Vùng biển phía Đông của Việt Nam còn có tên gọi khác như thế nào ở Việt Nam

秋月照西河,

沙石化成金玉聚,

春星射東海,

風濤亂湧寳珠來

[Tạm dịch: Thu nguyệt chiếu Tây Hà, sa thạch hóa thành kim ngọc tụ, xuân tinh xạ Đông Hải, phong đào loạn dũng bửu châu lai]

Câu văn trên, của Thích Đại Sán [Hải ngoại kỷ sự, quyển 1] có thể hiểu là “Trăng thu rạng rỡ Tây Hà [sông Hương], vàng ngọc tụ hội từ cát đá chuyển mình, sao xuân lấp lánh Đông Hải, châu báu theo về trong sóng gió ầm ào”.

Vào đầu năm 1695, tăng nhân Trung Hoa Thích Đại Sán từ Quảng Đông đến Huế đã viết như vậy trong bài Khải dâng lên Chúa Nguyễn nhân mới đến đất Nam Hà, ca ngợi sự giàu có nơi thủ phủ nhà Chúa cũng như tiềm lực của vùng biển nhiều phong ba bão táp.

Tác giả đã dùng từ “Đông Hải” để chỉ Biển Đông và từ “Tây Hà” để chỉ con sông phía tây kinh thành Huế. Người Trung Hoa gọi Đông Hải nhằm chỉ vùng biển phía đông Đại Việt không phải bắt đầu từ Thích Đại Sán, mà từ nhiều quan chức ngoại giao Trung Hoa, với những ghi chép về hải ngoại hồi triều Minh, tức trước Hải ngoại kỷ sự hơn trăm năm.

Trong thư tịch cổ Trung Hoa, tên Đông Hải vốn để chỉ vùng biển phía đông Sơn Đông - Giang Tô, nay gọi là Hoàng Hải; sau thời Minh, chỉ vùng biển từ bắc cửa sông Trường Giang đến đảo Nam Áo [Quảng Đông], cũng có khi với nghĩa rộng hơn là chỉ toàn vùng biển phía đông Trung Hoa.

Tuy nhiên, các quan chức ngoại giao Trung Hoa thời Minh còn dùng từ Đông Hải cho một không gian địa lý khác, tức gọi vùng biển phía đông Đại Việt. Điều này có thể thấy trong Thù vực chu tư lục [1574], Tứ di quảng ký [1598]; và về sau là một vài sách thuộc loại bách khoa thư, chuyên thư như Tam tài đồ hội [1607], Võ bị chí [1619], An Nam chí [thời Minh].

Dùng tên Đông Hải để chỉ Biển Đông [Việt Nam] sớm có lẽ do người ở Hành nhân ty [tức bộ ngoại giao] là Hành nhân Cấp sự trung Nghiêm Tòng Giản trong bộ sách Thù vực chu tư lục [Tập lục tư liệu các nước khác]. 

Sách này, trong quyển 6 chép về nước An Nam và quyển 7 chép về nước Chiêm Thành đã viết: “Biên cảnh [An Nam], phía đông 320 dặm đến Đông Hải”, và “biên cảnh [Chiêm Thành], phía đông đến Đông Hải”.

Thông tin về tên gọi Đông Hải trong Thù vực chu tư lục vài chục năm sau còn được Thận Mậu Thưởng lặp lại trong phần Hải quốc quảng ký [Ghi chép rộng về các nước trên biển] của bộ Tứ di quảng ký [Chép rộng về người di bốn phương], tác giả là quan chức ở Tứ di quán [cơ quan phiên dịch và nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số cùng một số nước hải ngoại]. Trong phần viết về cương giới An Nam, Hải quốc quảng ký xác định phía đông là biển Đông Hải; còn ở phần viết về cương giới Chiêm Thành, xác định phía đông Chiêm Thành là Đông Hải và phía bắc là Giao Chỉ Đại Hải.

