Chuẩn đầu ra thạc sĩ đại học Thủ Dầu Một

11:48, 06/09/2021

Vừa qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư 23/2021/TT-BGDĐT về quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ thạc sĩ. Theo đó, từ ngày 15/10/2021, chuẩn đầu ra về trình độ ngoại ngữ của chương trình đào tạo thạc sĩ sẽ có sự thay đổi.

Nâng chuẩn đầu ra về ngoại ngữ đối với trình độ Thạc sĩ kể từ ngày 15/10/2021 [Ảnh minh họa]

Cụ thể, tại điểm b khoản 1 Điều 12 Thông tư 23/2021/TT-BGDĐT quy định một trong những điều kiện để học viên được công nhận tốt nghiệp là:

Có trình độ ngoại ngữ đạt yêu cầu theo chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo trước thời điểm xét tốt nghiệp; được minh chứng bằng một trong các văn bằng, chứng chỉ sau:

- Chứng chỉ ngoại ngữ đạt trình độ tương đương Bậc 4 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam quy định tại Phụ lục của Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ thạc sĩ ban hành kèm Thông tư 23/2021

- Các chứng chỉ tương đương khác do Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố,

- Bằng tốt nghiệp trình độ đại học trở lên ngành ngôn ngữ nước ngoài, hoặc bằng tốt nghiệp trình độ đại học trở lên ngành khác mà chương trình được thực hiện hoàn toàn bằng ngôn ngữ nước ngoài.

Hiện nay, theo điểm a khoản 1 Điều 32 Thông tư 15/2014/TT-BGDĐT quy định điều kiện để tốt nghiệp thạc sĩ là người học phải đạt trình độ ngoại ngữ do thủ trưởng cơ sở đào tạo quy định theo đề nghị của hội đồng khoa học đào tạo nhưng tối thiểu phải từ bậc 3/6 trở lên theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam hoặc tương đương [Phụ lục II];

Như vậy, kể từ ngày 15/10/2021, chuẩn đầu ra tối thiểu về trình độ ngoại ngữ đối với người học thạc sĩ đã được nâng lên một bậc.

Ngoài ra, Thông tư 23/2021 còn quy định các điều kiện khác để được công nhận tốt nghiệp trình độ thạc sĩ, bao gồm:

- Đã hoàn thành các học phần của chương trình đào tạo và bảo vệ luận văn, đề án đạt yêu cầu;

- Hoàn thành các trách nhiệm theo quy định của cơ sở đào tạo; không bị truy cứu trách nhiệm hình sự và không trong thời gian bị kỷ luật, đình chỉ học tập.

Bên cạnh đó, cơ sở đào tạo tổ chức xét và ra quyết định công nhận tốt nghiệp trong thời hạn 02 tháng tính từ ngày học viên bảo vệ thành công luận văn, đề án; tối đa thêm 03 tháng trong trường hợp phải tổ chức thẩm định luận văn, đề án.

Đồng thời, cơ sở đào tạo cấp bằng thạc sĩ cho học viên trong thời hạn 01 tháng tính từ ngày có quyết định công nhận tốt nghiệp.

Quy định này có hiệu lực và áp dụng đối với các khóa trúng tuyển từ ngày 15/10/2021.

Bảo Ngọc

Điều 5 Quy chế tuyển sinh và đào tạo thạc sĩ ban hành kèm Thông tư 23 yêu cầu ứng viên dự tuyển thạc sĩ phải đáp ứng các điều kiện sau:

[1] Đã tốt nghiệp hoặc đủ điều kiện tốt nghiệp đại học [hoặc trình độ tương đương trở lên] ngành phù hợp. Riêng đối với chương trình định hướng nghiên cứu thì yêu cầu hạng tốt nghiệp từ khá trở lên hoặc có công bố khoa học liên quan đến lĩnh vực sẽ học tập, nghiên cứu.

