Vai trò của sinh viên trong giáo dục đại học theo tín chỉ

Sau bài viết “Không dạy - học bậc trung học phổ thông theo tín chỉ, đổi mới còn nửa vời” của tác giả Lê Minh đã nêu quan điểm nên thí điểm dạy học theo tín chỉ ở bậc học từ trung học cơ sở trở lên để hạn chế những bất cập của chương trình hiện hành.

Đây là một ý kiến rất hay, rất đáng được nghiên cứu một cách toàn diện trong thời gian tới vì những lợi ích tích cực của việc dạy học theo tín chỉ mà tác giả Lê Minh đã nêu ra trong bài viết.

Dạy học theo tín chỉ là gì?

Hiện nay, việc học theo tín chỉ được thực hiện ở bậc đại học, qua quá trình dạy học nhiều năm đã cho thấy hình thức dạy học theo tín chỉ là hợp lý.

Nhờ học tập theo tín chỉ sinh viên được linh hoạt đăng ký môn học, linh hoạt đăng ký thời gian tốt nghiệp, sinh viên giỏi rút ngắn thời gian học tập, giảm chi phí trong học tập,…

Việc dạy và học theo tín chỉ sẽ giúp nâng cao hiệu quả giảng dạy và tư duy sáng tạo của sinh viên. Đối với hình thức này người học tự học, tự nghiên cứu, giảm sự nhồi nhét kiến thức của người dạy, và do đó, phát huy được tính chủ động, sáng tạo của người học.

Phương pháp đào tạo theo hệ thống tín chỉ hay gọi tắt là Hệ thống tín chỉ là một phương thức đào tạo tiên tiến trong nền giáo dục của nhiều quốc gia trên thế giới.

Nó còn được gọi là học chế tín chỉ để phân biệt với các phương pháp đào tạo ra đời trước nó như học chế niên chế, học chế học phần. Trên thế giới phương pháp này được áp dụng ở cả giáo dục phổ thông và giáo dục đại học.

Tại Việt Nam, một tín chỉ được quy định bằng 15 tiết học lý thuyết; 30 - 45 tiết thực hành, thí nghiệm hoặc thảo luận; 45 - 90 giờ thực tập tại cơ sở; 45 - 60 giờ làm tiểu luận, bài tập lớn hoặc đồ án, khoá luận tốt nghiệp.

Đối với những học phần lý thuyết hoặc thực hành, thí nghiệm, để tiếp thu được một tín chỉ sinh viên phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị cá nhân.

Ý kiến đề nghị thí điểm cho học sinh học theo tín chỉ là một ý kiến hay. [Ảnh minh hoạ: Lã Tiến]

Hiệu trưởng các trường quy định cụ thể số tiết, số giờ đối với từng học phần cho phù hợp với đặc điểm của trường. Đối với những chương trình, khối lượng của từng học phần đã được tính theo đơn vị học trình, thì 1,5 đơn vị học trình được quy đổi thành 1 tín chỉ. Một tiết học được tính bằng 50 phút.

Trước đây cũng có một số luồng ý kiến khác nhau về việc đưa việc đào tạo theo tín chỉ cho học sinh từ trung học cơ sở trở lên [từ lớp 6 trở lên] để áp dụng cái ưu việt của việc học theo tín chỉ thành công của bậc tiểu học, hạn chế những thiếu sót của việc đào tạo hiện hành.

Học sinh học không đạt một vài môn phải học lại tất cả các môn là quá vô lý

Bất cập lớn nhất của việc đánh giá theo chương trình hiện hành chính là việc học sinh học yếu một vài môn phải ở lại lớp và điều này có nghĩa là học sinh phải học lại tất cả các môn học của lớp đó trong đó có các môn học sinh học rất tốt nhưng vẫn phải học lại.

