Chức năng căn bản nhất của Nhà nước ta

Mục lục bài viết

  • 1. Khái niệm chức năng của nhà nước
  • 2. Phân loại chức năng nhà nước
  • 3. Chức năng của nhà nước qua các kiểu nhà nước

Chức năng của Nhà nước có mối quan hệ mật thiết với nhiệm vụ của Nhà nước. Nhiệm vụ, công việc phải làm, vì một mục đích và trong một thời gian nhất định, là sự cụ thể hoá chức năng - phương hướng hoạt động của nhà nước trong từng giai đoạn phát triển của Nhà nước trên từng lĩnh vực quan hệ, sinh hoạt xã hội nhất định. Do chức năng của Nhà nước xuất phát từ bản chất giai cấp, vai trò, sứ mệnh xã hội của Nhà nước nên chức năng là một phạm trù tồn tại thường trực, và có tính lâu dài. Một kiểu nhà nước đang tồn tại thì các chức năng của nó vẫn hoạt động, vận hành. Nhiệm vụ cụ thể hoá chức năng của Nhà nước trên từng giai đoạn phát triển của Nhà nước thì có thể thay đổi, khi nhiệm vụ lịch sử được đặt ra trước nhà nước đã hoàn thành. Đối với nhà rước xã hội chủ nghĩa chẳng hạn, có chức năng tổ chức, phát triển, quản lí nền kinh tế xã hội được cụ thể hoá thành nhiệm vụ có tính chiến lược, lịch sử là tiến hành công nghiệp hoá đối với một giai đoạn phát triển nhất định, có thể kéo dài nhiều thập kỉ, nhưng vẫn là chỉ ở một giai đoạn phát triển nhất định.

Chức năng của Nhà nước có thể được phân chia thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Chức năng đối nội là những hoạt động chủ yếu của Nhà nước về mặt đối nội như chức năng chính trị, chức năng kinh tế, chức năng quản lí văn hoá, giáo dục, chức năng quản lí khoa học, kĩ thuật và công nghệ, chức năng bảo vệ các quyền công dân và quyền con người; chức năng bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Chức năng đối ngoại là những hoạt động chủ yếu của Nhà nước trong quan hệ với các quốc gia, các dân tộc và các tổ chức quốc tế như phòng thủ đất nước, thiết lập các quan hệ ngoại giao và hợp tác quốc tế, đấu tranh vì hoà bình, tiến bộ và dân chủ trên phạm vi toàn thế giới.

1. Khái niệm chức năng của nhà nước

Chức năng là một từ ghép, trong đó, “chức” là thứ bậc trong một trật tự nhất định, tương ứng với mỗi thứ bậc có một phần việc thuộc về một đối tượng nào đó, “năng” là khả năng làm được, sức làm được. Như vậy, chức năng là thuật ngữ dùng để chỉ những phần việc chỉ thuộc về một đối tượng nhất định và đói tượng này có khả năng thực tế để làm được phần việc đó. Nhà nước là tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, nó ra đời để tổ chức và quản lí các mặt của đời sống xã hội. Đó là công việc của nhà nước, gắn liền nhà nước mà không một thực thể nào trong xã hội có thể làm thay nhà nước. Mặt khác, nhà nước với những ưu thế của mình nên cỏ khả năng thực tế để làm được những công việc đó. Với ý nghĩa này, chức năng nhà nước là khái niệm dùng để chỉ những hoạt động, phần việc quan trọng của riêng nhà nước mà chỉ nhà nước mới có đủ khả năng, điều kiện để thực hiện những hoạt động đó. Có thể quan niệm, chức năng nhà nước là những phương diện, loại hoạt động cơ bản của nhà nước nhằm thực hiện các nhiệm vụ đặt ra trước nhà nước. Đó là những mặt hoạt động, hướng hoạt động chủ yếu của nhà nước, phát sinh từ bản chất, mục tiêu, nhiệm vụ, vai trò và điều kiện tồn tại của nhà nước trong mỗi giai đoạn phát triển của nó.

Mặc dù được diễn đạt theo nhiều cách khác nhau, song nhìn chung, có thể quan niệm:

Chức năng nhà nước là những mặt hoạt động cơ bản của nhà nước, phù hợp với bản chất, mục đích, nhiệm vụ của nhà nước và được xác định bởi điều kiện kinh tế xã hội của đất nước trong những giai đoạn phát triển của nó.