Ngoài hai sách trên, còn thấy bộ bách khoa thư về quân sự Võ bị chí do Mao Nguyên Nghi biên soạn, liên quan đến vấn đề phòng thủ trên biển mà sách này khảo sát khá nhiều về các nước xung quanh, trong phần Tứ di, quyển 236 viết: “Chân Lạp vốn là thuộc quốc của Phù Nam, còn có tên Chiêm Lạp, ở trong Đông Hải”. 

Hay như bộ loại thư [bách khoa môn loại] Tam tài đồ hội của Vương Kỳ, loại Địa lý quyển 13, mục Nam di viết: “Chiêm Thành bên Đông Hải, tây là Vân Nam, nam là Chân Lạp, bắc là An Nam, đông bắc là Quảng Đông”. 

Cũng phải kể đến sách An Nam chí của Cao Hùng Trưng, tuy thành sách thời Thanh nhưng bối cảnh thuộc thời Minh, là loại sách địa dư chí mang tính kế thừa, trong quyển 2, mục Cảnh vật có kể đến núi Yên Tử, mô tả: “Núi ở châu Đông Triều, cao ngất tầng không, chạy xa đến tận Đông Hải, ít dấu chân người”.

Gọi tên Đông Hải sớm hơn các quan chức ngoại giao nhà Minh độ trăm năm có lẽ là văn thần Đại Việt Nguyễn Trãi. Trong Lời bố cáo dẹp xong giặc Ngô [Bình Ngô đại cáo, nếu gọi đúng sử kiện là Bình Minh đại cáo, 1427], Nguyễn Trãi viết: “Quyết Đông Hải chi thủy bất túc dĩ trạc kỳ ô” [Dốc cạn nước Đông Hải không đủ để rửa dơ].

Trong việc định danh, các sử liệu Trung Hoa nêu trên đều viết rất rõ “đông chí Đông Hải” [đông đến Đông Hải], tức coi đó như địa danh, khác với Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí - Dư địa chí viết “đông để hải” [đông đến biển], còn trong Hoàng Việt địa dư chí [cả hai bản in 1833 và 1907] thì viết “đông lâm đại hải” [đông đến biển lớn]. 

Cũng nói luôn về cách dẫn tư liệu nguồn không đúng đối với trường hợp Hoàng Việt địa dư chí trong mục từ “Biển Đông” trên Wikipedia.

Khi nói đến Đông Hải như một mục từ, thấy cũng cần bàn thêm vài điều trong lĩnh vực nghiên cứu hải ngoại của một số học giả Trung Hoa hiện nay. Trong Cổ đại Nam Hải địa danh hối thích [Thu thập rộng và chú giải địa danh cổ đại vùng Nam Hải] xuất bản năm 1986 [tái bản 2000], bộ sách được cơ cấu theo hình thức từ điển địa danh, đối tượng thu thập gồm tất cả địa danh hải ngoại từng được chép trong thư tịch cổ. 

Đây là công trình có ảnh hưởng đáng kể với học giới trong và ngoài Trung Hoa trong việc giải mã ghi chép cổ về khu vực Đông Nam Á và châu Phi. Tuy nhiên, các tác giả sách trên hình như đã né tránh không nhập từ “Đông Hải” với nghĩa rất rõ là chỉ vùng biển phía đông Giao Chỉ và Chiêm Thành [tức Biển Đông Việt Nam ngày nay].

Mặc dù tên “Đông Hải” chỉ xuất hiện trong một số sách thời Minh, nhưng địa danh này thật sự phù hợp với tiêu chí “hối thích” [thu thập rộng và chú giải], nên đúng ra “Đông Hải” phải được lập mục từ [tương tự như các mục từ Đông Nam Hải, Tây Nam Hải, Đông Nam Dương, Tây Nam Dương, Nam Dương…]. 

Thiếu sót này khó thể nói do sơ suất trong thu thập tư liệu nguồn, bởi trong sách này đã dùng đủ những bộ sách Thù vực chu tư lục, Tứ di quảng ký, Tam tài đồ hội, Võ bị chí, Hải ngoại kỷ sự, An Nam chí kể trên để trích lục và trưng dẫn gần như toàn bộ các địa danh ngoài Trung Hoa có ghi nhận. 

