Bức tranh tứ bình là gì trong bài việt bắc

Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc do VnDoc biên soạn bám sát thể loại văn nghị luận trong chương trình Ngữ Văn 12 sẽ giúp các em học sinh có thêm tài liệu học tập văn nghị luận, ôn thi học kì.

Bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc

Dàn ý Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc và đoạn thơ bức tranh tứ bình. [Tố Hữu là một nhà thơ lớn có nhiều đóng góp quan trọng cho nền văn học nước nhà. Một trong những sáng tác nổi tiếng của ông là bài thơ Việt Bắc, tiêu biểu là đoạn thơ bức tranh tứ bình]

2. Thân bài

Ta về, mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người

2 câu thơ đầu người ra đi khẳng định mình luôn nhớ về thiên nhiên và con người Việt Bắc.

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Mùa đông: “hoa chuối đỏ tươi” tô điểm cho khu rừng xanh, hòa vào đó là ánh nắng vàng làm cho bức tranh mùa đông của Việt Bắc thêm hài hòa màu sắc.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Mùa xuân: “mơ nở trắng rừng” mùa xuân Việt Bắc đặc trăng là màu trắng tinh khiết của của rừng hoa mơ, giữa khung cảnh thơ mộng ấy là hình ảnh con người cần mẫn, tỉ mỉ, khéo léo chuốt từng sợi giang để đan nón.

Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình

Mùa hạ: “ve kêu rừng phách đổ vàng” tiếng ve quen thuộc của mùa hè giữa rừng hoa phách vàng gợi liên tưởng tiếng ve như bát sơn vàng sóng sánh đổ lên rừng gỗ xanh khiến tất cả chuyển sang một màu vàng ấm áp.

Rừng thu trăng rọi hoà bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”

Mùa thu: “rừng thu trăng rọi hòa bình” ánh trăng Việt Bắc mùa thu vô cùng yên bình, trong trẻo gợi cảm giác thanh mát, hòa vào khung cảnh đó là tiếng hát ân tình thủy chung của người dân dạt dào tình cảm.

→ Hình ảnh hòa hợp giữa thiên nhiên và con người tạo nên bức tranh Việt Bắc vô cùng xinh đẹp khiến người ta nhớ mãi.

3. Kết bài

Khẳng định lại giá trị, ý nghĩa của đoạn thơ: đoạn thơ đóng góp một phần to lớn vào thành công của tác phẩm và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc.

Văn mẫu Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc mẫu 1

Nền văn học Việt Nam đã ghi danh nhiều tác giả với những cống hiến quan trọng. Mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau lại có những dấu mốc văn học khác nhau. Trong đó, không thể không nhắc đến tác giả Tố Hữu - một nhà thơ xuất sắc của nền văn học Việt Nam, với hình ảnh người lính anh dũng cùng tình cảm gắn bó sâu nặng với đồng bào Việt Bắc, ông đã mang đến cho bạn đọc một góc nhìn khác vô cùng trữ tình về người chiến sĩ trong thời chiến thông qua bài thơ Việt Bắc. Nổi bật trong bài thơ là những hồi ức của người ra đi về bức tranh tứ bình Việt Bắc:

Ta về, mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng. Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hoà bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”

Mười câu thơ là hình ảnh đan xen giữa thiên nhiên và con người Việt Bắc trong tâm trí của người ra đi. Mở đầu, người ra đi khẳng định tình cảm của mình dành cho những người ở lại:

Ta về, mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Câu thơ đầu tiên sử dụng câu hỏi tu từ "mình có nhớ ta", câu thơ thứ hai là tự trả lời. Với Tố Hữu, người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến những ngày tháng gian khổ "bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng", mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng yêu của Hoa cùng Người. Ở đây, hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc. Còn con người là con người Việt Bắc với tấm áo chàm nghèo khổ nhưng đậm đà lòng son. Hoa và Người quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hài hòa đằm thắm để tạo nên cái nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất này. Chính điều ấy đã tạo nên cái cấu trúc đặc sắc cho đoạn thơ.

Sau khi khẳng định nỗi nhớ của mình dành cho thiên nhiên và con người Việt Bắc, người ra đi cụ thể hóa nỗi nhớ ấy qua từng mùa trong năm, mở đầu là mùa đông:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Điểm xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, là màu hoa chuối đỏ tươi đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Từ xa trông tới, bông hoa như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa, vừa cổ điển vừa hiện đại. Cái màu "đỏ tươi" – gam màu nóng của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng. Cùng hiện lên với cái lung linh của hoa chuối ấy là con người của vùng chiến khu lên núi làm nương, phát rẫy. Trước thiên nhiên bao la, con người dường như càng trở nên kỳ vĩ, hùng tráng hơn. Giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.

Kết thúc mùa đông, mùa xuân hiện ra với vẻ tinh khôi:

Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng: "Ngày xuân mơ nở trắng rừng". "Trắng rừng" được viết theo phép đảo ngữ và từ "trắng" được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc, màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. Mùa xuân càng trở nên tươi tắn hơn nữa bởi sự xuất hiện của hình ảnh con người với hoạt động "chuốt từng sợi giang". Con người đẹp tự nhiên trong những công việc hằng ngày. Từ "chuốt" và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay của con người lao động: cần mẫn, tỉ mẩn, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc.

Mùa hè đến trong âm thanh rộn rã của tiếng ve, bức tranh Việt Bắc lại sống động hơn bao giờ hết:

Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình

Thời điểm ve kêu cũng là thời điểm rừng phách đổ vàng. Động từ mạnh "đổ" diễn tả sự vàng lên đồng loạt của hoa phách đầu hè. Màu của cây phách đổ vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu râm ran kia nữa cũng trở nên óng vàng ra. Chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây phách ngả sang màu vàng rực rỡ. Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội kháng chiến: "Nhớ cô em gái hái măng một mình". Hái măng một mình mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; trái lại rất trữ tình, thơ mộng, gần gũi thân thương tha thiết. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu thương chịu khó của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm cảm thông, trân trọng của tác giả.

Khép lại bức tranh tứ bình là mùa thu thanh bình, êm ả:

Rừng thu trăng rọi hoà bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình rọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng và khép lại đoạn thơ bằng tiếng hát "ân tình thủy chung" gợi cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất nước.

Cả đoạn trích như một bản nhạc nhịp nhàng, tha thiết được hòa tấu bởi là khúc tình ca và khúc trường ca về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, về những con người kháng chiến anh hùng. Thông qua khúc nhạc đẹp đẽ, hào hùng ấy nhà thơ đã bộc lộ được những tình cảm tha thiết, sâu đậm của mình dành cho vùng núi rừng Việt Bắc, ngợi ca tình đồng chí, nghĩa tình đồng bào. Qua đó, tác giả cũng nhắn nhủ đến người đọc đừng quên những trang sử hào hùng của dân tộc, những trang sử thấm đẫm máu và nước mắt, cũng là những trang sử thấm đượm tình cách mạng, lòng yêu nước sâu sắc.

Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc mẫu 2

Nhắc đến Việt Bắc là nhắc đến cội nguồn của cách mạng nhắc đến mảnh đất trung du nghèo khó mà nặng nghĩa nặng tình – nơi đã in sâu bao kỉ niệm của một thời kì cách mạng gian khổ nhưng hào hùng sôi nổi khiến khi chia xa lòng ta sao khỏi xuyến xao bồi hồi. Và cứ thế sợi nhớ sợi thương cứ thế mà đan cài xoắn xuýt như tiếng gọi "Ta – mình" của đôi lứa yêu nhau. Đúng như lời thơ Chế Lan Viên từng viết "Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn". Vâng! Việt Bắc đã hóa tâm hồn dào dạt nghĩa yêu thương trong thơ Tố Hữu với những lời thơ như tiếng nhạc ngân nga với cảnh với người ăm ắp những kỉ niệm ân tình có bao giờ quên được.

"Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"

Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị thơ ông diễn tả những tình cảm cách mạng thật nhẹ nhàng mà cũng thật đậm sâu. Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ được viết vào tháng 10/1954 khi Trung ương Đảng và Chính phủ Bác Hồ và cán bộ kháng chiến từ giã "Thủ đô gió ngàn" về với "Thủ đô Hoa vàng nắng Ba Đình". Cả bài thơ là một niềm hoài niệm nhớ thương tuôn chảy về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc rất gian khổ nhưng vui tươi hào hùng. Nhưng có lẽ để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong bài ca Việt Bắc có lẽ là đoạn thơ về bức tranh tứ bình với bốn mùa xuân – hạ – thu – đông.

Mở đầu đoạn thơ là hai câu thơ giới thiệu nội dung bao quát cảm xúc chung của đoạn thơ:

"Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người"

Câu thơ đầu tiên sử dụng câu hỏi tu từ "mình có nhớ ta" câu thơ thứ hai là tự trả lời điệp từ "ta" lặp lại bốn lần cùng với âm "a" là âm mở khiến câu thơ mang âm hưởng ngân xa tha thiết nồng nàn. Với Tố Hữu người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến những ngày tháng gian khổ "bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng" mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng yêu của "hoa cùng người". Ở đây hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc, còn người là con người Việt Bắc với tấm áo chàm nghèo khổ nhưng đậm đà lòng son. Hoa và người quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hài hòa đằm thắm để tạo nên cái nét riêng biệt độc đáo của vùng đất này. Chính điều ấy đã tạo nên cái cấu trúc đặc sắc cho đoạn thơ. Trong bốn cặp lục bát còn lại câu sáu dành cho nhớ hoa nhớ cảnh câu tám dành cho nhớ người. Cảnh và Người trong mỗi câu lại có những sắc thái đặc điểm riêng thật hấp dẫn.

Nhắc đến mùa đông ta thường nhớ đến cái lạnh thấu xương da, cái ảm đạm của những ngày mưa phùn gió bấc, cái buồn bã của khí trời u uất. Nhưng đến với Việt Bắc trong thơ Tố Hữu thì thật lạ. Mùa đông bỗng ấm áp lạ thường:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Điểm xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng là màu hoa chuối đỏ tươi đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Từ xa trông tới bông hoa như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với đường nét màu sắc vừa đối lập vừa hài hòa vừa cổ điển vừa hiện đại. Cái màu "đỏ tươi" – gam màu nóng của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng. Câu thơ làm ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương

Từ liên tưởng ấy ta thấy mùa đông trong thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè chứ không lạnh lẽo hoang sơ bởi màu đỏ của hoa chuối cũng như đang phun trào từ giữa màu xanh của núi rừng.