Giữa chức năng và nhiệm vụ của nhà nước vừa có sự thống nhất, vừa có sự khác biệt, đồng thời có mối liên hệ mật thiết với nhau. Trong đó, nhiệm vụ của nhà nước là những công việc đặt ra đòi hỏi nhà nước phải giải quyết theo những mục tiêu đã định sẵn. Nhiệm vụ của nhà nước có thể là nhiệm vụ trước mắt, vừa có thể là nhiệm vụ chiến lược, lâu dài. Nhiệm vụ trước mắt là những công việc mà nhà nước phải giải quyết trong ngắn hạn để thực hiện một chức năng nào đó của nhà nước. Trong trường họp này, nhiệm vụ trước mắt có phạm vi hẹp hon so với chức năng nhà nước. Nhiệm vụ chiến lược là những vấn đề nhà nước phải giải quyết trong suốt chặng đường phát triển của đất nước. Nhiệm vụ chiến lược được thực hiện thông qua các chức năng nhà nước, trong trường hợp này chức năng nhà nước có phạm vi hẹp hơn so với nhiệm vụ của nhà nước. Ngoài ra, cần phân biệt chức năng của nhà nước với vai trò của nhà nước. Chức năng của nhà nước thường đề cập nhà nước sinh ra để làm gì, còn vai trò của nhà nước thường đề cập đến công dụng, tác dụng của nhà nước. Trong trường hợp này, chức năng của nhà nước và vai trò của nhà nước có ý nghĩa gần như tương tự nhau. Tuy nhiên, ngoài ý nghĩa nêu trên, vai trò của nhà nước còn được sử dụng để nói về tầm quan trọng của nhà nước [chẳng hạn vai trò của nhà nước đối với xã hội]...

Chức năng của nhà nước trước hết phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội cụ thể của đất nước trong từng thời kì phát triển của nó. Thực tế cho thấy, nhà nước phải làm gì, làm như thế nào, điều đó phụ thuộc rất lớn vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của đất nước, vì vậy, các nhà nước khác nhau có thể có chức năng khác nhau. Trong một nhà nước cụ thể, trong các giai đoạn phát triển khác nhau, số lượng chức năng, tầm quan trọng của mỗi chức năng, nội dung, cách thức thực hiện từng chức năng cũng có thể khác nhau. Đồng thời chức năng của nhà nước cũng phụ thuộc vào bản chất, mục tiêu, nhiệm vụ của nhà nước. Tuy nhiên, chức năng của nhà nước cũng là sự thể hiện bản chất của nhà nước, thông qua những hoạt động của nhà nước, bản chất của nhà nước được thể hiện một cách đầy đủ, rõ nét nhất.

Các nhà nước có thể có nhiều chức năng, các chức năng đó có liên hệ mật thiết, chặt chẽ với nhau, việc thực hiện chức năng này thường có ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng khác. Chẳng hạn, nhà nước chỉ có thể thực hiện tốt việc tổ chức và quản lí kinh tế khi thực hiện tốt hoạt động bảo vệ Tổ quốc, tương tự các hoạt động về mặt xã hội như phát triển cơ sở hạ tầng kĩ thuật, bảo trợ xã hội... chỉ có thể thực hiện tốt khi thực hiện có hiệu quả hoạt động tổ chức và quản lí kinh tế.

>> Xem thêm: Phân tích bản chất, đặc trưng, chức năng của nhà nước CHXHCN Việt Nam

Chức năng nhà nước được thực hiện thông qua các hình thức cơ bản là xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật.

Đời sống xã hội vốn vô cùng đa dạng, phức tạp, vì vậy, để tổ chức và quản lí các mặt của đời sống xã hội, cần phải có một hệ thống pháp luật hoàn thiện, xác định rõ những việc được làm, không được làm, phải làm cho các cá nhân, tổ chức. Thông qua hoạt động xây dựng pháp luật, hệ thống pháp luật được từng bước hình thành và hoàn thiện. Khi thực hiện các chức năng nhà nước ở từng lĩnh vực khác nhau, cần thiết phải có quy định chung, thống nhất để đảm bảo cho các mặt hoạt động của nhà nước được đồng bộ, nhịp nhàng và hiệu quả trên cả nước.