Căn cứ trên nhiều yếu tố, có thể thấy rằng các tác giả Cổ đại Nam Hải địa danh hối thích không phải do sơ suất mà đã cố tình né tránh không nhập từ “Đông Hải” với ý chỉ Biển Đông Việt Nam.

Người Việt từng gọi Biển Đông từ cửa miệng lâu đời, nhưng đối với những trường hợp dùng tên Đông Hải để ghi chép trong sử sách Trung Hoa có vẻ khá đặc biệt, vì chúng thể hiện sự đúng đắn trong cách gọi phù hợp với tiêu chí lấy quốc gia tiếp giáp vùng biển làm chuẩn, cũng là cách gọi theo đúng cách mà chủ thể đã gọi.■

[Trích từ bản thảo Địa danh trên Biển Đông trong thư tịch cổ Trung Hoa]

 

 Bản đồ cổ của Bồ Đào Nha về khu vực Đông Nam Á. Ảnh: architectureofbuddhism.com

Tên biển Hoa Nam, hay Nam Hải [South China Sea] xuất hiện khá muộn, do giới hàng hải phương Tây muốn tìm đường đi từ châu Âu và Nam Á sang Trung Quốc đặt. Tới thế kỷ 16, các thủy thủ Bồ Đào Nha gọi Biển Đông là biển Trung Hoa [Mare da China]; rồi sau đó để phân biệt với các vùng biển khác xung quanh Trung Quốc, mới gọi nó là biển Hoa Nam. 

Trong thời Đông Hán [22 - 220], giới cai trị Trung Quốc gọi Biển Đông là Trướng Hải [biển dâng cao] hoặc Phí Hải [biển động], cũng là những tên gọi phổ biến thời Nam - Bắc triều [386 - 589]. Tên Nam Hải chỉ thực sự trở nên phổ thông từ thời Thanh [1639 - 1912], theo Hoa Lâm Phủ, Tráp đồ bản Trung Quốc địa danh sử thoại [Tề Lỗ thư xã, 2006].

Ở Đông Nam Á, Biển Đông từng được gọi là biển Champa, theo tên vương quốc hàng hải Champa từng rất phát triển ở vùng Trung bộ Việt Nam cho tới thế kỷ 16. Trong Thế chiến II, phần lớn Biển Đông do Nhật Bản kiểm soát sau khi Đế quốc Nhật chiếm được các lãnh thổ Đông Nam Á xung quanh vào năm 1941. 

Nhật Bản gọi Biển Đông là Minami Shina Kai [Nam Chi Na Hải] cho tới năm 2004, khi Bộ Ngoại giao và các cơ quan Nhật Bản khác chuyển sang gọi vùng biển này là Nam Hải. Philippines gọi biển này là biển Tây Philippines, quyết định được chính thức hóa bởi sắc lệnh hành chính số 29 tháng 9-2012, ban hành dưới thời Tổng thống Benigno Aquino III.

Tháng 7-2017, để xác lập chủ quyền, Indonesia đặt tên cho vùng biển thuộc khu vực đặc quyền kinh tế phía bắc của nước này [tức phía nam Biển Đông] là biển Bắc Natuna, nằm ở phía bắc quần đảo Natuna. Indonesia cũng gọi vùng biển nằm giữa quần đảo Natuna và các quần đảo Lingga và Tambelan là biển Natuna.

Đề xuất đổi tên quốc tế của Biển Đông thành biển Đông Nam Á trên trang Change.org - Ảnh chụp màn hình

Điều đáng báo động là tên gọi “South China Sea” [biển nam Trung Quốc - Nam Hải] dành cho Biển Đông, vốn được nhiều người sử dụng từ trước đến nay, lại đang bị hiểu lầm và bị lợi dụng xuyên tạc.

Chủ quyền Biển Đông bị xuyên tạc trắng trợn

Tư lệnh Hạm đội Bắc Hải của Trung Quốc, Phó Đô đốc Viên Dự Bách hồi tháng 9-2015 đã gây sốc khi ngang nhiên tuyên bố “South China Sea [Biển Đông] phải là của Trung Quốc [China] bởi cái tên của nó đã chỉ ra tất cả [!?]”.