Ví dụ một học sinh lớp 8 học khá, tốt gần như các môn, trong đó chỉ có một môn Địa lý em học rất yếu, học không thể tiếp thu được, nếu cuối năm em đó đạt điểm trung bình môn dưới 2,0 thì em đó phải ở lại hẳn hoặc từ 2,0 đến 3,4 thì em phải thi lại, nếu thi lại không đạt thì xem như em phải ở lại, phải học lại cả năm lớp 8, học lại các môn mà năm học trước có môn em đó đạt 9.0, 8.0,… và phải tốn một thời gian học lại là cả năm học, vô cùng bất cập, vô lý.

Đó chính là điều vô lý của việc đánh giá theo Thông tư 26/2020 sửa đổi, bổ sung Thông tư 58/2011 đánh giá xếp loại học sinh phổ thông hiện nay.

Chương trình hiện hành một môn học phải học cả năm học điều này làm học sinh học trước quên sau. Trong một tuần có rất nhiều môn đều này là học sinh không có thời gian đào sâu kiến thức, và phát sinh nạn dạy thêm tràn lan.

Nên thí điểm dạy học theo tín chỉ từ lớp 6


Lấy tín chỉ đại học ngay từ bậc Trung học phổ thông

Đồng quan điểm với tác giả Lê Minh, theo cá nhân tôi, ở khối 6-9 và 10-12 nên tổ chức thí điểm cho học sinh học theo tín chỉ ở một số trường có điều kiện.

Hiện nay, việc học theo tín chỉ đã được tổ chức ở các trường đại học tuy nhiên ở phổ thông ở nước ta chưa tổ chức dạy học theo hình thức này. Dạy học theo tín chỉ có nhiều lợi ích.

Chương trình giáo dục theo tín chỉ sẽ phù hợp với nhu cầu của tất cả học sinh. Học sinh được lựa chọn các môn học mà mình yêu thích để theo học [bên cạnh những môn bắt buộc].

Tùy theo học lực của mỗi học sinh các em sẽ được lựa chọn học bao nhiêu môn trong một học kỳ, nếu học sinh có học lực tốt thì có thể tốt nghiệp sớm để lên học chương trình cao hơn.

Nếu em có học lực yếu có thể kết thúc muộn hơn.

Học tín chỉ không có khái niệm ở lại lớp như hiện tại, cũng không có khái niệm học sinh “ngồi nhầm lớp” gây bức xúc gần đây.

Học sinh học yếu môn nào sẽ phải học lại môn đó các môn đã đạt rồi thì không cần học lại.

Như trường hợp ví dụ ở trên, học sinh lớp 8 trên chỉ có một môn Địa lý không đạt thì em vẫn được tiếp tục học lên lớp 9, tuy nhiên đối với tín chỉ môn địa em phải học hoàn thành số tín chỉ của lớp 8 cho đạt thì mới được học tín chỉ môn Địa lý lớp 9 [nếu nó có liên thông, còn nếu không liên thông thì vẫn có thể cho học sinh học tín chỉ Địa lý 9 dù vẫn chưa đạt Địa lý 8], do đó học sinh học yếu có thể tốt nghiệp muộn hơn, nhưng học lại thì chỉ học môn đó mà không phải học lại tất cả các môn.

Việc học sinh chưa đạt môn học nào đó chỉ được xem là điều kiện để được cấp chứng nhận hoàn thành bậc trung học cơ sở, trung học phổ thông.

Nếu các em đã hoàn thành hết các bộ môn ở lớp 9, 12 tuy nhiên vẫn còn nợ môn nào thì phải hoàn thành học môn đó để có thể cấp giấy chứng nhận hoàn thành chương trình. Việc cấp giấy chứng nhận này do hiệu trưởng cấp và được cấp linh hoạt.

Nếu học theo tín chỉ thì học sinh chỉ cần lại thời gian chỉ ngắn, nếu học theo chương trình hiện hành thì học sinh phải học lại cả năm, vì mỗi tuần học chỉ học 1,2 tiết, trong khi học theo tín chỉ là học liên tục hết học phần môn này sẽ được học học phần môn khác.