Trong đó, ngành phù hợp là ngành đào tạo ở trình độ đại học [hoặc trình độ tương đương trở lên] trang bị nền tảng chuyên môn cần thiết để học tiếp chương trình đào tạo thạc sĩ của ngành tương ứng, được quy định cụ thể trong chuẩn đầu vào của chương trình đào tạo thạc sĩ.

Cơ sở đào tạo quy định những trường hợp phải học bổ sung trước khi dự tuyển.

Đối với các ngành quản trị và quản lý được đào tạo theo chương trình thạc sĩ định hướng ứng dụng, ngành phù hợp ở trình độ đại học bao gồm các ngành liên quan trực tiếp tới chuyên môn, nghề nghiệp của lĩnh vực quản trị, quản lý.

[2] Có năng lực ngoại ngữ từ Bậc 3 trở lên theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam. Cụ thể, ứng viên phải có một trong các văn bằng, chứng chỉ sau:

  • Bằng tốt nghiệp độ đại học trở lên ngành ngôn ngữ nước ngoài; hoặc bằng tốt nghiệp đại học trở lên mà chương trình được thực hiện chủ yếu bằng ngôn ngữ nước ngoài;
  • Bằng tốt nghiệp đại học trở lên do chính cơ sở đào tạo cấp trong thời gian không quá 02 năm mà chuẩn đầu ra đã đáp ứng yêu cầu ngoại ngữ đạt trình độ từ Bậc 3 trở lên theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam;

  • Một trong các văn bằng hoặc chứng chỉ ngoại ngữ đạt trình độ tương đương từ Bậc 3 trở lên theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam.
[3] Đáp ứng các yêu cầu khác của chuẩn chương trình đào tạo do Bộ Giáo dục ban hành và theo quy định của chương trình đào tạo.

Trường hợp ứng viên là người nước ngoài

Ngoài các điều kiện trên, khoản 4 Điều 5 còn quy định, nếu công dân nước ngoài đăng ký theo học thạc sĩ bằng tiếng Việt thì phải đạt trình độ tiếng Việt từ Bậc 4 trở lên theo Khung năng lực tiếng Việt dùng cho người nước ngoài hoặc đã tốt nghiệp đại học [hoặc trình độ tương đương trở lên] giảng dạy bằng tiếng Việt.

Bên cạnh đó, có thể còn phải đáp ứng yêu cầu về ngoại ngữ thứ hai theo quy định của cơ sở đào tạo [nếu có].

Đối với chương trình đào tạo bằng tiếng nước ngoài

Bên cạnh các điều kiện chung, theo khoản 5 Điều 5, trong trường hợp chương trình đào tạo được dạy và học bằng tiếng nước ngoài, ứng viên phải có một trong những văn bằng, chứng chỉ sau đây:

- Bằng tốt nghiệp đại học trở lên ngành ngôn ngữ sử dụng trong giảng dạy; hoặc bằng tốt nghiệp đại học trở lên mà chương trình được thực hiện chủ yếu bằng ngôn ngữ sử dụng trong giảng dạy;

- Một trong các văn bằng, chứng chỉ của ngôn ngữ sử dụng trong giảng dạy đạt trình độ tương đương từ Bậc 4 trở lên theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam.

Điều kiện học thạc sĩ [Ảnh minh họa]

2. Quy định về tổ chức tuyển sinh đào tạo sinh thạc sĩ

Theo Điều 6 Quy chế ban hành kèm Thông tư 23, cơ sở đào tạo quyết định có thể tổ chức tuyển sinh trình độ thạc sĩ một hoặc nhiều lần trong năm khi đáp ứng đủ điều kiện bảo đảm chất lượng thực hiện chương trình đào tạo thạc sĩ theo quy định hiện hành.

Trong đó, phương thức tuyển sinh do cơ sở đào tạo quyết định bao gồm thi tuyển, xét tuyển hoặc kết hợp giữa thi tuyển và xét tuyển.

Ngoài ra, khi đáp ứng những điều kiện bảo đảm chất lượng để kết quả đánh giá tin cậy và công bằng như đối với tuyển sinh trực tiếp, thì cơ sở đào tạo được tổ chức tuyển sinh trực tuyến.