Cùng hiện lên với cái lung linh của hoa chuối ấy là con người của vùng chiến khu lên núi làm nương phát rẫy sản xuất ra nhiều lúa khoai cung cấp cho kháng chiến "Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng". Trước thiên nhiên bao la con người dường như càng trở nên kỳ vĩ hùng tráng hơn. Ở đây nhà thơ không khắc họa gương mặt mà chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ở ngang lưng. Ở đây câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy cũng đã xuất hiện ở một vị trí một tư thế đẹp nhất - "đèo cao". Con người đang chiếm lĩnh đỉnh cao chiếm lĩnh núi rừng tự do "Núi rừng đây là của chúng ta/ Trời xanh đây là của chúng ta". Đây là tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và vững chãi: Giữa núi và nắng giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang, con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.

Đông qua xuân lại tới. Nhắc đến mùa xuân ta liên tưởng ngay đến sức sống mới của cỏ cây hoa lá của trăm loài đang cựa mình thức dậy sau mùa đông dài. Mùa xuân Việt Bắc cũng vậy:

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng trong trẻo tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng: "Ngày xuân mơ nở trắng rừng". Cụm từ "trắng rừng" được viết theo phép đảo ngữ và từ "trắng" được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá và làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng bâng khuâng dịu mát của hoa mơ. Động từ "nở" làm sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống. Đây không phải là lần đầu tiên Tố Hữu viết về màu trắng ấy năm 1941 Việt Bắc cũng đón bác Hồ trong màu sắc hoa mơ:

Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt

Trắng rừng biên giới nở hoa mơ

Bác về im lặng con chim hót

Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ

Mùa xuân càng trở nên tươi tắn hơn nữa bởi sự xuất hiện của hình ảnh con người với hoạt động "chuốt từng sợi giang". Con người đẹp tự nhiên trong những công việc hằng ngày. Từ "chuốt" và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay của con người lao động: cần mẫn tỉ mẩn khéo léo tài hoa nhanh nhẹn chăm chút đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc.

Mùa hè đến trong âm thanh rộn rã của tiếng ve bức tranh Việt Bắc lại sống động hơn bao giờ hết:

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Thời điểm ve kêu cũng là thời điểm rừng phách đổ vàng. Động từ "đổ" là động từ mạnh diễn tả sự vàng lên đồng loạt của hoa phách đầu hè. Màu của cây phách đổ vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu râm ran kia nữa cũng trở nên óng vàng ra. Đây là một bức tranh sơn mài được vẽ lên bằng hoài niệm nên lung linh ánh sáng màu sắc và rộn rã âm thanh. Tố Hữu không chỉ có biệt tài trong việc miêu tả vẻ đẹp riêng của từng mùa mà còn có tài trong việc miêu tả sự vận động đổi thay của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây phách ngả sang màu vàng rực rỡ. Đây chính là một biểu hiện đặc sắc của tính dân tộc.

Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội kháng chiến: "Nhớ cô em gái hái măng một mình". Hái măng một mình mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn hiu hắt như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; trái lại rất trữ tình thơ mộng gần gũi thân thương tha thiết. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu khó chịu thương của cô gái. Đằng sau đó ẩn chứa biết bao niềm cảm thông trân trọng của tác giả.

Thu sang khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh huyền ảo lung linh dịu mát:

"Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"

Không gian bao la tràn ngập ánh trăng đó là ánh trăng của tự do của hòa bình rọi sáng niềm vui lên từng núi rừng từng bản làng Việt Bắc. Ta cũng từng biết đến mùa thu đầy ánh trăng trong thơ của Bác khi còn ở chiến khu:

Trăng vào cửa sổ đòi thơ

Việc quân đang bận xin chờ hôm sau

Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu

Ấy tin thắng trận liên khu báo về

Ở đây không có tiếng chuông báo thắng trận nhưng lại vang lên tiếng hát. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình. Đây cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc của núi rừng của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng.

Vâng! Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng và khép lại đoạn thơ bằng tiếng hát "ân tình thủy chung" gợi cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất nước.

Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị vừa cổ điển vừa hiện đại đoạn thơ trên của Tố Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người hòa hợp với nhau tô điểm cho nhau làm cho bức tranh trở nên gần gũi thân quen sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung quyến luyến thiết tha trong tâm hồn người cán bộ về xuôi.

Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc mẫu 3

"Ngọn gió thơ băng qua rừng, băng qua biển để tìm ra giọng nói cho riêng mình". Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, nó không chấp nhận sự sao chép mô phỏng bởi "bình thường là cái chết của nghệ thuật". Mỗi người nghệ sĩ phải tạo ra cho mình một lối đi riêng không lặp lại người khác và không lặp lại chính mình. Có như vậy, tác phẩm mới đủ sức neo đậu trong trái tim người đọc, và người nghệ sĩ mới đủ sức chạm khắc tên mình vào dòng chảy bất tận của thời gian. Vì lẽ ấy, Tố Hữu luôn dành cho mình một vị trí rất riêng trên thi đàn với những khám phá độc đáo trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. Bài thơ "Việt Bắc" chính là minh chứng tiêu biểu, đặc biệt là bức tranh tứ bình, đoạn thơ được coi là tuyệt bút của tác phẩm, tập trung khắc họa bức tranh tứ bình về cảnh và và người Việt Bắc. Một câu nói về thiên nhiên lại đến một câu nói về con người, cứ thế hòa quyện gắn bó khăng khít. Có thể thấy thi sĩ tạo hình theo lối xây dựng bộ tranh tứ bình - một hình thức rất phổ biến của nghệ thuật cổ điển

Mở đầu cho đoạn thơ là lời khẳng định về nỗi nhớ da diết và tình cảm thủy chung của người ra đi dành cho quê hương Việt Bắc:

Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Sợi nhớ, sợi thương cứ thế mà hòa quyện, đan cài như tiếng gọi 'ta - mình" của đôi lứa yêu nhau, làm cho giọng thơ trở nên tha thiết bồi hồi như tiếng hát giao duyên thuở nào. Đó là sắc điệu trữ tình và tính dân tộc trong thơ Tố Hữu.

Điệp ngữ "ta về" mở đầu cho hai câu thơ như đặt ra những nỗi niềm của người ra đi. Cái đẹp của câu thơ là hình ảnh "hoa cùng người", phải chăng con người là một bông hoa trong vườn hoa Việt Bắc, hay hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc, còn người là toàn thể nhân dân nơi đây, tuy nghèo khó lam lũ nhưng đậm đà lòng son. Hoa và người khi thì quấn quýt, khi thì tách rời để tôn vinh nét riêng biệt, độc đáo nơi đây. Đến đây, ta chợt nhớ về ba lần xuất hiện của "hoa" trong bài "Tây Tiến" của Quang Dũng. Sự gắn kết giữa "hoa" và "người" luôn đọng lại một cách đặc biệt trong lòng người nghệ sĩ.

Khung cảnh Việt Bắc mở ra trong nỗi nhớ của người ra đi là bức tranh thiên nhiên mùa đông với sự hòa phối màu sắc tuyệt vời:

"Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng"

Thiên nhiên Việt Bắc mở ra khiến cho người đọc ngẩn ngơ bởi vẻ đẹp rất trữ tình của núi rừng Tây Bắc. Mùa đông với màu xanh tha thiết, ngút ngàn của núi rừng trùng điệp hiện lên đầu tiên. Điểm xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, là màu hoa chuối đỏ tươi đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. bông hoa như những bó đuốc thắp sáng tạo nên một bức tranh với đường nét, màu sắc đối lập, vừa hài hòa, vừa cổ điển lại hiện đại. Cái màu "đỏ tươi", gam màu ấm nóng của hoa chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng. Trong các gam màu, màu xanh và đỏ luôn là những gam màu có sức ảnh hưởng lớn. luôn dẫn đầu để tạo ra sự nổi bật, tưởng như đối nghịch nhưng lại rất hài hòa. Chúng đi cùng nhau, nâng đỡ nhau, thắm thiết với nhau như những người chiến sĩ và nhân dân Việt Bắc luôn cần có nhau. Câu thơ làm ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:

"Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương"

Từ liên tưởng ấy, mùa đông trong thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè chứ không lạnh lẽo hoang sơ, không u uất buồn bã, bởi màu đỏ của hoa chuối cũng như đang phun trào như bó đuốc sáng trong đêm hay tia mặt trời buổi sớm. Sự rực rỡ ấy xua tan bao nhiêu giá lạnh, tạo nên bao nhiêu ấm nồng.

Cùng hiện lên với sự lung linh của hoa chuối ấy là con người của vùng chiến khu lên núi làm nương, phát rẫy sản xuất lương thực phục vụ kháng chiến. Trước thiên nhiên bao la, con người càng trở nên kì vĩ, hùng tráng hơn. Ở đây nhà thơ không khắc họa gương mặt mà chớp lấy một nét miêu tả sáng rực nhất. Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ngang lưng. Ở đây câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người ấy đã xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất "đèo cao". Con người khỏe khoắn, mạnh mẽ và chủ động như đang chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng, tự do làm chủ đất nước. Tinh thần ấy từng được bắt gặp trong thơ của Nguyễn Đình Thi:

"Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta"

Đấy là tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và vững chãi giữa nắng vàng, giữa trời cao bao la và rừng núi mênh mông. Con người ấy đã trở thành tâm điểm, trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.

Hơn thế nữa, hình ảnh "dao gài thắt lưng" còn thể hiện nét đẹp trong lao động của con người Việt Bắc, có sự ấm áp của nắng, có sự hoạt động của con người, tất cả cùng cộng hưởng làm nên vẻ đẹp thi vị, thơ mộng.