Đối với nhiều người, các luận điệu xuyên tạc và yêu sách của Bắc Kinh trên Biển Đông vốn đã là điều phi lý. Nhưng điều nực cười hơn nữa là một quan chức quân đội cấp cao như Tư lệnh Viên lại không biết gì về nguồn gốc tên gọi thật sự của tên gọi “South China Sea”, rồi vơ vào và nhận xét xằng bậy.

Tạp chí Times trong một bài phản bác sau đó đã viết rằng, không còn từ nào để diễn tả được sự vô lý trong tuyên bố đó. Bởi nếu nói theo cách của Trung Quốc thì Ấn Độ Dương đã là đại dương của Ấn Độ, vịnh Mexico thì thuộc về Mexico chỉ đơn giản là vì… tên gọi của chúng.

Có lẽ Phó Đô đốc Viên đã không biết được rằng, chính tổ tiên Trung Quốc từ xa xưa đã gọi Biển Đông ngày nay là “Giao Chỉ dương” [biển của người Giao Chỉ - Việt Nam] trong các thư tịch cổ từ trước thời nhà Hán. Và nếu dựa theo lập luận của ông Viên, thì Việt Nam đã có chủ quyền với Biển Đông ngay từ thời nước ta còn được gọi là Giao Chỉ, thời trước công nguyên.

Nhưng Việt Nam đã không làm vậy, chúng ta hiểu rõ tên gọi “South China Sea” bắt nguồn từ đâu và chúng ta có đầy đủ bằng chứng pháp lý, lịch sử để chứng minh cho chủ quyền đó chứ không phải chỉ dựa vào tên gọi để đòi chủ quyền.

Quay trở lại thế kỷ 19, giao thương đường biển giữa Trung Quốc và các nước phương Tây trở nên nhộn nhịp. Theo Wall Street Journal, sau 1800, cái tên “China sea” được dùng chung chung trong các bản đồ phương Tây để chỉ vùng biển ở gần Trung Quốc, nơi các thương buôn thường đi ngang.

Đến khoảng những năm 1930, “South China Sea” mới được sử dụng để phân biệt với “East China Sea” [biển Hoa Đông] cũng ở gần Trung Quốc, tuyệt nhiên không có ý chỉ các vùng biển này là của người Trung Quốc.

Trước đó, các tàu buôn Ả rập hồi thế kỷ thứ 10 đã dùng tên gọi biển Malay để chỉ vùng biển phía tây nam nằm giữa eo Sumatra và Chiêm Thành [một quốc gia trong lịch sử nằm ở phía nam Việt Nam ngày này]. Tiếp đó, vào đầu thế kỷ 16, các nhà hàng hải Bồ Đào Nha khi lần đầu tiên đến Đông Nam Á đã gọi phần phía tây Biển Đông là biển Chiêm Thành, phần phía đông là biển Luzon [đảo Luzon của Philippines].

Những cách gọi này chỉ đơn thuần là cách đánh dấu của các nhà làm bản đồ và giới thương thuyền phương Tây, hoàn toàn không có hàm ý chủ quyền gì ở đây cả.

Rục rịch các động thái mới

Trang Quartz ngày 22-8 dẫn lời Ahmad Santosa, người đứng đầu cơ quan chống đánh bắt cá trái phép Indonesia tiết lộ, chính quyền Jakarta sẽ sớm trình lên Liên Hiệp Quốc một đề xuất đổi tên vùng đặc quyền kinh tế [EEZ] xung quanh quần đảo Natuna trên Biển Đông thành biển Natuna.

Động thái này được cho là nhằm bảo vệ chủ quyền của Indonesia khỏi “đường lưỡi bò” vô lý của Trung Quốc.

Jakarta không phải là một bên tranh chấp trên Biển Đông, song EEZ của nước này ở Natuna lại bị chồng lấn bởi yêu sách “lưỡi bò” của Trung Quốc. Chính quyền Indonesia cũng đã nhiều lần phải điều tàu ra xua đuổi, bắt giữ các tàu cá và tàu công vụ Trung Quốc hoạt động trái phép trong khu vực.