Trên đây là các quy định về điều kiện học thạc sĩ từ ngày 15/10/2021. Nếu có thắc mắc cần giải đáp về lĩnh vực giáo dục, bạn đọc liên hệ 1900.6192 để được hỗ trợ.

>> 11 điểm mới trong Quy chế tuyển sinh đào tạo thạc sĩ theo Thông tư 23

>> Nâng chuẩn đầu ra trình độ ngoại ngữ bậc thạc sĩ

1. Chuẩn đầu vào phải có ngoại ngữ bậc 3

Trước đây, các điều kiện về hạng tốt nghiệp hay năng lực ngoại ngữ dự tuyển vào chương trình thạc sĩ đều không được quy định cụ thể trong Quy chế tuyển sinh thạc sĩ ban hành kèm Thông tư 15/2014/TT-BGDĐT.

Tuy nhiên, theo Điều 5 Quy chế mới ban hành kèm Thông tư 23/2021, người dự tuyển trình độ thạc sĩ sẽ phải đáp ứng các điều kiện:

- Đã tốt nghiệp hoặc đủ điều kiện công nhận tốt nghiệp đại học [hoặc trình độ tương đương trở lên] ngành phù hợp. Đối với chương trình định hướng nghiên cứu thì hạng tốt nghiệp từ khá trở lên hoặc có công bố khoa học liên quan đến lĩnh vực học tập, nghiên cứu;

- Có năng lực ngoại ngữ Bậc 3 trở lên theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam. Trong đó, ứng viên phải có 01 trong các văn bằng chứng chỉ sau:

a] Bằng tốt nghiệp trình độ đại học trở lên ngành ngôn ngữ nước ngoài; hoặc bằng tốt nghiệp trình độ đại học trở lên mà chương trình được thực hiện chủ yếu bằng ngôn ngữ nước ngoài;

b] Bằng tốt nghiệp trình độ đại học trở lên do chính cơ sở đào tạo cấp trong thời gian không quá 02 năm mà chuẩn đầu ra của chương trình đã đáp ứng yêu cầu ngoại ngữ đạt trình độ Bậc 3 trở lên theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam;

c] Một trong các văn bằng hoặc chứng chỉ ngoại ngữ đạt trình độ tương đương Bậc 3 trở lên theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam quy định tại Phụ lục của Quy chế này hoặc các chứng chỉ tương đương khác do Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố, còn hiệu lực tính đến ngày đăng ký dự tuyển.

Điểm mới trong tuyển sinh và đào tạo thạc sĩ [Ảnh minh họa]
 

Theo khoản 2 Điều 6, cơ sở đào tạo được tổ chức tuyển sinh theo các phương thức: thi tuyển, xét tuyển hoặc kết hợp giữa thi tuyển và xét tuyển. Cơ sở đào tạo được tổ chức tuyển sinh trực tuyến khi đáp ứng những điều kiện bảo đảm chất lượng để kết quả đánh giá tin cậy và công bằng như đối với tuyển sinh trực tiếp.

Trong khi đó, theo quy chế tuyển sinh và đào tạo cũ, các trường chỉ được tổ chức tuyển sinh trực tiếp theo phương thức thi tuyển đối với người Việt Nam và xét tuyển đối với người nước ngoài có nguyện vọng học thạc sĩ tại Việt Nam.
 

3. Không giới hạn số lần tuyển sinh trong năm

Tại khoản 1 Điều 6 Quy chế ban hành kèm Thông tư 23 quy định, việc tuyển sinh có thể được tổ chức một hoặc nhiều lần trong năm chứ không còn giới hạn 2 lần mỗi năm như trước.

Trong đó, việc tổ chức tuyển sinh sẽ do cơ sở đào tạo quyết định khi đáp ứng đủ các điều kiện bảo đảm chất lượng thực hiện chương trình đào tạo thạc sĩ theo quy định hiện hành.
 