Bức tranh mùa đông dần lùi về phía sau, nhường chỗ cho mùa xuân đến với sức sống mới của cỏ cây, hoa lá, của trăm loài đang cựa mình thức dậy sau mùa đông dài. Xuân tới, quy luật tất yếu của thiên nhiên, nhưng chính quy luật ấy đã mở ra cho con người được chiêm ngưỡng cảnh sắc thiên nhiên độc đáo. Không gian mùa xuân Việt Bắc bừng sáng trong sắc hoa mơ:

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

"Trắng rừng" được viết theo phép đảo ngữ và từ "trắng" được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc, màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. Động từ "nở" làm sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống. Đây không phải là lần đầu tiên Tố Hữu viết về màu trắng ấy, năm 1941 Việt Bắc cũng đón Bác Hồ về trong màu trắng hoa mơ:

"Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt

Trắng rừng biên giới nở hoa mơ

Bác về lặng im con chim hót

Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ"

Mùa xuân càng trở nên tươi tắn hơn bởi sự xuất hiện của hình ảnh con người với hoạt động "chuốt từng sợi giang". Đây là công việc đòi hỏi sự khéo léo, tỉ mỉ đến từng chi tiết. Biết bao sản phẩm thủ công tinh xảo đã ra đời từ đôi bàn tay của người vùng cao nơi đây. Sự khéo léo ấy đã được nhà thơ Y Phương nhắc đến trong bài thơ "Nói với con":

"Người đồng mình thương lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát."

Đằng sau mùa xuân tinh khiết, nhẹ nhàng, thơ mộng ấy, con nguoiwg hiện lên thật tự nhiên trong công việc hàng ngày. Từ "chuốt" và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay vô cùng khéo léo, nhanh nhẹn, tỉ mẩn và chăm chút. Đó cũng chính là phẩm chất tần tảo, chịu thương chịu khó của con người Việt Bắc.

Trong bức tranh tứ bình về Việt Bắc, nhiều người cho rằng mùa hè đẹp nhất bởi nó có sự kết hợp cả hình ảnh và âm thanh, thỏa mãn thị giác và thính giác, đẹp bởi sự hòa quyện giữa vẻ đẹp cổ điển và hiện đại, tạo ra một chuỗi vận động liên hoàn:

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Âm thanh của tiếng ve làm không gian ngày hè trở nên rộn rã, náo nức, vui tươi. Tiếng ve kêu gọi mùa hè rất tinh tế, không chỉ thể hiện được nhịp bước của thời gian từ xuân sang hè mà còn diễn tả được sự chuyển đổi màu sắc. Trong thơ ca, cũng không hiếm những nhà thơ nói lên sự vận động của thời gian qua sự thay đổi của màu sắc. Đó là Xuân Diệu trong bài "Đây mùa thu tới":

"Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh"

Hay đó là Nguyễn Bính trong bài "Tương tư"

"Ngày qua ngày lại qua ngày

Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng"

Nếu từ "rũa" thể hiện quá trình xâm lấn dần, sắc đỏ đang bào mòn màu xanh, từ "nhuộm" diễn tả quá trình ấy đã hoàn tất, thì từ "đổ" lại chứng tỏ một sự vận động nhanh chóng, đồng loạt từ xanh sang vàng. Cả cánh rừng Việt Bắc trở nên lung linh, lộng lẫy bởi cái màu vàng trải dài, kiêu sa đầy bắt mắt.

Hình ảnh cô gái "hái măng một mình" là linh hồn của bức tranh mùa hè. Cách gọi "cô em gái" nghe thật thân thương, gần gũi như anh em ruột thịt trong gia đình. Cô gái ấy đang "một mình" mirtj mài trong lao động "hái măng", âm thầm, lặng lẽ góp sức mình cho cuộc kháng chiến từ những điều bình dị, nhỏ bé. Đó là những con người bình dị mà cao cả "Không ai nhớ mặt đặt tên. Nhưng họ đã làm ra Đất Nước". [Nguyễn Khoa Điềm]

Khép lại bức tranh tứ bình là khung cảnh mùa thu tươi đẹp:

"Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"

Không phải ngẫu nhiên mà bức tranh tứ bình trong thơ Tố Hữu lại phá lệ trật tự thông thường, không đi theo trình tự thời gian bốn mùa xuân, hạ, thu, đông mà lại mở ra với mùa đông và khép lại bằng mùa thu. Đây được xem như bản tổng kết bằng thơ trong chín năm kháng chiến, mùa đông là hiện thân cho quá khứ, thời gian mở đầu cuộc kháng chiến với bao gian khó, thử thách và mùa thu là thời điểm hiện tại, thời điểm chiến thắng của cuộc kháng chiến oanh liệt và vĩ đại.

Mùa thu được thể hiện với vầng trăng tròn vành vạnh, với ánh sáng dịu mát gợi lên vẻ thanh bình, yên ả. Đó là ánh trăng của hòa bình, của niềm vui, của niềm hạnh phúc lan tỏa. Ánh trăng cũng như hiểu lòng người, đang hòa mình vào niềm vui chiến thắng của con người.

Mùa thu ngọt ngào, trọn vẹn bởi "Tiếng hát ân tình thủy chung" trong cảm xúc "nhớ ai" của người ra đi. "Tiếng ai" là lời đồng vọng của con người Việt Bắc, những con người khổ cực lam lũ song không quên đi nghĩa tình gắn bó, sống anh dũng không sờn lòng nản chí. Tiếng hát cất lên vang vọng giữa núi rừng dưới ánh trăng thanh bình thơ mộng như tô đậm cảm xúc vui tươi, hồ hởi, niềm hạnh phúc hân hoan của con người trong ngày chiến thắng.

Đoạn thơ đã tái hiện một bức tranh tứ bình rất đặc trưng của Việt bắc. Mùa nào cũng đẹp cũng mang một diện mạo riêng, vừa đậm đà tính dân tộc song cũng rất mới mẻ, hiện đại. Bên cạnh đó là vẻ đẹp của những con người nơi đây, tuy nghèo khổ nhưng cần cù, chịu thương chịu khó, sống tình nghĩa, thủy chung, son sắt với Cách mạng.

Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc mẫu 4

Tố Hữu là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho nền văn Việt Nam hiện đại. Ông là một nhà thơ với suy nghĩ tư tưởng cộng sản, một nhà thơ lớn, và thơ ông gắn liền với cách mạng. Tố Hữu còn gắn bó với nhân dân sâu sắc, vì vậy mà trong các tác phẩm của ông luôn gần gũi với người dân. Ông đã để lại một sự nghiệp văn chương phong phú, và giàu giá trị với phong các trữ tình và chính trị sâu sắc đậm đà những bản sắc dân tộc. Tiêu biểu là bài Việt Bắc ta có thể nói, kết tinh của tác phẩm được lắng đọng trong mười câu thơ đã diễn tả nỗi nhớ của người về xuôi với cảnh thiên nhiên và con người nơi Việt Bắc hòa quyện thành bức tranh tứ bình.

“Ta về, mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng. Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”

Việt Bắc đã được Tố Hữu sáng tác vào đầu tháng 10 năm 1954 ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp giành thắng lợi, các cơ quan trung ương Đảng và chính quyền từ Việt Bắc quay về lại thủ đô Hà Nội. Tố Hữu cũng là cán bộ sống gắn bó với Việt Bắc nhiều năm, nay cùng từ biệt chiến khu để về xuôi. Bài thơ như được viết trong buổi chia tay đầy lưu luyến ấy. Và có lẽ đẹp nhất trong nỗi nhớ Việt Bắc chính là những ấn tượng không phai về sự hòa quyện của người dân với thiên nhiên núi rừng cao đẹp mộng mơ.

“Ta về, mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người”

Mở đầu của đoạn thơ là câu hỏi tu từ nhưng hỏi chỉ là cái cớ để thể hiện tâm tư tình cảm, nhấn mạnh với nỗi nhớ da diết của người về Thủ đô. Hai câu đầu là những lời hỏi đáp của ta tức là của người cán bộ kháng chiến đã về xuôi. Ta hỏi mình có nhớ ta những người cách mạng về xuôi hỏi người Việt Bắc đã để bộc lộ tâm trạng của mình là dù có ở những nơi xa xôi, dù có xa cách nhưng lòng ta vẫn gắn bó với chiến khu Việt Bắc. Chữ “ta” , “nhớ” được điệp đi và điệp lại thể hiện lòng thủy chung son sắc. Nỗi nhớ đã hướng về “những hoa cùng người” hướng về thiên nhiên, với núi rừng và con người Việt Bắc. “Hoa” là sự kết tinh của nơi hương sắc, còn “người” là kết tinh với đời sống xã hội. Xét cho đến cùng, “người ta là hoa của đất”. Hoa và người được đặt cạnh nhau lại càng làm tôn lên vẻ đẹp cho nhau, làm sáng lên cả những không gian núi rừng, Việt Bắc trùng điệp.

Những câu thơ tiếp theo đã tái hiện cụ thể, chân thực vẻ đẹp bốn mùa của chiến khu. Cảnh và người đã hòa quyện đan xen vào nhau. Cứ một câu thơ lục tả cảnh thì lại có một câu thơ thật bát tả người. Mỗi mùa có một vẻ đẹp nét đặc trưng tạo thành một bức tranh tứ bình ngập tràn ánh sáng, màu sắc, và đường nét âm thanh vui tươi, ấm áp.

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

Mở đầu cho một bức tranh tứ bình lại là khung cảnh mùa đông. Chúng ta vẫn luôn thắc mắc là rằng tại sao tác giả không diễn tả mùa theo trật tự quy luật tự nhiên đó là Xuân, Hạ, Thu, Đông lại là mùa Đông trước đã có lẽ vì, thời điểm tác giả sáng tác bài thơ này là vào đầu tháng 10 năm 1954, đó là thời điểm của mùa đông nên khung cảnh mùa đông Việt Bắc cũng tạo cảm hứng để ông viết về mùa đông trước.

Nhớ về nơi mùa đông Việt Bắc, tác giả không nhớ về cái giá buốt, lạnh lẽo, và âm u mà nhớ đến những ngày mùa đông rực rỡ, nắng vàng ấm. Màu xanh bạt ngàn của núi rừng Việt Bắc đã làm nổi bật lên màu đỏ tươi của hoa chuối. Hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi” là hình ảnh đặc trưng của rừng núi Việt Bắc vào mùa đông, nó giống như những ngọn đuốc, đã đốm lửa rực rỡ thắp sáng bức tranh mùa đông, xua tan đi cái u tối, lạnh lẽo của núi rừng ở nơi đây. Cả không gian như được sưởi ấm đã tô điểm thêm nét đẹp đặc trưng của mùa đông Việt Bắc. Đằng sau bức tranh mùa đông ấy, đã ẩn hiện lên hình ảnh người nông dân đi lao động leo lên đèo cao để đi làm nương rẫy. Một hình ảnh khỏe khoắn của những người lao động như được tỏa sáng, rực rỡ hơn. Tố Hữu sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, đó là ông không dùng “ánh nắng” là một danh từ mà lại dùng “nắng ánh” – một động từ, nhằm làm cho những hình ảnh người lao động đẹp và rực rỡ hơn.