Pháp luật sau khi được ban hành nó thường không thể tự đi vào đời sống. Trong nhiều trường hợp, các cá nhân, tổ chức trong xã hội không tự thực hiện được các quy định trong hệ thống pháp luật. Vì vậy, nhà nước phải tiến hành các hoạt động cần thiết nhằm tổ chức cho các chủ thể trong xã hội thực hiện các quy định trong pháp luật, chẳng hạn, nhà nước tiến hành phổ biến pháp luật cho người dân, giải thích, tuyên truyền, động viên, khuyến khích tính tích cực của họ, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện các quy định của pháp luật... Có như vậy, những mong muốn, yêu cầu, đòi hỏi của nhà nước mới có thể được thực hiện một cách có hiệu quả.

Trong quá trình thực hiện pháp luật, vì những lí do khác nhau, việc vi phạm pháp luật là khó tránh khỏi. Khi đó, nhà nước phải thực hiện các hoạt động nhằm xử lí người vi phạm, giáo dục cải tạo họ cũng như răn đe phòng ngừa chung nhằm bảo đảm tính tôn nghiêm của pháp luật, bảo đảm các yêu cầu của nhà nước được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, triệt để, chính xác.

Để thực hiện chức năng nhà nước, có hai phương pháp cơ bản là giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế. Giáo dục, thuyết phục là việc nhà nước sử dụng các biện pháp tác động lên ý thức con người, làm cho họ biết, hiểu, tự giác, chủ động, tích cực thực hiện các yêu cầu, đòi hỏi của nhà nước. Cưỡng chế là việc nhà nước bắt buộc các cá nhân, tổ chức trong xã hội phải thực hiện nghiêm chỉnh các yêu cầu, đòi hỏi của nhà nước. Các biện pháp cưỡng chế nhà nước rất đa dạng, trong đó người bị cưỡng chế luôn phải gánh chịu sự bất lợi nào đó, có thể là bất lợi về thân thể, về tài sản, thậm chí cả tính mạng của họ...

2. Phân loại chức năng nhà nước

Trong khoa học pháp lí hiện nay có nhiều cách phân loại chức năng của nhà nước:

* Căn cứ vào phạm vỉ hoạt động của nhà nước, chức năng của nhà nước được phân thành các chức năng đối nội và các chức năng đối ngoại:

- Các chức năng đối nội là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước trong quan hệ với các cá nhân, tổ chức trong nước, chẳng hạn chức năng kinh tế, chức năng xã hội, chức năng trấn áp, chức năng bảo vệ trật tự pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

>> Xem thêm: Nhà nước pháp quyền là gì ? Phân tích các quan điểm về nhà nước pháp quyền

- Các chức năng đối ngoại là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước trong quan hệ với các quốc gia, dân tộc khác, chẳng hạn chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược, chức năng phòng thủ, bảo vệ đất nước, chức năng thiết lập quan hệ ngoại giao, hợp tác quốc tế.

* Căn cứ vào hoạt động của nhậ nước trong các lĩnh vực xã hội, chức năng của nhà nước được phân theo từng lĩnh vực cụ thể. Theo đó, tương ứng mỗi lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội là một chức năng của nhà nước. Chẳng hạn:

- Chức năng kinh tế: Đây là chức năng của mọi nhà nước. Nhà nước thực hiện chức năng này nhằm củng cố và bảo vệ cơ sở tồn tại của nhà nước, ổn định và phát triển kinh tế.

- Chức năng xã hội: Đó là toàn bộ hoạt động của nhà nước trong việc tổ chức và quản lí các vấn đề xã hội của đời sống như vấn đề về môi trường, giáo dục, y tế, lao động, việc làm, thu nhập của người dân, phòng chống thiên tai... Đây là các hoạt động góp phần củng cố và bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội, bảo đảm sự ổn định, phát triển an toàn và hài hoà của toàn xã hội.

- Chức năng trấn áp: Trong điều kiện có đấu tranh giai cấp, chức năng trấn áp sự phản kháng của giai cấp bị trị là rất cần thiết nhằm bảo vệ sự tồn tại vững chắc của nhà nước, bảo vệ lợi ích về mọi mặt của giai cấp thống trị.

- Chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược: Đây là chức năng đặc trưng của các nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản giai đoạn chủ nghĩa đế quốc trở về trước. Các nhà nước đó thực hiện chức năng này nhằm xâm chiếm và mở rộng lãnh thổ, bóc lột nhân dân cũng như áp đặt sự nô dịch đối với các dân tộc khác.

- Chức năng bảo vệ trật tự pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xã hội: Đây là chức năng của các nhà nước nói chung. Thực hiện chức năng này, nhà nước phải sử dụng nhiều biện pháp, nhất là các biện pháp pháp lí nhằm phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác, đảm bảo ổn định, trật tự xã hội, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong xã hội.