4. Cho phép chuyển đổi tín chỉ và đăng ký trước học phần

Căn cứ Điều 4, người học được xem xét công nhận và chuyển đổi tín chỉ của một số học phần khi đã học một chương trình đào tạo thạc sĩ khác hoặc đã tốt nghiệp một chương trình đào tạo chuyên sâu đặc thù. Số tín chỉ được công nhận và chuyển đổi không vượt quá 30 tín chỉ.

Bên cạnh đó, sinh viên đang học chương trình đại học [hoặc trình độ tương đương trở lên] có học lực khá trở lên và các điều kiện khác do cơ sở đào tạo quy định có thể được đăng ký học trước một số học phần của chương trình thạc sĩ tại cùng cơ sở đào tạo. Số tín chỉ được công nhận không vượt quá 15 tín chỉ.

Đây là một trong những quy định mới được bổ sung nhằm liên thông giữa các trình độ giáo dục đại học, tạo điều kiện cho các trường xây dựng chương trình đào tạo trình độ đại học liên thông với trình độ thạc sĩ.
 

5. Quy định cụ thể về địa điểm, thời gian học tập

Điều 7 Quy chế mới quy định cụ thể địa điểm tổ chức đào tạo là trụ sở chính hoặc phân hiệu của cơ sở đào tạo. Các hoạt động thực hành, thực tập, nghiên cứu và trải nghiệm thực tế có thể được tổ chức ở ngoài cơ sở đào tạo nhưng không vượt quá 20% khối lượng chương trình đào tạo.

Đối với các ngành về lĩnh vực sức khỏe, việc tổ chức đào tạo tại các cơ sở thực hành được thực hiện theo quy định của Chính phủ, đáp ứng yêu cầu của chương trình và phải được thể hiện trong kế hoạch giảng dạy.

Bên cạnh đó, khoản 4 Điều 7 còn quy định, thời khóa biểu của người học phải thể hiện thời gian, địa điểm, hoạt động dạy và học của từng lớp học thuộc các khoá học, hình thức và chương trình đào tạo.

Kế hoạch giảng dạy, học tập các học phần trong chương trình đào tạo được bố trí đều trong các tuần của học kỳ. Trường hợp cần thiết phải xếp lịch học tập trung thời gian thì số giờ giảng đối với mỗi học phần không vượt quá 15 giờ/tuần và 04 giờ/ngày.

So với quy chế tuyển sinh và đào tạo thạc sĩ cũ, các quy định trên đều là nhưng yêu cầu mới bổ sung mà trước đây chưa có.

Điểm mới trong tuyển sinh và đào tạo thạc sĩ [Ảnh minh họa]

6. Bổ sung hình thức đào tạo vừa học vừa làm

Về hình thức đào tạo, Điều 3 Quy chế ban hành kèm Thông tư 23 bổ sung thêm hình thức vừa làm vừa học cho chương trình định hướng ứng dụng thay vì chỉ quy định hình thức đào tạo chính quy như trước đây.

Thời gian học tập chuẩn toàn khóa đối với hình thức đào tạo vừa làm vừa học sẽ dài hơn ít nhất 20% so với hình thức đào tạo chính quy của cùng chương trình đào tạo.
 

7. Không còn quy định đào tạo thạc sĩ từ 1 - 2 năm

Trước đây, thời gian đào tạo trình độ thạc sĩ được quy định từ  01 - 02 năm học [theo khoản 3 Điều 3 Quy chế ban hành kèm Thông tư 15].

Tuy nhiên, theo Điều 3 Quy chế ban hành kèm Thông tư 23 quy định về thời gian đào tạo, thời hạn này đã bị bãi bỏ, đồng thời chỉ yêu cầu thời gian học tập phù hợp với khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân. Cụ thể, khoản 2 Điều 3 quy định thời gian đào tạo như sau:

a] Thời gian theo kế hoạch học tập chuẩn toàn khóa phải phù hợp với thời gian quy định trong Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân, đồng thời bảo đảm đa số học viên hoàn thành chương trình đào tạo;

b] Thời gian theo kế hoạch học tập chuẩn toàn khóa đối với hình thức đào tạo vừa làm vừa học dài hơn ít nhất 20% so với hình thức đào tạo chính quy của cùng chương trình đào tạo;

c] Thời gian tối đa để học viên hoàn thành khóa học được quy định trong quy chế của cơ sở đào tạo nhưng không vượt quá 02 lần thời gian theo kế hoạch học tập chuẩn toàn khóa đối với mỗi hình thức đào tạo.