Tôi cho đây là việc đổi mới rất hay, tiến bộ, một số nước có nền giáo dục tiến bộ đã áp dụng và có hiệu quả từ bậc phổ thông.

Học sinh học tốt có thể học vượt và ra trường sớm. Việc tốt nghiệp sớm hay muộn phụ thuộc vào sức học của học sinh.

Cũng sẽ hạn chế tối đa việc giáo viên dùng quyền o ép để dạy thêm, vì học sinh có thể lựa chọn được học với giáo viên khác hoặc học lại học phần đó với giáo viên khác miễn sao việc kiểm tra đủ điều kiện để kết thúc học phần, đạt yêu cầu tín chỉ.

Dạy học theo tín chỉ yêu cầu người học phải có tinh thần tự học cao. Thời gian lên lớp rút ngắn học sinh có điều kiện tự học, có điều kiện tham gia rèn luyện thể lực, sinh hoạt đoàn hội phát triển kỹ năng sống cho học sinh.

Dạy học theo tín chỉ học sinh được lựa chọn môn học được lựa chọn giáo viên. Điều này tạo áp lực giáo viên phải không ngừng học tập, đổi mới phương pháp, rèn luyện chuyên môn để thu hút học sinh học lớp của mình.

Học theo tín chỉ thì kiến thức học sinh sẽ được tích lũy qua các môn học. Việc đánh giá học sinh dựa trên điểm tích lũy cả quá trình học điều này giúp đánh giá tốt học lựa của người học. Không có việc phân biệt giữa môn chính môn phụ, việc học theo tín chỉ giúp phân hóa học sinh tốt hơn.

Nếu việc dạy học theo tín chỉ được nghiên cứu và triển khai thí điểm là rất tốt, nếu chưa thực hiện được rất mong Bộ Giáo dục và Đào tạo sửa đổi quy định về điều kiện lên lớp nếu học sinh học yếu chỉ 1 và môn mà phải học lại tất cả các môn. Chỉ nên quy định học sinh học yếu, chưa đạt môn nào phải được học bổ sung kiến thức của môn đó [hình thức tập trung, trực tuyến hoặc tự học].

Ý kiến về dạy học theo tín chỉ ở bậc phổ thông là một quan điểm mới. Thông qua bài viết, tác giả rất mong nhận được sự đóng góp, trao đổi của các thầy công đồng nghiệp và bạn đọc xa gần ngõ hầu làm sáng tỏ những lợi ích cũng như khó khăn, giải pháp khi tổ chức dạy học theo tín chỉ ở bậc phổ thông.

Mọi thư từ đóng góp xin được gửi về địa chỉ email .