- Chức năng bảo vệ đất nước: Đây là chức năng của mọi nhà nước. Trước đây, nhiều nhà nước thường phát động chiến tranh xâm lược nước khác, ngày nay, nhiều nhà nước vẫn tìm cách áp đặt ý chí của mình đối với nước khác. Trong điều kiện đó, các nhà nước phải thực hiện các hoạt động nhằm bảo vệ đất nước, chống lại các cuộc chiến nanh xâm lược cũng như các ảnh hưởng tiêu cực khác từ bên ngoài.

- Chức năng quan hệ với các nước khác: Các nhà nước thực hiện chức năng này nhằm thiết lập các quan hệ kinh tế, chính trị, văn hoá... với các quốc gia khác để trước hết phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục... trong nước, qua đó có thể cùng nhau giải quyết những vấn đề có tính chất quốc tế.

Ngoài các cách phân loại nêu trên, chức năng nhà nước còn có thể được phân loại theo những căn cứ khác. Chẳng hạn, dựa vào bản chất của nhà nưóc, chức năng của nhà nước được phân chia thành các chức năng thể hiện tính giai cấp và các chức năng thể hiện tính xã hội; dựa vào mục đích thực hiện, chức năng của nhà nước được chia thành chức năng cai trị và chức năng phục vụ; dựa vào hình thức thực hiện, chức năng của nhà nước được chia thành chức năng lập pháp, chức năng hành pháp, chức năng tư pháp...

>> Xem thêm: Bản chất của nhà nước là gì ? Khái niệm bản chất nhà nước được hiểu như thế nào ?

3. Chức năng của nhà nước qua các kiểu nhà nước

Mỗi kiểu nhà nước có bản chất riêng phù hợp với cơ sở kinh tế - xã hội của nó, đồng thời bản chất của mỗi kiểu nhà nước lại là yếu tố quan trọng quyết định các chức năng nhà nước. Qua các kiểu nhà nước, chức năng của nhà nước có sự phát triển thể hiện ở sự tăng thêm về số lượng, sự mở rộng về nội dung và sự đa dạng hơn về phương thức thực hiện. Sự phát triển của các chức năng nhà nước là một tất yếu khách quan phù hợp với sự vận động phát triển của đời sống xã hội. Cụ thể:

Về số lượng chức năng của nhà nước:

Có thể nói, các nhà nước đều có chức năng kinh tế, chức năng xã hội, chức năng bảo vệ đất nước... Tuy nhiên, có những chức năng chỉ xuất hiện ở những nhà nước hiện đại, còn ở các nhà nước chủ nô và phong kiến chưa có chức năng đó mà đó mới chỉ là những hoạt động lẻ tẻ, chưa phải là mặt hoạt động cơ bản, chủ yếu của nhà nước. Chẳng hạn, tổ chức và quản lí văn hoá, giáo dục, khoa học công nghệ, môi trường... chỉ trở thành những mặt hoạt động chủ yếu của các nhà nước hiện đại. Tương tự, chức năng thiết lập quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước khác chưa có ở nhà nước chủ nô, phong kiến, tuy nhiên đây lại là chức năng quan họng của các nhà nước hiện đại. Để phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục... hay giải quyết những vấn đề có tính chất quốc tế, các nhà nước cần thiết phải tham gia quan hệ với các nhà nước khác. Tùy thuộc vào điều kiện lịch sử của đất nước, chế độ chính trị xã hội của từng nước mà chức năng này có biểu hiện khác nhau, về quy mô có thể là quan hệ hợp tác song phương hoặc đa phương, về nội dung có thể là hợp tác ở một hoặc nhiều lĩnh vực... Các nhà nước chủ nô, phong kiến cũng có một số hoạt động bang giao với các nhà nước khác, tuy nhiên đây là những hoạt động không cơ bản, không thường xuyên, việc thực hiện những hoạt động này chỉ có tính nhất thời, nhằm giải quyết những vụ việc cụ thể. Sự phát triển đa dạng, phức tạp trên mọi mặt của đời sống xã hội có thể khiến nhà nước còn phải thực hiện thêm một số chức năng khác, chẳng hạn chống biến đổi khí hậu, chống chủ nghĩa khủng bố...