8. Giới hạn số lượng tín chỉ đăng ký trong năm

Để tránh trường hợp học dồn bất hợp lý, quy chế mới đã bổ sung quy định về số lượng tín chỉ tối đa học viên được đăng ký trong 1 học kỳ. Cụ thể, Theo khoản 5 Điều 7:

Cơ sở đào tạo quy định quy trình đăng ký học tập trước khi bắt đầu mỗi học kỳ theo từng chương trình đào tạo, khối lượng tín chỉ tối đa và tối thiểu trong mỗi học kỳ học viên được phép đăng ký.

Trong đó, tổng số tín chỉ tối đa trong một năm học không được quá 45 tín chỉ đối với hình thức chính quy và không được quá 30 tín chỉ đối với hình thức vừa làm vừa học.

9. Quy định về phương thức đào tạo trực tuyến

Tại khoản 7 Điều 7, Bộ Giáo dục đã cho phép cơ sở đào tạo được tổ chức các lớp học trực tuyến với khối lượng học tập không quá 30% tổng khối lượng chương trình đào tạo khi đáp ứng các quy định hiện hành về ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và tổ chức đào tạo qua mạng, đồng thời bảo đảm chất lượng không thấp hơn so với các lớp học trực tiếp.

Bên cạnh việc tổ chức các lớp học trực tuyến, theo khoản 8 Điều 7, hình thức đánh giá trực tuyến cũng sẽ được áp dụng khi bảo đảm sự tin cậy, công bằng và khách quan như đánh giá trực tiếp.

Số điểm đánh giá qua hình thức trực tuyến đóng góp không quá 50% trọng số điểm học phần, trừ luận văn và học phần tốt nghiệp thực hiện theo quy định tại Điều 9 và Điều 11 của Quy chế này.

10. Tăng số lượng tín chỉ cho luận văn tốt nghiệp

Về hướng dẫn luận văn tốt nghiệp, Điều 8 quy định, học viên theo học chương trình định hướng nghiên cứu phải thực hiện một đề tài nghiên cứu có khối lượng từ 12 đến 15 tín chỉ [trước đây yêu cầu tối thiểu 7 tín chỉ] với kết quả được thể hiện bằng luận văn.

Ngoài ra, học viên được thực hiện luận văn trong thời gian ít nhất 06 tháng.
 

11. Nâng chuẩn đầu ra ngoại ngữ

Theo điểm b khoản 1 Điều 12 Quy chế ban hành kèm Thông tư 23, một trong những điều kiện để học viên được công nhận tốt nghiệp thạc sĩ là có trình độ ngoại ngữ đạt yêu cầu chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo trước thời điểm xét tốt nghiệp; được minh chứng bằng một trong các văn bằng hoặc chứng chỉ ngoại ngữ đạt trình độ tương đương Bậc 4 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam.

Trong khi đó, trước đây, theo Quy chế cũ ban hành kèm Thông tư 15/2014, chuẩn đầu ra ngoại ngữ trình độ thạc sĩ sẽ do người đứng đầu cơ sở đào tạo quy định theo đề nghị của hội đồng khoa học đào tạo, nhưng tối thiểu phải từ Bậc 3/6 trở lên theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam hoặc tương đương.

Trên đây là một số điểm mới trong tuyển sinh và đào tạo thạc sĩ theo Quy chế ban hành kèm Thông tư 23/2021/TT-BGDĐT. Nếu cần giải đáp thêm về các chính sách giáo dục, bạn đọc liên hệ 1900.6192 để được hỗ trợ.

>> Điểm mới trong quy chế tuyển sinh và đào tạo tiến sĩ

Video liên quan

Chủ Đề