BÙI NAM

1 VAI TRÒ CỦA GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC KHI ÁP DỤNG HỌC CHẾ TÍN CHỈ Thạc sỹ Nguyễn Tường Dũng Phó khoa Kỹ thuật-Công nghệ Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương đã áp dụng học chế tín chỉ từ năm học 2010-2011. Việc thực hiện học chế tín chỉ tại trường nhằm mục đích xây dựng một hệ thống giáo dục dựa trên mục tiêu học tập, đặt trọng tâm vào việc học tập của sinh viên thông qua việc xây dựng một chương trình đào tạo linh hoạt, minh bạch, có thể chuyển đổi và so sánh được, và kết quả đào tạo có khả năng đáp ứng tốt nhu cầu của xã hội. Giảng viên trường Đại học KT-KT Bình Dương giảng dạy theo phương pháp hiện đại. Thông qua hệ thống tín chỉ, nhà trường và sinh viên sẽ có sự linh hoạt nhiều hơn trong nội dung học tập, việc cập nhật nội dung chương trình đào tạo nhanh chóng và dễ dàng hơn bằng cách cho phép sinh viên có thể thay đổi môn học, và cho phép nhà trường nhanh chóng điều chỉnh số sinh viên theo từng ngành đào tạo. Mục đích sau cùng của việc đào tạo theo tín chỉ của trường là nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội. Trong nền kinh tế tri thức hiện nay, yêu cầu về chuyên môn của lực lượng lao động thay đổi rất nhanh, bất cứ kiến thức và kỹ năng cụ thể nào mà sinh viên đạt được trong trường đại học cũng đều có thể nhanh chóng trở nên lạc hậu. Chính vì vậy trách nhiệm của giảng viên là thay vì dành hết thời gian đi vào các nội dung chi tiết cụ thể, cần dành thời gian dạy cho sinh viên cách “học để biết cách học” cũng như trang bị cho họ các “kỹ năng mềm” mà bất cứ môi trường làm việc nào cũng đòi hỏi như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng giải quyết vấn đề, biết nghiên cứu để tự tìm câu trả lời Muốn như vậy, giảng viên phải đặt trọng tâm vào việc học tập của sinh viên, sao 2 cho việc học tập này được tiến hành liên tục, có một ý nghĩa quan trọng đáng kể đối với sinh viên và tạo ra những ảnh hưởng tích cực đối với cách suy nghĩ, cảm xúc và hành động của họ. Tuy nhiên, việc áp dụng học chế tín cũng là một quá trình đầy gian khổ, chứ không đơn giản là chỉ giảm bớt số giờ học tại lớp. Bài viết này sẽ trình bày vai trò của giảng viên và những khó khăn khi họ gặp phải cùng các đề xuất khi áp dụng học chế tín chỉ. 1. Vai trò của giảng viên khi áp dụng học chế tín chỉ: Theo Glassick, Huber và Maeroff [1997] thì khi áp dụng học chế tín chỉ, các giảng viên sẽ đóng vai trò như những học giả. Ngoài thời gian lên lớp, giảng viên phải:  Viết đề cương bài giảng.  Thiết kế các hoạt động học tập, bài tập và bài kiểm tra.  Chấm bài và cho điểm sinh viên.  Cập nhật tư liệu nghiên cứu cho môn học.  Cập nhật những kiến thức mới trong lĩnh vực chuyên ngành của mình.  Có mặt tại văn phòng trong một số giờ nhất định để tiếp sinh viên khi họ cần giúp đỡ. Do vậy việc thực hiện học chế tín chỉ đòi hỏi giảng viên phải mất từ 2 đến 3 giờ để chuẩn bị cho một giờ lên lớp cũng như sinh viên phải tự học từ 2 đến 3 giờ cho mỗi giờ học trên lớp. 2. Các khó khăn của giảng viên khi áp dụng học chế tín chỉ và các giải pháp đề xuất: Có rất nhiều khó khăn và thách thức cho giảng viên khi áp dụng học chế tín chỉ cho nên nhà trường cần có những giải pháp thích hợp thì việc áp dụng học chế tín chỉ mới mang lại hiệu quả như mong muốn:  Giảng viên do muốn có thu nhập cao hơn nên thường phải làm nhiều việc khác nhau vì vậy họ có ít thời gian để chuẩn bị bài giảng, cho các hoạt động đánh giá và phát triển chuyên môn khi áp dụng học chế tín chỉ. Để giảng viên toàn tâm cho việc giảng dạy, nhà trường cần có chính sách hợp lý về tiền lương, chế độ đãi ngộ, khen thưởng các giảng viên giảng dạy theo chế độ tín chỉ.  