còn khá phổ biến ở trẻ em, nhất là trẻ nhũ nhi, nếu không được phát hiện sớm và xử trí phù hợp sẽ gây nhiều bất lợi cho sức khỏe và sự phát triển toàn diện của trẻ.

Nguyên nhân trẻ bị còi xương

Còi xương là bệnh loạn dưỡng xương do rối loạn chuyển hoá vitamin D hoặc thiếu vitamin D trong cơ thể. Còi xương là bệnh hay gặp ở trẻ nhỏ nhất là trẻ dưới 1 tuổi. Theo thống kê, trong mấy năm gần đây, tỷ lệ còi xương ở trẻ ngày càng tăng. Theo số liệu của Bệnh viện Nhi Trung ương, cứ 100 trẻ em Việt Nam dưới 3 tuổi thì có khoảng 10 cháu bị còi xương.

Nguyên nhân bệnh còi xương là do thiếu vitamin D – thành phần quan trọng giúp tạo xương.

Thiếu vitamin D ở trẻ thường gặp trong những tình huống cụ thể như: cha mẹ giữ trẻ quá kỹ không dám cho trẻ tiếp xúc dưới ánh nắng mặt trời [vitamin D thường được tổng hợp dễ dàng dưới ánh nắng mặt trời], trẻ không được bú mẹ vì trong sữa mẹ khá dồi dào lượng vitamin D.

Trẻ ăn dặm được cho ăn quá nhiều chất bột, chất đạm [thịt] gây tình trạng toan chuyển hóa và tăng đào thải calci ra nước tiểu trong khi thiếu hẳn các loại thực phẩm giàu vitamin D như cá [dầu, gan, cá], trứng cá, bột ngũ cốc, đậu nành…hoặc thiếu các loại thức ăn cần thiết giúp hấp thu vitamin D là chất dầu/mỡ [vitamin D tan trong chất béo].

Biểu hiện của bệnh còi xương

Các biểu hiện ở hệ thần kinh

  • Trẻ ra mồ hôi nhiều kể cả ban đêm [mồ hôi trộm].
  • Trẻ kích thích khó ngủ, hay giật mình.
  • Rụng tóc gáy [do trẻ ra mồ hôi nhiều].
  • Đối với còi xương cấp có thể gặp: thở rít, nôn, nấc khi ăn, khóc lặng, co giật.
  • Trẻ biết lẫy, bò chậm so với bình thường.

Các biểu hiện ở xương

  • Thóp mềm, lâu liền, bướu trán, bướu đỉnh.
  • Lâu mọc răng, khi mọc thì hay bị sâu và rụng.
  • Lồng ngực hình gà, chuỗi hạt sườn.
  • Vòng cổ chân, vòng cổ tay, xương chi cong.

Toàn thân

Chán ăn, da xanh thiếu máu, suy dinh dưỡng, lách to.

Những nguy cơ và hậu quả của bệnh còi xương ở trẻ

  • Bệnh còi xương thường gặp ở trẻ nhỏ do xương chậm phát triển vì thiếu vitamin D. Hậu quả là xương của trẻ bị cong, dễ gãy xương khi có chấn thương như té ngã. Biểu hiện của bệnh là trẻ hay đổ mồ hôi, hay bị giật mình khi ngủ, kém ăn hay quấy khóc, gầy yếu, chậm lớn.
  • Ở một số trẻ đầu có vẻ to so với thân mình. Nếu trẻ nhỏ bị còi xương thì thóp chậm kín, răng chậm mọc, dễ bị sún răng. Trường hợp nặng có thể thấy xương sống bị vẹo, cong xương tay, chân, chậm biết lẫy, chậm biết ngồi, chậm biết đi. Có khi trẻ bị co giật do thiếu calc.
  • Bệnh còi xương ảnh hưởng rất lớn và lâu dài đến sự phát triển thể chất, vận động và có thể gây biến dạng xương của trẻ, đặc biệt với các em gái còn ảnh hưởng tới quá trình sinh đẻ sau này [do khung chậu hẹp].
  • Bệnh còi xương còn có thể gây biến dạng xương và tử vong do các bệnh nhiễm khuẩn nặng nhất là viêm phổi vì trẻ bị còi xương sức đề kháng rất yếu kém.