Trước đó, hồi năm 2012, Philippines cũng chính thức đặt lại tên Biển Đông trên các công văn và bản đồ hành chính ở nước này là “West Philippine Sea” [biển Tây Philippines]. Manila sau đó cũng đệ trình bản đồ hành chính và bản đồ chính thức lên Liên Hiệp Quốc nhưng cái tên “Biển Tây Philippines” không nhận được sự ủng hộ rộng rãi.

Bà Ellen Frost, cố vấn cấp cao tại Trung tâm Đông - Tây [Mỹ] đề xuất, các nước có thể đề nghị đổi tên “South China Sea” thành “South Sea” [biển Nam - PV]. Bởi, nếu đề xuất đổi tên Biển Đông thành “Southeast Asia Sea” [biển Đông Nam Á - PV], Trung Quốc sẽ kịch liệt phản đối vì cho rằng như vậy là tước bỏ chủ quyền [vô lý] của họ.

Nhưng nếu đổi thành “South Sea”, Bắc Kinh sẽ khó phản bác bởi chính họ cũng gọi Biển Đông là Nam Hải, hoàn toàn tương đồng với biển Nam - South Sea.

Loại bỏ từ “China” chỉ là một thay đổi nhỏ song có thể “đóng góp đáng kể cho hòa bình khu vực” - bà Frost nhận định.

Phía Trung Quốc dĩ nhiên không ngồi yên trong tình hình như vậy. Mới đây nhất, ngày 20-8, thời báo Hoàn Cầu của Đảng Cộng sản Trung Quốc loan tin, Chủ tịch Hiệp hội Du lịch Trung Quốc Ngụy Tiểu An đề xuất nên đổi tên tỉnh Hải Nam thành Nam Hải để “nâng cao nhận thức của người dân về Nam Hải và chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc đối với khu vực này”.

Giới học giả Trung Quốc cũng bắt đầu “tung chiêu” trên các diễn đàn, tạp chí quốc tế. Trong bài viết trên tạp chí “National Interest” của Mỹ ngày 23-8, Giáo sư Shiping Tang và Tiến sĩ Seaker Chan thuộc trường Quan hệ Quốc tế và Công vụ, Đại học Phục Đán [Trung Quốc] đã đề xuất hai giải pháp cho tranh chấp giữa Manila và Bắc Kinh trên Biển Đông.

Một là, Trung Quốc và Philippines sẽ cùng khai thác bãi cạn Scarborough, tiến tới thành lập một trạm nghiên cứu sinh thái và trung tâm du lịch ở khu vực. Và giải pháp thứ hai, táo bạo hơn nữa và chưa từng có tiền lệ, Trung Quốc và Philippines cùng chia sẻ chủ quyền đối với bãi cạn Scarborough thay vì cứ tranh cãi nó thuộc về ai.

Hai học giả này lập luận, cách giải quyết thứ hai sẽ tạo ra tiền lệ lịch sử trong quan hệ quốc tế, là bài học kinh nghiệm cho các nước có tranh chấp tương tự. Một khi đã chấp nhận chia sẻ chủ quyền, Bắc Kinh và Manila có thể cùng ngồi lại và giải quyết các vấn đề khác, như quyền đánh bắt cá ở Scarborough.

Mỹ, đồng minh của Philippines, sẽ phải chọn một trong hai cách này. Cả Washington, Manila đều không muốn có chiến tranh với Bắc Kinh, bởi điều đó là cực kì tốn kém và làm tổn hại đến hòa bình, ổn định khu vực.

Có thể thấy được sự nguy hiểm trong cách đưa vấn đề và lập luận của học giả Trung Quốc. Cần nhớ, chính Bắc Kinh đã xua tàu chiếm giữ bãi cạn Scarborough từ Philippines năm 2012 và giờ lại giở trò kêu gọi cùng khai thác tài nguyên, chia sẻ chủ quyền

DUY LINH

Video liên quan

Chủ Đề