Việc thiếu không gian và phương tiện dạy học cũng là một trở ngại lớn cho giảng viên nhưng chính việc không được đào tạo đầy đủ, không được hỗ trợ và khen thưởng kịp thời mới chính là trở ngại cho giảng viên khi áp dụng học chế tín chỉ. Nhà trường 3 cần tạo điều kiện và ủng hộ những bước phát triển này của giảng viên và kịp thời khen thưởng cho những người áp dụng được những phương pháp giảng dạy tốt nhất.  Hiện nay phần lớn các giảng viên không những chưa giỏi về kỹ năng kỹ thuật của mình mà còn yếu về phương pháp giảng dạy mới. Để có một đội ngũ giảng viên giỏi, có tri thức tốt biết cách đào tạo cho sinh viên từ chỗ học vẹt đến chỗ học cách giải quyết vấn đề và có tinh thần dám nghĩ dám làm, chấp nhận rủi ro và thử thách thì nhà trường phải xác định những phương cách tốt nhất để thúc đẩy văn hóa học tập suốt đời trong đội ngũ giảng viên. Các giảng viên phải tự xây dựng kế hoạch nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của mình, và nhà trường có thể dùng những kế hoạch này để tổ chức các hội thảo, tập huấn có hoặc không có các chuyên gia tham dự nhằm giúp nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên.  Đa số các giảng viên thường không thích phải thay đổi phương pháp giảng dạy, học tập và đánh giá vì lo tăng thời gian chuẩn bị, sợ lớp học đông, sợ thiếu các nguồn lực và phương tiện hỗ trợ, và sợ cả những rủi ro cá nhân. Hơn nữa, do cả giảng viên và sinh viên đều được đào tạo trên một nền tảng dựa trên mô hình giảng dạy theo kiểu diễn giảng, coi trọng việc học thuộc lòng và kết quả sinh viên hầu như không có khả năng sáng tạo, suy nghĩ độc lập. Nhà trường cần phải hỗ trợ giảng viên trong việc áp dụng những phương pháp mới trong giảng dạy, học tập và đánh giá. 3. Kết luận Rõ ràng là học chế tín chỉ có thể mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho trường Đại học Kinh tế- Kỹ thuật Bình Dương, nhưng nó cũng đòi hỏi sự thay đổi sâu sắc về cách thức quản lý điều hành của nhà trường, các khoa và bộ môn, cũng như đòi hỏi phải nâng cao chất lượng của hệ thống đánh giá. Do đó việc chuyển đổi sang học chế tín chỉ của trường là một quá trình lâu dài, cần giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề liên quan đến tổ chức, tài chính, chương trình, đội ngũ giảng viên…. Một trong những trọng tâm của trường Đại học kinh tế- Kỹ thuật Bình Dương khi áp dụng học chế tín chỉ là luôn quan tâm đến việc xây dựng một đội ngũ giảng viên ưu tú [qua đó củng cố uy tín và nâng cao chất lượng đào tạo của trường] thông qua việc xây dựng chính sách thu hút nhân tài, tạo điều kiện cho các giảng viên tự học nâng cao trình độ, mở các khóa bồi dưỡng về sư phạm do các chuyên gia trong và ngoài nước trình, có các chính sách thích hợp để hỗ trợ và khen thưởng cho giảng viên một cách tương xứng với khối lượng công việc và công sức của họ. 4 Với những nhà lãnh đạo tâm huyết, có tầm nhìn xa cùng một đội ngũ giảng viên giỏi, yêu nghề, đầy trách nhiệm, chắc chắn trong tương lai gần trường Đại học Kinh tế- Kỹ thuật Bình Dương sẽ áp dụng thành công học chế tín chỉ để đưa trường lên những thành công mới và tầm vóc cao hơn. Tài liệu tham khảo 1. Barrow, C.W. [1990]. Universities and the Capitalist State: Corporate Liberalism and the Reconstruction of American Higher Education, 1894–1928. Madison: University of Wisconsin Press. 2. Dietrich, G. [1955]. The emergence of the credit system in American education considered as a problem of social and intellectual history. American Association of University Professors Bulletin, 41, 650. 3. Shedd, J.M. [2003]. New Directions for Higher Education,122, Sum. Wiley Periodicals, Inc. Merriam-Webster. [2008]. On-line dictionary. Accessed June 7, 2008: //www.merriam-webster.com/ 4. Zjhra, M. [2008]. A Shift in the Credit-based system: Necessary Changes in Curriculum and the Role of the Teachers. Powerpoint presentation given at various universities in Vietnam during 2008.

Video liên quan

Chủ Đề