Kết thúc mùa đông lạnh Tố Hữu đưa chúng ta đến với mùa xuân ấm áp vui hơn:

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Hình ảnh những bông hoa “mơ nở trắng rừng” là loài hoa đặc trưng của mùa xuân nơi núi rừng Việt Bắc. Hoa nở trắng xóa cả khu rừng có màu không phải màu trắng điểm như trong bài Truyện Kiều của tác giả Nguyễn Du “cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Đó là màu trắng tinh khiết, và tinh khôi khoác lên cho núi rừng Việt Bắc. Và đằng sau mùa xuân tinh khiết, và nhẹ nhàng, thơ mộng ấy. Nhà thơ đã nhớ đến những người đan nón. Hình ảnh “người chuốt từng sợi giang” cũng đã làm nổi bật đức tính cần cù, tỉ mỉ, khéo léo, tài hoa của con người nơi đây. Họ đã làm ra những sợi giang nõn nà và để đan thành những chiếc nón. Đó là vật để che nắng che mưa không thể thiếu của người dân ở nơi đây và đó cũng có thể là thức quà tặng mà tác giả dành cho những người mà họ yêu thương.

“Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Khi âm thanh của những tiếng ve vang lên, đó là âm thanh đặc trưng của mùa hè. Rừng phách đột ngột đổ vàng và đó là sự chuyển biến đột ngột làm cho người ta có cảm giác khi tiếng ve vang lên thì cùng những lá cây của cây phách từ lá màu xanh chuyển sang màu ả vàng. Cả không gian Việt Bắc cũng như được nhuộm sắc vàng rực rỡ và thời gian mang đến cho ta màu sắc và ẩn sâu trong cái sắc vàng rực rỡ ấy là hình ảnh những cô em hái măng. Ở đó, toát lên được sự cần mẫn, và cần cù siêng năng, chăm chỉ. Măng là thứ rau nuôi sống bộ đội cách mạng. Và hình ảnh cô gái hái măng có một mình cho thấy được sự yên tĩnh và thư thái. Câu thơ đã làm cho ta liên tưởng đến câu thơ:

“Trám bùi để rụng, măng mai để già”

Nếu đặc trưng của mùa đông là hoa mơ, mùa xuân là hoa chuối, và mùa hè là hoa phách vàng. Vậy còn mùa thu thơ mộng là hoa gì, Mùa thu còn không có hoa mà mùa thu cũng có người mà con người là loài hoa đẹp nhất: “Người ta là hoa của đất”.

Khác với nền văn học thời trung đại, một nền văn học mà các nhà văn lấy thiên nhiên làm tiêu chuẩn cho cái đẹp thì đây nền văn học hiện đại lại lấy con người làm tiêu chuẩn cho những cái đẹp. Điều này được thể hiện rất rõ bởi ở câu thơ tả mùa thu của Tố Hữu.

“Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”

Nếu câu thơ lục câu thơ tả hình ảnh ánh trăng thì câu thơ bát có là “tiếng hát ân tình”. Cặp đôi “trăng – nhạc” góp phần tạo nên vẻ đẹp lung linh và lãng mạn. Đất nước ta lúc ấy đang trong những thời kì kháng chiến khốc liệt nhưng ở những câu thơ của Tố Hữu ta chỉ thấy được sự bình yên, hòa bình, và êm ả và ân tình thủy chung.

Đoạn thơ đã dạt dào tình thương, tha thiết nỗi nhớ bồi hồi thấm sâu vào cảnh và con người. Kẻ ở người về thì “ta nhớ mình” và “mình nhớ ta”. Tình cảm vô cùng tha thiết, thiêng liêng, và biết bao ân tình thủy chung. Năm tháng đi qua những ân tình thủy chung cách mạng giữa Việt Bắc với những con người về xuôi vẫn luôn thủy chung son sắc, và in đậm trong lòng người.

Tóm lại, với 10 câu thơ trên, Tố Hữu đã hài hòa trong câu lục tả cảnh, vói câu bát tả người. Và sự hài hòa ấy tạo nên một trong những bức tranh tứ bình tuyệt đẹp, đầy màu sắc. Qua đó, Tố Hữu bộc bạch được là tình cảm của mình với thiên nhiên núi rừng Việt Bắc và sự thủy chung luôn son sắc với những con người chất phát và hiền hòa nơi đây. Sự yêu mến và tự hào của tác giả Tố Hữu với Việt Bắc. Và ở mỗi bản thân chúng ta, cũng cần phải biết đến những địa danh của nơi Đất Nước mình, yêu mến và luôn tự hào về vẻ đẹp diệu kỳ của nó. Điều quan trọng hơn hết, là chúng ta cần ghi nhớ công ơn to lớn của chiến sĩ đã hi sinh ra sức chiến đấu dựng xây khiến chúng ta có được một đất nước thật yên bình và xinh đẹp như ngày hôm nay.

Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc mẫu 5

Với giọng điệu tâm tình, ngọt ngào, tha thiết, những áng thơ văn Tố Hữu để để lại trong lòng người đọc nhiều xúc cảm lắng sâu. “Việt Bắc” là một bài thơ nổi tiếng tác giả viết năm 1954. Cảm xúc, hình ảnh, nghĩ suy trong tác phẩm mà nhà thơ gửi tới người đọc khiến cho ta càng thêm yêu mến và trân quý tâm hồn, tài năng Tố Hữu. Bức tranh tứ bình trong bài cũng là một nét đặc sắc đã lưu lại trong tâm trí người đọc nhiều ấn tượng.

Nỗi thơ thiết tha bồi hồi ấy đọng lại trong bức tranh tứ bình về con người và cảnh vật thiên nhiên Tây Bắc, trước hết đó là sự phác họa những nét cảnh mùa đông:

“Ta về, mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

Một mùa đông rực rỡ và ấm nồng nơi núi rừng Tây Bắc đã được nhà thơ phác họa một cách sinh động. Đó là mùa đất trời nơi đây tràn ngập sắc “đỏ”, “tươi” rực rỡ của hoa chuối rừng trên nền xanh trầm tĩnh của cỏ cây rừng lá, của ánh nắng ấm áp lửng lơ, tràn ngập khắp không gian khoáng đạt. Trên cái nền thơ mộng ấy, con người Việt Bắc xuất hiện với vẻ đẹp khỏe khoắn trong tư thế lao động: “dao gài thắt lưng”. Hai từ “nắng ánh” khiến lời thơ Tố Hữu như bừng sáng, góp phần làm nổi bật hơn vẻ đẹp của con người trong lao động, những con người đang trong tư thế vươn lên đỉnh đèo. Mùa đông trong thơ xưa thường diễn tả cái tiêu điều, hiu quạnh, những cơn gió lạnh và một bầu không khí man mác buồn. Đông Hồ từng viết:

“Em nhớ: một sáng ngày mùa đông Gió bấc ào ào tiếng hãi hùng Theo khe cửa sổ gió thổi rú Chỉ nghe tiếng gió mà lạnh lùng”

Hay như nhà thơ Ngô Chi Lan từng bày tỏ:

“Lò sưởi bên mình ngọn lửa hồng Giải buồn chén rượu lúc sầu đông Tuyết đưa hơi lạnh xông rèm cửa Gió phẩy mùa băng giải mặt sông”

Cái buồn, cái sầu ấy ta lại không bắt gặp ở mùa đông trong thơ Tố Hữu. Nhà thơ viết về mùa đông Tây Bắc lại thắm tươi và nồng ấm sắc màu, sức sống. Con người trong cảnh sắc ấy khỏe khoắn và chủ động.

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Đó là cặp câu thơ lục bát tiếp theo nhà thơ miêu tả về thiên nhiên và con người Việt Bắc khi xuân về. Sự dịu dàng, trong trẻo, tinh khôi của sắc trắng hoa mơ “nở trắng rừng” đã làm lòng người đọc biết bao xao xuyến. Trên nền cảnh ấy, con người hiện ra trong công việc của cuộc sống giản dị đời thường. Động từ “chuốt” đã tinh tế làm toát lên vẻ tài hoa, cần mẫn, khéo léo của con người lao động nơi đây. Sự thanh tao thơ mộng của đất trời, sự giản dị, khéo léo của con người cùng hòa điệu làm ý thơ Tố Hữu càng thêm nổi bật và ấn tượng.

Nhà thơ Bàng Bá Lân từng bày tỏ cảm nghĩ của mình qua những dòng thơ trong “Trưa hè”:

“Trời lơ lửng cao vút không buông gió Đồng cỏ cào khô cánh lượt hồng Êm đềm sóng lụa trên trên lúa Nhạc ngựa đường xa lắc tiếng đồng Quán cũ nằm lười trên sóng nắng Bà hàng thừa khách ngủ thiu thiu Nghe mồ hôi chảy đầm như tắm Đứng lặng trong mây một cánh diều”

Mùa hè với Bàng Bá Lân là vậy, bình yêu mà và cùng đáng nhớ. Còn với Tố Hữu, mùa hè Việt Bắc là:

“Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Sắc màu tươi sáng của rừng phách và âm thanh rộn rã của tiếng ve được nhà thơ tái hiện chân thực. Từ “đổ” trong câu thơ được xem như nhãn tự bộc lộ trọn vẹn ý nghĩ của nhà thơ. Phải chăng, nhà thơ đang muốn nói đến sự tương quan kỳ diệu của thanh âm và màu sắc đã khiến cho cảnh vật nơi đây như có linh hồn, có sự giao cảm mạnh mẽ. Người Việt Bắc hiện ra trong một vẻ gì đó thật lặng lẽ nhưng vẫn rất hiền hòa như một điểm nhấn lắng sâu giữa không khí sôi động của thiên nhiên đất trời mùa hạ.