Sự thay đổi về số lượng chức năng nhà nước còn thể hiện ở việc mất đi chức năng nào đó của nhà nước. Chẳng hạn, tiến hành chiến tranh xâm lược là chức năng của nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản nhưng nhà nước xã hội chủ nghĩa không còn có chức năng này. Với bản chất tốt đẹp của mình, nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn mong muốn xây dựng một xã hội tự do, bình đẳng không có áp bức bóc lột nên các nước xã hội chủ nghĩa luôn muốn thiết lập các quan hệ hữu hảo với các dân tộc khác. Như vậy, việc mất đi những chức năng có tác động tiêu cực tới tiến trình phát triển của xã hội cũng là biểu hiện sự phát triển của chức năng nhà nước.

Về nội dung của mỗi chức năng:

Cùng với sự phát triển ngày một phức tạp của đời sống xã hội thi nội dung mỗi chức năng của nhà nước cũng ngày một đa dạng, phong phú phù họp với nhiều vấn đề mới phát sinh mà nhà nước phải giải quyết. Chẳng hạn, nội dung chức năng kinh tế của các nhà nước thường bao gồm việc củng cố, bảo vệ quan hệ sản xuất, quản lí các hoạt động kinh tế... Tuy nhiên các kiểu nhà nước khác nhau thì các hoạt động này cũng khác nhau. Ở nhà nước chủ nô, nhà nước chủ yếu là củng cố, bảo vệ chế độ sở hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và người nô lệ, còn hoạt động tổ chức quản lí kinh tế của nhà nước thì rất hạn hẹp, như nhà nước chỉ tiến hành một số hoạt động trị thủy, khai khẩn đất hoang nhằm mở rộng diện tích canh tác để phát triển nông nghiệp. Việc quản lí kinh tế của nhà nước phong kiến đã được quan tâm hom. Do đất đai là yếu tố sống còn của nhà nước phong kiến nên các nhà nước đều tiến hành các hoạt động trị thủy, khai khẩn đất hoang, mở rộng diện tích đất nông nghiệp. Bên cạnh đó để phát triển kinh tế, các nhà nước phong kiến đã quan tâm hơn đến bảo hộ, khuyến khích phát triển các ngành nghề thủ công, phát triển thương nghiệp bằng việc vận chuyển hàng hoá giao thương giữa các vùng lãnh thổ quốc gia và các nước lân cận. Với nhà nước tư sản, hoạt động tổ chức quản lí kinh té trở nên rất đa dạng, phức tạp, được nhà nước rất coi trọng. Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, nhà nước tư sản dùng chính sách thuế khoá tác động đến các hoạt động kinh tế. Tuy nhiên, từ sau chiến tranh thế giới thứ hai trở lại đây, nhà nước tư sản đã can thiệp sâu vào quá trình kinh tế, đưa ra chính sách kinh tế ở tầm vĩ mô nhằm tránh cho nền sản xuất tư bản chủ nghĩa bị rơi vào các cuộc khủng hoảng. Nhà nước tư sản đã sử dụng các đòn bẩy kinh tế, các chính sách thuế khoá để điều tiết nền kinh tế. Có thể nói, chức năng kinh tế của nhà nước tư sản thực hiện ngày càng phù hợp với quy luật vận động và phát triển của xã hội hiện đại, tạo ra nguồn của cải vật chất khổng lồ cho nhân loại. Với nhà nước xã hội chủ nghĩa, chức năng kinh tế có tầm quan trọng đặc biệt. Theo V. I. Lênin, sự thành công của chủ nghĩa xã hội được quyết định bởi năng suất lao động, của cải vật chất ngày một nhiều, đời sống vật chất của người dân ngày một nâng cao. Để thực hiện chức năng này, nhà nước xã hội chủ nghĩa phải củng cố, bảo vệ chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, phải tiến hành việc quốc hữu hoá xí nghiệp, đất đai của giai cấp bóc lột đã bị lật đổ, quy định những tư liệu sản xuất quan trọng đều thuộc sở hữu toàn dân và thực hiện các biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc đối với mọi hành vi xâm hại tới chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt nhà nước xã hội chủ nghĩa thay mặt cho nhân dân quản lí những tư liệu sản xuất quan trọng nhất, trực tiếp tiến hành việc tổ chức quản lí sản xuất, phân công lao động và phân phối sản phẩm xã hội nhằm phát triển một nền kinh tế cân đối và toàn diện, đảm bảo ngày càng nâng cao mức sống của người dân.