Chủ động phòng ngừa bệnh còi xương cho trẻ

  • Để phòng chống còi xương cần cho trẻ bú mẹ và ăn bổ sung đủ các chất dinh dưỡng đặc biệt là các thức ăn giàu vitamin D và calci [trứng, sữa, gan, tôm, cua, cá…]. Vitamin D là loại vitamin tan trong chất béo, do vậy bữa ăn của trẻ còn cần có đủ dầu, mỡ để giúp cơ thể trẻ hấp thu và sử dụng tốt vitamin này. Với những trẻ có nguy cơ cao như đã nói ở trên, ngoài việc bảo đảm chế độ nuôi dưỡng cần được bổ sung thêm vitamin D với liều 400 đơn vị/ngày, uống liên tục trong năm đầu, từ 2 năm trở về sau sẽ dùng 200.000 đơn vị trong mùa đông cho đến khi trẻ 5 tuổi.
  • Bà mẹ khi có thai phải làm việc và nghỉ ngơi hợp lý để tránh bị sinh non, có thể uống vitamin D khi thai được 7 tháng với liều 600.000 đơn vị trong 3 tuần [200.000 đơn vị/tuần]. Sau sinh, cả mẹ và con không ở trong phòng tối, kín, phòng ở phải thoáng, mát, đủ ánh sáng. Từ sau 2 tuần tuổi, cho trẻ tiếp xúc thường xuyên với ánh sáng tự nhiên, tốt nhất là cho trẻ làm quen với ánh sáng dịu buổi sáng để bảo đảm trẻ có đủ ánh sáng mặt trời. Khi tắm nắng cần để lộ chân tay, lưng, bụng trẻ ra ngoài từ 10-20 phút lúc buổi sáng [9-9 giờ 30 phút], thời gian chiếu nắng có thể tăng dần đến 30 phút/ngày.
  • Để ánh nắng chiếu trực tiếp lên da trẻ mới có tác dụng, nếu chiếu qua lần vải hoặc qua cửa kính sẽ còn rất ít tác dụng. Khi thấy trẻ có những dấu hiệu của còi xương nên cho trẻ đi khám để thầy thuốc hướng dẫn và chỉ định cách điều trị cụ thể và tích cực hơn.

Tài liệu tham khảo

//www.facebook.com/diendannhikhoa/posts/332753316922195

Tìm hiểu chung

Còi xương là bệnh gì?

Còi xương là rối loạn ở trẻ em, do sự thiếu rất nhiều vitamin D, canxi hoặc phosphate trong cơ thể. Bệnh sẽ làm xương mềm và suy yếu.

Triệu chứng thường gặp

Những dấu hiệu và triệu chứng của bệnh còi xương là gì?

Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh còi xương có thể bao gồm tăng trưởng chậm, đau cột sống, xương chậu và chân, yếu cơ.

Bệnh còi xương có thể ảnh hưởng đến phát triển của con bạn bởi vì bệnh sẽ làm suy yếu xương, dẫn đến dị tật ở trẻ, chẳng hạn như:

  • Chân cong hoặc hai đầu gối chụm vào nhau;
  • Cổ tay và mắt cá chân dày lên;
  • Xương ức nhô ra.

Con bạn có thể gặp các triệu chứng khác không được đề cập. Nếu bạn có bất kỳ thắc mắc nào về các dấu hiệu bệnh, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ.

Khi nào bạn cần gặp bác sĩ?

Nếu con bạn có bất kỳ dấu hiệu hoặc triệu chứng nêu trên hoặc có bất kỳ câu hỏi nào, xin vui lòng tham khảo ý kiến bác sĩ. Cơ địa mỗi người là khác nhau. Vì vậy hãy hỏi ý kiến bác sĩ để lựa chọn được phương án thích hợp nhất.

Nguyên nhân gây bệnh

Những nguyên nhân nào gây ra bệnh còi xương?

Bé có thể mắc bệnh còi xương nếu cơ thể không có đủ lượng vitamin D từ ánh sáng mặt trời và thực phẩm. Vitamin D rất quan trọng đối với sức khỏe xương vì nó giúp cơ thể hấp thụ canxi và phốt pho trong thực phẩm. Con bạn sẽ bị còi xương nếu không nhận đủ vitamin D, canxi và phốt pho.

Đôi khi, một số bệnh nhất định có thể gây ra vấn đề trong việc sử dụng vitamin D. Một số ví dụ bao gồm:

  • Bệnh celiac;
  • Bệnh viêm đường ruột;
  • Xơ nang;
  • Các bệnh về thận.

Bệnh còi xương có thể được di truyền từ bố mẹ sang con cái. Trong những trường hợp này, trẻ cần được chăm sóc y tế đặc biệt.

Nguy cơ mắc phải

Những ai thường mắc bệnh còi xương?

Còi xương rất phổ biến ở các nước đang phát triển và nguy cơ mắc bệnh cao nhất là ở trẻ từ 6-36 tháng tuổi do bé đang trong giai đoạn phát triển. Trẻ em có thể không có đủ lượng vitamin D nếu sống trong khu vực ít ánh sáng mặt trời, ăn chay hoặc không uống sữa.

Những yếu tố nào làm tăng nguy cơ bị còi xương?

Các yếu tố có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh còi xương bao gồm:

  • Da đen – đây là màu da sản xuất ít vitamin D;
  • Mẹ thiếu hụt vitamin D trong lúc mang thai. Trẻ do mẹ bị thiếu vitamin D trầm trọng sinh ra sẽ có thể có dấu hiệu của bệnh hoặc sẽ còi xương trong vòng vài tháng sau khi sinh;
  • Vĩ độ phía Bắc – trẻ em sống ở những nơi có ít ánh nắng mặt trời sẽ có nguy cơ cao mắc bệnh còi xương;
  • Sinh non;
  • Các loại thuốc. Một số loại thuốc chống động kinh và thuốc kháng virus dùng trong điều trị nhiễm HIV sẽ tác động vào khả năng sử dụng vitamin D của cơ thể;
  • Bé chỉ bú sữa mẹ. Sữa mẹ không có đủ vitamin D để ngăn ngừa bệnh còi xương. Vì vậy, những em bé này nên được sử dụng vitamin D bổ sung;
  • Thiếu canxi. Trẻ còi xương thường nhận ít hơn 300 mg canxi mỗi ngày [khoảng một ly sữa]. Trẻ em đang phát triển hàng ngày cần từ 400 mg [trẻ sơ sinh] đến 1500 mg [thanh thiếu niên trong giai đoạn dậy vị thành niên] canxi để xương phát triển tốt;
  • Ăn kiêng. Con nuôi ở nước ngoài hoặc các trẻ em trải qua nghèo đói đôi khi sẽ mắc còi xương do từng có chế độ ăn uống thiếu chất.

Nếu không điều trị, bệnh còi xương có thể dẫn đến:

  • Chậm phát triển;
  • Cột sống cong bất thường;
  • Dị tật xương;
  • Khiếm khuyết nha khoa;
  • Động kinh.

Điều trị hiệu quả

Những thông tin được cung cấp không thể thay thế cho lời khuyên của các chuyên viên y tế, vậy nên tốt nhất là bạn hãy tham khảo ý kiến bác sĩ.

Những kỹ thuật y tế nào dùng để chẩn đoán bệnh còi xương?

Bác sĩ sẽ chẩn đoán bệnh bằng cách kiểm tra xương của bé. Họ sẽ đặc biệt chú ý đến:

  • Hộp sọ. Những em bé còi xương thường có xương sọ mềm hơn và chậm trễ trong việc đóng thóp;
  • Chân. Trẻ phát triển bình thường đôi khi vẫn có tình trạng chân vòng kiềng nhẹ. Đối với trẻ còi xương thì tình trạng này xảy ra nặng hơn;
  • Ngực. Một số trẻ em còi xương có lồng ngực phát triển bất thường như không có độ cong bình thường và làm cho xương ức của bé nhô ra;
  • Cổ tay và mắt cá chân. Trẻ em còi xương thường có cổ tay và mắt cá chân to hơn hoặc dày hơn bình thường;

Các xét nghiệm khác được sử dụng để giúp chẩn đoán bệnh còi xương bao gồm X-quang, máu và xét nghiệm nước tiểu.

Bạn cần chắc chắn bé có đủ vitamin D từ thực phẩm hoặc ánh sáng mặt trời. Nếu không, bé cần phải bổ sung vitamin D trong quá trình điều trị. Con bạn sẽ nhận được 1000-2000 đơn vị quốc tế [IU] vitamin D mỗi ngày. Đôi khi, bé có thể nhận lượng vitamin D cao hơn nhiều theo sự chăm sóc của bác sĩ. Lượng canxi cần thiết là 1000-1500 mg/ngày, có thể là từ thực phẩm giàu canxi hoặc do bổ sung.

Trẻ em bị còi xương di truyền thường được chuyên gia về hormone [nội tiết] điều trị.

Chế độ sinh hoạt phù hợp

Những thói quen sinh hoạt nào giúp bạn hạn chế diễn tiến của bệnh còi xương?

Để ngăn ngừa bệnh còi xương, bạn cần đảm bảo trẻ ăn thức ăn có chứa vitamin D hoặc đã được bổ sung vitamin D, chẳng hạn như:

  • Dầu cá;
  • Cá béo [cá hồi, cá mòi, cá ngừ];
  • Nấm hương;
  • Lòng đỏ trứng;
  • Sữa bột cho trẻ sơ sinh;
  • Ngũ cốc;
  • Bánh mì;
  • Sữa, nhưng không phải thực phẩm làm từ sữa như sữa chua và phô mai;
  • Nước cam.

Nếu bạn đang mang thai, hãy hỏi ý kiến bác sĩ về việc uống bổ sung vitamin D.

Sữa mẹ chỉ chứa một lượng nhỏ vitamin D, vì vậy bé bú sữa mẹ nên được bổ sung 400 đơn vị quốc tế [IU] vitamin D hàng ngày. Học viện bác sĩ nhi khoa Hoa Kỳ đề nghị rằng trẻ bú sữa mẹ hay những trẻ uống ít hơn 1lít sữa công thức nên bổ sung bằng cách uống vitamin D.

Tắm nắng là nguồn cung cấp vitamin D tốt nhất cho bé. Làn da sản xuất ra vitamin D khi nó tiếp xúc với ánh sáng mặt trời. Khi bạn cho bé tắm nắng, hãy nhớ mặc quần áo bảo hộ hoặc thoa kem chống nắng cho con mình. Tuy nhiên, kem chống nắng cũng có thể ngăn ánh sáng mặt trời, nên tốt nhất bạn hãy cho bé tắm nắng trước 7 giờ sáng.

Nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ để được tư vấn phương pháp hỗ trợ điều trị tốt nhất.

Các bài viết của Hello Bacsi chỉ có tính chất tham khảo, không thay thế cho việc chẩn đoán hoặc điều trị y khoa.

Video liên quan

Chủ Đề