Được nhắc đến cuối cùng, nhưng cách thể hiện của nhà thơ về mùa thu vẫn khiến người đọc không khỏi ấn tượng và lưu luyến. Một Việt Bắc trong trẻo. Một Việt Bắc thanh tịnh dưới ánh trăng. Đó là những gì ta cảm nhận được qua hai câu thơ:

“Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Trên cái nền hiền hòa của thiên nhiên ấy con người hiện ra với vẻ thắm thiết ân tình trong tiếng hát thân thương cũng là tiếng lòng thủy chung Cách mạng đượm tình sâu nghĩa thẳm.

Để có thể phác họa nên bức tranh tứ bình của cảnh sắc thiên nhiên và con người Việt Bắc sống động như vậy, nhà thơ đã vận dụng khéo léo đồng thời bút pháp cổ điển và hiện đại. Sự tinh tế và tài hoa ấy đã góp phần giúp cho bức tranh tứ bình trong “Việt Bắc” có một vị trí đặc biệt trong lòng người đọc bao thế hệ, góp phần làm đa dạng hơn những bài thơ, áng văn viết về “bức tranh tứ bình”.

Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc mẫu 6

Tố Hữu chẳng phải ngẫu nhiên, chẳng phải cố tình, tất cả là sự vừa phải khi viết Việt Bắc. Nếu như ở trong đoạn thơ đầu, là giây phút chia ly giữa người đi, kẻ ở, là thời điểm muốn đi rồi lại muốn dừng thì chuyển sang 10 câu thơ này, một bức tranh thiên nhiên đã được vẽ ra thật tuyệt mỹ. Hơn vậy, trong tranh vẫn đong đầy tình cảm thương mến, vẫn đong đầy nỗi nhớ nhung, một tình cảm thật đẹp trong bức tranh tứ bình lung linh sắc màu.

Tố Hữu là một chiến sĩ cách mạng tiên phong, thơ ông bất cứ khi nào cũng khiến cho mỗi đọc giả cảm thấy hừng hực khí thế chiến đấu, tràn ngập tình yêu Tổ quốc, ông không phải là người giỏi viết tình ca như Xuân Quỳnh, Xuân Diệu, thế nhưng rõ ràng, với Việt Bắc, nhà thơ đã rất thành công khi tấu lên một cung đàn, một bản nhạc thật đẹp về nỗi nhớ thương. Đoạn thơ mở đầu bằng 2 câu thơ:

“Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người”

Điệp từ “nhớ” được lặp lại 2 lần nằm gọn gàng trên 2 câu thơ. Một câu hỏi tu từ được đặt ra với rất nhiều những gửi gắm. Đại từ xưng hô mình ta lại tiếp tục được sử dụng mang tới sự gần gũi, mộc mạc, nói một cách hoa mỹ hơn thì đó là cụm từ hội tụ đầy đủ phong vị Việt Nam. Đoạn thơ mở ra biết bao trường nhớ nhung da diết. Câu hỏi “Ta mình mình có nhớ ta” của người đi vẫn còn đang bỏ ngỏ. Thật lạ lùng, là câu hỏi bỏ ngỏ ấy lại mang một ý thật tình tứ, rất giống với những câu hát giao duyên:

“Mình về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”

Câu hỏi ấy xét cho cùng cũng chính là cái cớ để nhân vật trữ tình bộc bạch lòng mình, khẳng định tình cảm đậm sâu gắn bó với con người Việt Bắc, không gian Việt Bắc. Có thể thấy, 15 năm là khoảng thời gian thực sự đủ dài để người đi kịp ghi lại tất cả những khoảnh khắc nơi đây, về khung cảnh, về con người. Thiên nhiên và con người Việt Bắc đã trở thành nguồn ký ức không thể phai mờ trong tâm trí của những người đi.

Tố Hữu sử dụng danh từ “hoa” bởi lẽ, hoa chính là biểu tượng của thiên nhiên, đẹp nhất, tinh khôi nhất, nồng thắm nhất. Đó cũng chính là vẻ đẹp kết tinh của cuộc sống. Đồng bào Việt Bắc cũng chính là những bông hoa đẹp nhất, tươi thắm nhất – một loài hoa thật đặc biệt – thật khiến người ta dễ nhớ nhung. Nhà thơ đã rất khéo léo và tinh tế khi sử dụng từ nối “cùng”, không phải là từ “và” không phải là từ “với” mà đó là từ “cùng” tạo ra trạng thái cảm xúc quấn quýt, vấn vương, hòa quyện giữa thiên nhiên và con người. Hai câu thơ mở đầu cho đoạn thơ thật đặc biệt, thật tinh tế, thật ý nhị, trữ tình.

Mùa đông, được nhắc tới với sự lạnh lẽo vào cô đơn vô chừng thế nhưng trong bức tranh mùa đông Tố Hữu đem đến lại thật rực rỡ, ấm nồng:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

Giữa một không gian xanh bất tận, sắc hoa chuối đỏ tươi đột ngột bừng lên như một ngọn lửa ấm áp xua đi không gian giá lạnh nơi đại ngàn. Màu sắc mà hình ảnh tạo nên một bức tranh đường nét vừa hài hòa, vừa ấn tượng và dễ gây những rung cảm trong lòng người đọc. Mùa đông hiện lên với sắc đỏ ấm nồng của hoa chuối, với hình ảnh của con người lao động mang vẻ đẹp đầy kiêu hãnh giữa rừng xanh mênh mang.

Giữa một không gian xanh bất tận của đại ngàn, giữa những vườn chuối được ấp ủ tình yêu thương để bùng lên những ấm áp dù rất nhỏ thế những điều kỳ diệu là ngọn lửa ấy dù nhỏ nhưng lại đủ để lan tỏa ra khắp không gian núi đồi nơi đây. Hình ảnh được lựa chọn cho câu thơ của mình đó chính là hình ảnh hoa chuối rừng. Loài hoa này có khá nhiều sự khác biệt đối với hoa chuối ta, dáng chúng mọc thẳng với màu đỏ tươi như phát sáng, chiếu thẳng diện vào cảm giác của con người. Con người bây giờ đang đi giữa một màu xanh bất tận, xanh lá, xanh trời và cả đôi mắt của người cũng mang trọn một màu xanh biêng biếc.

Giữa một khoảng xanh mênh mông và vô tận đó, nhà thơ không miêu tả cụ thể, chi tiết hình dáng của con người mà chỉ nhanh mắt chớp lấy một hình ảnh thần tình nhất. Đó là khoảnh khắc khi ánh sáng của mặt trời chiếu xuống lưỡi dao gài ngang lưng. Con người bây giờ, như một điểm hội tụ của anh sáng giữa núi rừng đại ngàn mênh mông, giữa lá xanh và hoa đỏ. Trong không gian ấy, con người không cô đơn, nhỏ bé mà rất mực kiêu hãnh, oai hùng, khỏe khoắn trong tư thế làm chủ thiên nhiên, làm chủ đất trời.

Trong nỗi nhớ về khung cảnh của Việt Bắc mùa đông, nỗi nhớ ấy không lạnh lẽo và ấm áp vô cùng. Nơi núi cao, nơi đại ngàn, mùa đông không hoang vụ, không tàn tạ, thê lương mà ấm áp vô ngần. Đông qua xuân tới, đất trời cũng có những đổi thay:

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Đến đây nên xanh trầm tĩnh đã nhường chỗ cho nền trắng tinh khiết của hoa mơ rừng. Hai chữ “trắng rừng” khiến cảnh rừng như bừng sáng. Phải nói rằng đây là một hình ảnh có sức ám ảnh lớn đối với hồn thơ Tố Hữu. Việt Bắc trong nỗi nhớ của Tố Hữu dường như không thể thiếu được sắc hoa này. Về sau, trong bài “Theo chân Bác”, Tố Hữu sẽ viết:

“Ôi sáng xuân nay, xuân 41

Trắng rừng biên giói nở hoa mơ

Bác về. Im lặng. Con chim hót

Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ”.

Trên nền cảnh ấy hiện ra hình ảnh người Việt Bắc trong một công việc thầm lặng: “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi gịang”. Hai chữ “chuốt từng” gợi ra được dáng điệu cần mẫn, cẩn trọng và tài hoa. Không biết người đan nón kia gửi vào từng sợi giang nỗi niềm gì, ước mơ gì?

“Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình.”

Trong những bức tranh trên, chúng ta mới chỉ thấy màu sác, đường nét và ánh sáng. Đến đây chúng ta còn nghe thấy được âm thanh của rừng, đó là tiếng nhạc ve. Nhạc ve làm cho không khí trở nên xao động. Phải nói rằng trong các bức tranh ở đây thi Việt Bắc mùa hè là đặc sắc hơn cả. Trong câu thơ, chúng ta thấy dường như có một phản ứng dây chuyền chạy từ đầu đến cuối câu thơ. Ve kêu gọi hè đến, hè đến làm cho những rừng phách ngả sang màu vàng. Ai đã lên Việt Bắc, dễ thấy hình ảnh kỳ lạ của những cánh rừng phách.

Trong những ngày cuối cùng của mùa xuân, những cây phách vẫn là màu xanh, nụ hoa vẫn náu kín trong những kẽ lá. Nhưng khi những tiếng ve đầu tiên của mùa hè cất lên thì chúng nhất loạt trổ hoa vàng. Chi cổ vài ba ngày mà những rừng phách đã lênh láng sắc vàng. Chữ “đổ” là một chữ tinh tế. Nó nhấn mạnh vào khía cạnh mau lẹ trong việc biến đổi màu sắc, đồng thời diễn tả những trận mưa hoa vàng rừng phách mỗi khi có một luồng gió ào qua.

Rõ ràng, gam màu đến đây đã thay đổi hẳn, sắc trắng đã nhường chỗ hẳn cho sác vàng. Dường như âm thanh đã làm đổi thay màu sắc. Trên nền cảnh ấy xuất hiện một hình ảnh lao động đấy kiên nhẫn của một cô gái Việt Bắc: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Hình ảnh này làm toát lên dáng điệu chịu thương, chịu khó, hay lam hay làm, giàu đức hy sinh. Bao bọc lên hình ảnh này dường như chúng ta thấy sự cảm thương kín đáo của người viết. Bộ tranh này kết thúc bằng bức tranh thu. Ba bức tranh trên là cảnh ngày, riêng bức này là cảnh đêm. Bức tranh vẽ ra những ánh trăng rọi qua vòm lá tạo thành một khung cảnh huyền ảo:

“Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

“Rừng thu trăng rọi hòa bình”. Nó xui khiến ta nhớ đến một câu thơ cũng viết vể đêm rừng Việt Bắc của Hồ Chí Minh: “Trăng lồng cồ thụ bóng lồng hoa”. Đây đúng là khung cảnh trữ tình dành cho những cuộc hát giao duyên. Cho nên nó là cảnh cuối cùng: “Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”. Chữ “ai” là cách nói bóng gió, ám chỉ người đang hát cùng với mình, làm cho lời lẽ trở nên tình tứ hơn. Và qua tiếng hát chúng ta thấy được phẩm chất ân tình, chung thuỷ của người Việt Bắc.

Nhớ người Việt Bắc, người về còn nhớ cả “Tiếng hát ân tình thuỷ chung”. Đó là tâm hồn, là tình cảm của những con người miệt mài, chăm chỉ với công việc, lặng lẽ cưu mang trong mình những rung động, cảm xúc trước đất trời, trước cuộc đời. Có thể nói đây cũng là bản hòa âm của hai tâm hồn đồng điệu. Tiếng hát ân tình ấy vượt qua trập trùng núi rừng, băng qua mênh mông biển cả của thời gian mà vướng vít bước chân người đi, nó vấn vương trong lòng người đi kẻ ở, vấn vương trong cả tâm hồn người đọc.

Đoạn trích là bốn bức họa bằng thơ rất tài tình của Tố Hữu. Cảnh và người hòa quyện, đan xen khiến bức tranh nào cũng thật sinh động, ấm áp. Đoạn thơ vừa đậm chất dân tộc [thể thơ, giọng tâm tình, tha thiết] vừa mang đậm vẻ đẹp, hơi thở của thời đại [hình ảnh thơ, tình cảm cách mạng trong thơ. Nghệ thuật điệp – láy đi láy lại từ “nhớ” cùng các câu hỏi tu từ liên tiếp, dồn dập đã diễn tả thành công tình cảm tha thiết, sâu nặng của người về.

Qua đoạn thơ, ta thấy rõ đặc điểm thơ và vẻ đẹp hồn thơ Tố Hữu, kết tinh trong tình cảm lớn, lẽ sống lớn: tình cảm cách mạng, lẽ sống thủy chung với cách mạng. Vẻ đẹp bức tranh tứ bình bao gồm bốn bức tranh, bốn cảnh sắc, bốn dáng điệu. Tố Hữu đã thâu tóm được những gì là đặc trưng nhất của quê hương cách mạng. Điều thú vị là tất cả đều hiện lên trong điệp khúc nhớ thương. Những chữ “nhớ” đứng ở đầu câu tạo nên âm hưởng rất mặn mà, da diết của nỗi nhớ. Trong nỗi nhớ tất cả đều hiện lên lung linh hơn, huyền ảo hơn.

Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc mẫu 7

Nhà thơ Xuân Diệu từng nhận định: “Với Việt Bắc, hồn thơ cũng như nghề thơ Tố Hữu chín rộ,… không phải là một cây bút trong tay Tố Hữu nữa mà là nhiều ngọn bút nở cùng một lúc, bút tả tình, bút tả cảnh, bút tả người”. Thật vậy, tác phẩm là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp tả tình, tả cảnh, tả người cùng các chất liệu dân gian quen thuộc. Những yếu tố ấy thể hiện rõ ràng hơn cả trong bức tranh tứ bình về cảnh sắc thiên nhiên và con người nơi mảnh đất Việt Bắc thân thương:

“Ta về mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người. Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ ai đan nón chuốt từng sợi giang Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Nói đến Việt Bắc là nhắc đến nguồn cội của kháng chiến, nhắc đến một mảnh đất tuy “hắt hiu lau xám” nhưng “đậm đà lòng son”, dẫu gian khổ, nghèo khó mà vẫn nghĩa tình và thủy chung. Mười lăm năm “thiết tha mặn nồng” nơi mảnh đất trung du này đã để lại cho cả người cán bộ kháng chiến và đồng bào Việt Bắc bao nhiêu kỉ niệm. Rồi đến khi đất nước giành được độc lập vào năm 1954, họ phải chia tay nhau, người cán bộ kháng chiến phải về xuôi tiếp tục nhiệm vụ xây dựng đất nước. Trong lúc tiễn đưa, người đi kẻ ở, cõi lòng họ không khỏi xao xuyến, bồi hồi nỗi nhớ thương. Đó cũng là hoàn cảnh mà tác phẩm được ra đời. Bằng lời thơ giản dị, giọng thơ tâm tình, tha thiết, Tố Hữu đã gửi nỗi nhớ về Việt Bắc trong từng áng thơ trữ tình của mình. Việt Bắc vừa là khúc tình ca, vừa là khúc hùng ca về cách mạng, kháng chiến và về con người, thiên nhiên. Có thể nói, bức tranh tứ bình chính là điểm sáng cho tác phẩm, thể hiện một vẻ đẹp gắn bó hài hòa, mật thiết giữa cảnh và người.

Mở đầu là lời ướm hỏi của người về xuôi dành cho người ở lại – một câu hỏi thiết tha, trìu mến:

“Ta về, mình có nhớ ta”

Điệp từ “ta về” kết hợp với câu hỏi tu từ được sử dụng gợi ra một nỗi băn khoăn rằng: Rồi đây ta về, liệu mình có nhung nhớ ? Cách xưng hô “ta – mình” làm người đọc liên tưởng đến cách xưng hô quen thuộc trong ca dao, dân ca: “Ta về mình có nhớ ta/ Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”. Và không chờ đợi lời hồi đáp, “ta” đã giãi bày ngay lòng mình: “Ta về ta nhớ những hoa cùng người”. Sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên thể hiện qua hình ảnh đẹp “hoa cùng người”. Hoa và người kết hợp với nhau, lúc lại tô điểm lên cho vẻ đẹp của đối phương, tuy hai mà một, tuy một mà hai. Phải chăng người đi chẳng nỡ rời xa mảnh đất Việt Bắc bởi vì hình ảnh “hoa cùng người” quá đỗi xao xuyến?

Người cán bộ kháng chiến về thị thành mà lòng chưa nguôi ngoai nỗi nhớ miền ngược: nhớ hoa, nhớ cảnh, nhớ cả con người nơi đây. Tám câu thơ tiếp theo chính là cảnh sắc thiên nhiên Việt Bắc bốn mùa xoay chuyển từ đông, xuân sang hạ, thu với màu sắc tươi tắn và âm thanh sống động, rộn ràng. Mỗi mùa ở Việt Bắc được tác giả Tố Hữu nhắc đến với những hình ảnh rất riêng biệt và khởi đầu cho bức tranh bốn mùa là khung cảnh mùa đông nơi núi rừng:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh, dao gài thắt lưng”

Điểm xuyết trên nền xanh của rừng là màu đỏ của hoa chuối. Trông từ xa xa, giữa một mảnh rừng xanh ngắt, sự xuất hiện của bông hoa chuối nổi bật hơn cả, vừa rạng rỡ, sáng ngời, lại vừa lạ mắt, độc đáo. Người ta thường nhắc đến mùa đông, đặc biệt hơn là mùa đông miền cao với cái lạnh giá buốt, cái rét căm căm thấu da thấu thịt. Thế nhưng, màu đỏ của hoa chuối như màu của bó đuốc thắp lên xua tan cái buốt lạnh của những ngày mưa phùn gió bấc. Thiên nhiên núi rừng Việt Bắc từ đó trở nên ấp, tiềm ẩn một sức sống mới, sẵn sàng bừng nở vào mùa xuân. Bức tranh mùa đông được vẽ ra sống động mà chỉ cần một câu thơ kết hợp giữa đường nét và màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa, vừa cổ điện lại hiện đại.

Trên nền khung cảnh mùa đông, chúng ta bắt nét đẹp khỏe khoắn của đồng bào Việt Bắc. Hình ảnh hoán dụ “dao gài thắt lưng” trên đèo cao ngập tràn nắng vàng không chỉ ai khác hơn là con người của miền sơn cước. Con dao ở thắt lưng còn là vật bất ly thân của những người dân nơi đây; họ bao giờ cũng mang theo nó để phát quang, vượt chướng ngại và đề phòng thú dữ. Không miêu tả cử chỉ hay nét mặt mà Tố Hữu chọn miêu tả ánh nắng phản chiếu lại từ vật dụng quen thuộc của con người miền núi. Dẫu chỉ là một chi tiết nhỏ, nhưng người đọc vẫn thấy được vẻ đẹp sáng ngời, tự tin của đồng bào Việt Bắc. Họ, trong tư thế lao động khỏe khoắn, hiên ngang, vượt lên trên mọi khó khăn, gian khổ, làm chủ cuộc sống, làm chủ thiên nhiên.

Nếu bức tranh mùa đông rực rỡ, ấm áp với gam màu đỏ và xanh thì bức tranh mùa xuân lại nên thơ, nhẹ nhàng, trong trẻo với màu trắng của hoa mơ – một loài hoa đặc trưng cho mùa xuân Việt Bắc:

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Trong tác phẩm “Theo chân Bác”, Tố Hữu cũng từng nhắc đến sắc trắng hoa mơ nở đầy một rừng nơi biên giới: “Ôi sáng xuân nay xuân 41/ Trắng rừng biên giới nở hoa mơ”. Hay trong “Gái xuân”, nhà thơ Nguyễn Bính cũng viết: “Xuân đến, hoa mơ, hoa mận nở”. Cả không gian núi rừng như bùng lên sức sống mơn mởn, bừng sáng bởi màu sắc của loài hoa này. Chính động từ “nở” đã làm cho sắc trắng như thêm sinh động hơn, như đang cựa quậy, bật tung ra khỏi nụ hoa.

Vẫn trên nền khung cảnh mùa xuân ấy, người về xuôi nhớ đến bóng dáng của những đồng bào Việt Bắc. Cảnh xuân xinh đẹp hơn bởi lẽ có thêm sự xuất hiện của con người trong tư thế lao động: “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”. Hình ảnh “chuốt từng sợi giang” gợi lên vẻ đẹp khéo léo, tài hoa cùng cả sự kiên nhẫn trong lúc lao động, mà cụ thể là trong lúc làm ra những chiếc nón của người dân mảnh đất Việt Bắc.

Cảnh vật trong bức tranh lại chuyển sang một mùa mới – mùa hè. Mùa hạ hiện về trong nỗi nhớ của người về xuôi trong sắc vàng rực rỡ, trong tiếng ve kêu rộn rã:

“Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Từ “đổ vàng” dùng tại đây thật tinh và chính xác, diễn tả được sự chuyển đổi sắc màu đột ngột từ màu trắng hoa mơ sang màu vàng của rừng thông. Ta nhớ đến ý thơ trong “Thơ duyên” của Xuân Diệu cũng từng gợi ra sự chuyển đổi sắc màu lúc thu về: “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá/Thu đến nơi nơi động tiếng huyền.” Những ngày cuối xuân, rừng cây hãy còn màu xanh bạt ngàn. Nhưng khi tiếng ve ngân vang, gọi hạ, từng nụ hoa e ấp trong kẽ lá lại đồng loạt trổ vàng. “Tiếng ve” đặt cạnh “phách đổ vàng” tạo ra một hiện tượng nhân quả khá thú vị: Ta ngỡ tiếng ve như bát màu sóng sánh, vàng rực đổ qua muôn lá muôn cây của núi rừng, biến chúng trở nên lấp lánh chói mắt.

Giữa “rừng phách đổ vàng” thấp thoáng hình ảnh cô thiếu nữ miền sơn cước cần mẫn, chịu thương chịu khó “hái măng một mình” để góp một phần sức lao động nuôi quân, phục vụ sản xuất, phục vụ kháng chiến. Hai chữ “một mình” gợi một vẻ đẹp thầm lặng trong lao động không chỉ của riêng cô mà còn của tất cả người dân Việt Bắc.

Một lần nữa, cảnh lại chuyển đổi khi thu về. Bộ bốn bức tranh kết thúc bằng bức tranh thu với rừng thu cao rộng và trăng thu thanh bình:

“Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Ánh trăng thu huyền ảo, trong trẻo rọi xuống chiến khu Việt Bắc khiến ta hình dung ra một cảnh tượng hết sức yên ả, thanh bình và nên thơ. Mùa thu cũng là thời điểm cuộc kháng chiến chống Pháp kéo dài hơn trăm năm của đất nước Việt Nam. Trong các phẩm được ra đời vào giai đoạn kháng chiến, trăng chiến khu đã làm bạn với rất nhiều nhà thơ. Ví dụ như vầng trăng trong thơ của Bác: “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa” [Cảnh khuya] hay “Rằm xuân lồng lộng trăng soi” [Rằm tháng Giêng] Nhưng, ánh trăng hôm nay không còn như trước, đây là ánh sáng soi rọi cuộc sống mới tự do, độc lập, thanh bình của con người. Trong những đêm trăng thu yên ả ấy lại xuất hiện “tiếng hát ân tình thủy chung” ghi lòng tạc dạ người ra đi. Tiếng hát thể hiện vẻ đẹp tâm hồn lạc quan, yêu đời, nếp sống ân tình, thủy chung của người dân miền núi.

Đoạn thơ đã miêu tả được trọn vẹn vẻ đẹp của cảnh và người nơi chiến khu Việt Bắc dẫu chỉ bằng những đường nét, màu sắc đơn giản: cảnh mùa đông rực rỡ, tiềm tàng sức sống; mùa xuân trong trẻo, nên thơ; hạ về tươi tắn và thu đến thanh bình. Cũng vì đó, nhà phê bình Hoài Thanh đã nói về những vần thơ miêu tả thiên nhiên của Tố Hữu “có thể so sánh với bất kì đoạn miêu tả thiên nhiên nào trong thơ ca cổ điển. Nhà thơ Tố Hữu tài tình ở chỗ, mỗi câu thơ tả cảnh của ông lại kèm theo tả các hoạt động của con người. Đồng thời khắc họa bức tranh thiên nhiên vừa khắc họa cả vẻ đẹp của con người. Không phải là tư thế hùng dũng, oai nghiêm, khí thế ngập trời, con người Việt Bắc trong nỗi nhớ gần gũi, bình dị, hiện lên qua những công việc giản đơn, đời thường: đi làm nương rẫy, đan nón, hái măng… Họ ẩn chứa bao vẻ đẹp, phẩm chất quý giá như cần cù, siêng năng, kiên nhẫn, chịu thương chịu khó, tài hoa tỉ mỉ trong công việc, thủy chung trong nghĩa tình. Bức tranh bốn mùa còn thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng của tác giả, của người cán bộ kháng chiến với mảnh đất Việt Bắc. Mảnh đất này trở thành một phần trong con người họ, hóa thành máu thịt của họ, thành tâm hồn của họ như nhà thơ Chế Lan Viên viết: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”.

Bức tranh tứ bình là sự kết hợp của nhiều nghệ thuật mang đậm tính dân tộc. Tố Hữu sử dụng thể thơ lục bát, lối xưng hô “mình – ta” tạo nên âm điệu trữ tình ngọt ngào, đằm thắm, mang đậm phong vị ca dao. Điệp từ “nhớ” tạo cho đoạn thơ trở thành một điệp khúc nhớ thương da diết. Hình ảnh dành riêng cho mỗi mùa không mang tính ước lệ mà ngược lại gần gũi, gắn liền với cảnh và người dân Việt Bắc. Ngôn ngữ giản dị, trong sáng, giàu cảm xúc, giàu hình ảnh cùng nhạc điệu đã góp phần làm nên cái hay cho đoạn thơ. Kết cấu đoạn thơ cân đối, hài hòa với 4 cặp câu trong đó xen kẽ một câu tả cảnh kèm một câu tả người đã tô đậm mối quan hệ gắn bó giữa hai đối tượng. Người làm đẹp cho cảnh, cảnh làm nền cho người. Thông thường trật tự các mùa thường bắt đầu từ mùa xuân, kết thúc bởi mùa đông. Thế nhưng, trật tự tả cảnh ở đây lại từ đông sang xuân rồi hạ, đến thu. Mục đích của nhà thơ là tô đậm được ấn tượng về mùa thu chiến thắng, mùa thu hòa bình lúc bấy giờ của đất nước.

Với những nét chấm phá, màu sắc tươi sáng, hình ảnh giàu tính biểu tượng, đặc trưng, Tố Hữu đã thành công tạo nên khung cảnh thiên nhiên, con người Việt Bắc hết sức sống động. Có thể nói, đây là một trong những đoạn thơ đặc sắc nhất, tài hoa nhất thấm đẫm tinh thần dân tộc trong bài “Việt Bắc”. Nó góp phần làm cho bài thơ xứng đáng là viên ngọc sáng long lanh trong kho tàng văn học hiện đại Việt Nam. Để tổng kết lại, tôi xin trích ra đây một nhận xét của tác giả Nguyễn Đăng Mạnh về giá trị của tác phẩm: “Sức hấp dẫn mạnh nhất của thơ Tố Hữu đối với công chúng đông đảo là tính dân tộc, tính truyền thống đậm đà và nhuần nhuyễn”.

Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc mẫu 8

Ngoài là một nhà thơ xuất sắc, Tố Hữu còn là một người chiến sĩ cách mạng hết lòng vì đất nước. Bởi vậy thơ ông luôn toát lên ý chí cách mạng và tinh thần dân tộc sâu sắc mang đậm khí thế hào hùng nhưng cũng ngọt ngọt ngào phong vị trữ tình sâu lắng. Việt Bắc là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của Tố Hữu. Bài thơ vừa là khúc hùng ca về cuộc kháng chiến vừa là khúc tình ca mang đầy màu sắc khi miêu tả thiên nhiên và con người vùng núi mà nổi bật nhất là đoạn thơ khắc họa bức tranh bốn mùa tuyệt đẹp.

“Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh, dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.

Tố Hữu viết bài thơ này vào tháng 10 năm 1954 sau khi chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi miền Bắc được giải phóng trở lại và tiếp tục cuộc sống mới. Những người chiến sĩ cách mạng sau bao năm tháng chiến đấu gian khổ từ căn cứ miền núi trở về lại miền xuôi. Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về lại thủ đô. Bài thơ ra đời nhân một sự kiện lớn của đất nước có vai trò như là một áng văn tổng kết lại mười năm năm kháng chiến gian khổ mà đầy tình nghĩa ấm áp của người dân miền núi giản dị hiền hậu.

Bên cạnh những câu thơ mang đậm khí thế hào hùng ghi lại cuộc kháng chiến bài thơ còn có những đoạn thơ thấm đẫm chất trữ tình dạt dào tình cảm thắm thiết. Cho nên ngoài miêu tả cuộc cách mạng Tố Hữu còn miêu tả cuộc sống và thiên nhiên Việt Bắc nơi ông và đồng đội gắn bó như ruột thịt. Nhớ về miền núi là nhớ về con người và thiên nhiên đầy màu sắc tươi đẹp. Bằng thể thơ lục bát truyền thống tác giả đã vẽ lên hình ảnh Việt Bắc qua bốn mùa trong năm tạo thành bức tranh tứ bình tuyệt đẹp và hoàn thiện. Cũng giống như những đoạn thơ khác phần mở đầu là lời đối đáp mình- ta quen thuộc trong ca dao, nó như lời mở đầu của đưa đẩy trong các cuộc hát giao duyên:

“Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người.”

Người trở về vừa ướm hỏi vừa khẳng định tình cảm của mình với người ở lại. Dù không còn gắn bó nhưng vẫn luôn nhớ về nơi này với những gì đẹp nhất “những hoa cùng người”. Hoa là thứ đẹp nhất của thiên nhiên đất trời. Và mỗi con người ở đây cũng như những bó hoa tươi đẹp toát lên ở tâm hồn và phẩm chất, họ luôn nồng hậu, tình nghĩa. Người và hoa hiện diện trong nỗi nhớ của người đi. Nhớ đến hoa là nhớ đến người và nhớ đến người là luôn xuất hiện sắc hoa tươi tắn. Nhờ thế chủ mà chủ đề của đoạn thơ đã được giới thiệu một cách rất tự nhiên đó là hoa và con người Việt Bắc những câu thơ tiếp theo đã lần lượt vẽ lên rõ ràng hình ảnh đó:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.

Nói đến miền núi Việt Bắc là nói đến sự bạt ngàn của những cánh rừng nơi con người và thiên nhiên chung sống hài hòa gắn bó. Vậy nên gam màu chủ đạo của bức tranh đầu tiên này là một màu xanh tươi mát bất tận của các loại cây rừng nó gợi ra hình ảnh một xứ sở êm đềm, lặng lẽ và càng yên tĩnh hơn trong mùa đông giá rét. Thời tiết lạnh lẽo nhưng trên cái nền xanh mênh mông đó nổi bật lên một gam màu tươi tắn rực rỡ đó là màu đỏ của những bông hoa chuối rừng. Bông hoa chuối đỏ tươi với thân tròn, đầu thuôn nhọn về phía trước như những ngọn đốt cháy rực. Hoa chuối là một loài hoa quen thuộc và tác giả không miêu tả nhiều về nó chỉ với hai chữ “đỏ tươi” nhưng cũng đã gợi lên sự rực rỡ lạ thường làm không gian xanh ngát trở nên sáng hơn, rất đẹp khi có điểm nhấn cực kỳ ấn tượng đó. Đồng thời khung cảnh núi rừng lại được tô điểm thêm bởi tia nắng ở câu tiếp theo “ Đèo cao nắng ánh” càng làm cho không khí vốn trầm mặc đơn điệu trở nên tươi tắn và sinh động hơn rất nhiều trên nền cảnh thiên nhiên ấy hình ảnh con người xuất hiện:

“Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.

Vùng miền núi với những ngọn đồi cao thấp tạo nên địa hình hiểm trở đặc trưng cho nơi đây. Người dân Việt Bắc lao động ở đó, đứng trên những ngọn đồi cao làm công việc thường ngày. Dù trời vào đông nhưng trên núi vẫn có nắng dịu nhẹ ấm áp. Những tia nắng chiếu xuống ngọn đồi, chiếu cả vào chiếc dao làm rừng tạo nên ánh sáng chói lóa như có thêm một mặt trời thứ hai. Ánh nắng mặt trời lấp lánh đi theo con người lao động không chỉ gợi lên sự lung linh mà hình ảnh này còn thể hiện một tư thế tự tin, vững chãi của người làm chủ núi rừng bạt ngàn rộng lớn. Tố Hữu mô tả con người trong tư thế ấy không chỉ ở mỗi bài thơ này, trong bài Lên Tây Bắc tác giả cũng viết:

“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều

Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo

Núi không đè nổi vai vươn tới

Lá ngụy trang reo với gió đèo.”

Những dãy núi, ngọn đồi kỳ vĩ nối tiếp nhau với địa hình hiểm trở khó đi, nhưng những con người vẫn lao động không ngại gian khổ đã gắn bó với núi rừng và làm chủ nơi bạt ngàn kỳ vĩ đó. Hình ảnh con người vẫn hiện lên thật đẹp nổi bật với ánh sáng của sự hy vọng và vươn lên. Tố Hữu đã rất tài tình khi viết lên câu thơ này song song cùng màu đỏ tươi của bông hoa chuối là con người khỏe khoắn sáng lên ánh dao phản chiếu mặt trời chói lóa. Ở bức tranh thứ hai cảnh vật lại mang một vẻ đẹp khác:

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”.

Sau màu xanh ngắt ngút ngàn của núi rừng là màu trắng tinh khiết của hoa mơ. Chữ “trắng rừng” khiến cả khu rừng như bừng sáng lên phải nói rằng đây là một hình ảnh có sức ám ảnh lớn đối với Tố Hữu nó không chỉ nói lên màu trắng của hoa mơ mà còn như thể hiện sự trong sáng mới mẻ của cuộc sống mới sau này vậy. Trong bài Theo chân Bác Tố Hữu cũng nói đến sắc trắng của rừng mơ.

“Ôi Sáng xuân nay xuân 41

Trắng rừng biên giới ngói nở hoa

Bác về im lặng con chim hót

Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ”.

Mùa xuân ở miền núi mang đặc trưng bởi sắc trắng của những chùm hoa mơ rừng. Đó là màu trắng tinh khôi trong trẻo thanh khiết của đất trời ngày xuân mới bắt, đầu một năm mới. Trên nền trắng tinh khôi đó hiện lên hình ảnh con người trong công việc thầm lặng mà đầy tính nghệ thật:

“Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”.

Người miền núi không chỉ đi làm nương rẫy mà họ còn làm những việc thủ công đòi hỏi sự khéo léo, bền bỉ. Hai chữ “chuốt từng” như miêu tả một hành động vô cùng tỉ mỉ và cẩn thận. Con người Việt Bắc không chỉ khỏe mạnh cần cù mà còn rất tài hoa. Hai bức tranh đầu tiên đã vẽ lên hình ảnh con người và thiên nhiên trong hai mùa đông và xuân với đường nét, màu sắc và ánh sáng đến bức tranh tiếp theo đã xuất hiện âm thanh:

“Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Âm thanh rộn rã của tiếng ve trong mùa hè đã làm tưng bừng rộn rã cả không gian núi rừng. Trời nắng gắt, tiếng ve càng làm cho không gian sao động, tác giả sử dụng động từ “đổ” thật độc đáo và gợi hình như có sự phản ứng theo dây chuyền. Âm thanh rộn rã của tiếng ve đã làm những rừng phách chuyển màu vàng. Từ “đổ” là một động từ mạnh diễn tả trạng thái nhanh và bất ngờ. Đây là một hình ảnh kỳ lạ và đặc biệt ở những cánh rừng phách Việt Bắc: trong những ngày cuối cùng của mùa xuân những cây phách vẫn có màu xanh, nụ hoa vẫn giấu kín trong những kẽ lá nhưng khi tiếng ve đầu tiên của mùa hạ cất lên chúng đột ngột nở rộ những chùm hoa vàng rực. Cả rừng cây cởi bỏ bộ áo trắng tinh khiết của hoa mơ vào mùa xuân để khoác lên mình tấm áo vàng rực rỡ trong mùa hè sôi động gay gắt. Trên nền tràn ngập màu sắc ấy lại là hình ảnh rất bình dị của con người: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Giữa sự sôi động rực rỡ của cảnh vật trong mùa hè là sự kiên nhẫn thầm lặng của một người con gái một mình hái những búp măng rừng. Hình ảnh đó toát lên dáng điệu chịu thương chịu khó giàu đức hi sinh. Ta thấy được cả sự cảm thương kín đáo của tác giả qua câu thơ.

Bộ tranh tứ bình kết thúc bằng bức tranh mùa thu trong đêm. Cả ba bức tranh trước đều miêu tả cảnh ngày, riêng bức tranh cuối này lại được miêu tả vào ban đêm. Phải chăng mùa thu là mùa mà vầng trăng tròn và sáng nhất.

“Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Khu rừng trong đêm âm u tĩnh mịch mà lấp lánh sáng ngời bởi ánh trăng và đó chính là hình ảnh của sự tự do. Ánh trăng sáng tươi đẹp trên nền bầu trời hòa bình của dân tộc. Trong đêm trăng tươi đẹp những con người Việt bắt cất lên câu hát ngọt ngào đó là câu hát giao duyên đằm thắm vui tươi. Nhớ về con người là nhớ về hình dáng lao động và cả tiếng hát của họ. Âm thanh đó không chỉ làm xao xuyến tâm hồn mà nó còn có một sức ám ảnh khôn nguôi.

Bằng những câu thơ lục bát nhẹ nhàng với cách sử dụng từ ngữ linh hoạt đầy tài hoa, Tố Hữu đã vẽ lên bức tranh tứ bình tuyệt đẹp về con người và thiên nhiên nơi rừng núi hoang sơ mà tươi đẹp Việt Bắc. Đoạn thơ mang nét cổ điển của thi ca truyền thống khi miêu tả cảnh thiên nhiên thành bộ tranh tứ bình tuyệt đẹp và trọn vẹn nhưng cũng mang màu sắc vô cùng tươi mới hiện đại bởi trong bức tranh đó luôn có hình ảnh con người đang xen một cách hài hòa. Con người nổi bật trên nền thiên nhiên, làm chủ thể cho vẻ đẹp. Việt Bắc vì thế được miêu tả hoàn thiện trong bốn mùa mỗi mùa đều mang màu sắc và hoạt động riêng của con người nhưng đều đẹp và thơ mộng.

Mười câu thơ trên chính là đoạn thơ tiêu biểu nhất trong tác phẩm Việt Bắc một bài thơ dài và ý nghĩa. Phải có một tài năng đặc biệt, một tấm lòng yêu đời yêu người tha thiết Tố Hữu mới có thể viết lên những câu thơ hay đến như vậy.

------

Trên đây VnDoc đã giới thiệu tới các em bài Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc. Bài viết được tổng hợp gồm có dàn ý và bài văn mẫu Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc. Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm nhiều tài liệu để học tập tốt hơn môn Ngữ văn lớp 12 nhé. Để có kết quả cao hơn trong học tập, VnDoc xin giới thiệu tới các em học sinh tài liệu Để học tốt Địa lý 12, Giải Toán 12 nâng cao, Tiếng Anh lớp 12 mới, Môn Vật lý 12 mà VnDoc tổng hợp và đăng tải.

Bức tranh tứ bình có nghĩa là gì?

Tranh tứ bình là bộ tranh gồm bốn bức, thường có hàm ý ẩn dụ cho bốn giai đoạn trong một năm, bốn giai đoạn trong cuộc đời, bốn giai thoại trong một câu chuyện hoặc bốn vẻ đẹp khác nhau của các cô gái..., thường có những câu thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm.

Bức tranh Tứ Bình nằm ở đâu?

Sở hữu vẻ đẹp hoang sơ và quyến rũ, đảo Bình Hưng chính là mảnh ghép quý giá trong bức tranh Tứ Bình được thiên nhiên ban tặng cho thành phố biển Nha Trang. Nơi đây được ví như Maldives thu nhỏ tại Việt Nam với cảnh quan hữu tình, thơ mộng cùng làn nước trong veo soi rõ tận sâu đến đáy.

Bức tranh tứ bình bao nhiêu câu?

Tiêu biểu là bài Việt Bắc ta có thể nói, kết tinh của tác phẩm được lắng đọng trong mười câu thơ đã diễn tả nỗi nhớ của người về xuôi với cảnh thiên nhiên và con người nơi Việt Bắc hòa quyện thành bức tranh tứ bình. Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Chủ Đề