Tương tự, đối với chức năng xã hội của nhà nước, phạm vi hoạt động của nhà nước cũng ngày càng mở rộng hơn, nhà nước tiến hành ngày càng nhiều hơn những hoạt động vì sự phát triển chung của cộng đồng. Chẳng hạn, nhà nước chủ nô mới chỉ thực hiện một số hoạt động nhằm ổn định xã hội như tiến hành các hoạt động văn hoá, thể thao, thực hiện các nghi lễ tôn giáo... Nhà nước phong kiến thực hiện một số hoạt động nhân đạo như cứu tế, cấp phát lương thực hỗ trợ dân lúc đói kém, khuyến khích giáo dục, coi trọng khoa cử nhằm lựa chọn người hiền tài phục vụ đất nước. Đối với nhà nước tư sản, chức năng xã hội rất phát triển do bản chất tiến bộ của nó. Ngay từ khi mới ra đời, tính xã hội của nhà nước tư sản đã rộng rãi hơn rất nhiều so với nhà nước phong kiến. Chính điều này đã quyết định đến chức năng xã hội của nhà nước tư sản. Trước hết nhà nước tư sản có nhiều hoạt động nhằm đảm bảo cho sự phát triển ổn định, an toàn của xã hội. Nhà nước đầu tư lớn cho các công trình phúc lợi chung, nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ, văn hoá giáo dục và y tế. Hệ thống giáo dục với nhiều cấp học, bậc học rất phù hợp và phát triển. Hệ thống y tế với các loại hình công, tư và đội ngũ y bác sĩ trình độ cao đã làm khá tốt việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân; đặc biệt nhà nước ứng phó rất kịp thời khi có dịch bệnh xảy ra. Việc phòng chống thiên tai, bảo vệ môi trường, nhà nước tư sản cũng thực hiện rất hiệu quả, giảm thiểu tối đa những thiệt hại có thể xảy ra. Nhà nước tư sản tiến hành nhiều hoạt động quan tâm đến đời sống của người dân; thực hiện chính sách an sinh xã hội như trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp cho người thu nhập thấp, có các chính sách về bảo hiểm xã hội phù hợp, chăm lo đời sống của những người già cô đơn, người tàn tật trong xã hội... Đặc biệt, chức năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa rất phát triển. Nhà nước xã hội chủ nghĩa đại diện cho toàn thể người lao động nên nhà nước có nhiệm vụ đảm bảo một xã hội ổn định theo hướng có lợi cho người lao động, quan tâm chăm lo đến đời sống mọi mặt của người dân. Chức năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa được tiến hành với nhiều nội dung phong phú. về văn hoá, nhà nước xã hội chủ nghĩa xây dựng và thực hiện nền văn hoá mới, con người mới, nâng cao dân trí. về giáo dục, nhà nước từ chỗ xoá mù chữ đến thực hiện chính sách phổ cập giáo dục, miễn giảm học phí ở nhiều cấp học cho nhân dân. Hệ thống y tế rất phát triển, nhiều mạng lưới y tế được mở rộng với nhiều cơ sở khám chữa bệnh hiện đại đảm bảo nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân. Nhà nước có chính sách tôn giáo, dân tộc hợp lí, ưu tiên phát triển ở vùng sâu, vùng xa, nơi sinh sống của đồng bào thiểu số để đảm bảo sự phát triển hài hoà của mọi vùng miền trong cả nước, về an sinh xã hội, nhà nước rất quan tâm đến việc làm, đến trợ cấp thất nghiệp và bảo hiểm xã hội; thực hiện việc miễn giảm đóng góp bảo hiểm xã hội cho những đối tượng đặc biệt...

Chức năng xã hội là chức năng cơ bản, thể hiện rõ nét bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Việc thực hiện tốt chức năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa đã mang lại những kết quả rất đáng khích lệ và dự báo trong tương lai, các nước xã hội chủ nghĩa sẽ có điều kiện để thực hiện ngày càng tốt hơn chức năng này. Chính vì vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa được coi là nhà nước phục vụ nhân dân.

>> Xem thêm: Chức năng của nhà nước là gì ? Cách phân loại chức năng của nhà nước ?

Về phương thức thực hiện chức năng của nhà nước:

Các nhà nước đều thực hiện chức năng của mình thông qua các phương thức là xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật. Để pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh, các nhà nước thường kết hợp giữa giáo dục thuyết phục với cưỡng chế. Tuy nhiên, hoạt động xây dựng pháp luật trong các nhà nước chủ nô, phong kiến còn nhiều hạn,chế, pháp luật chủ yếu thể hiện ý chí của vua chúa và thường rất hà khắc. Nhà vua tự coi mình đứng trên pháp luật, việc thực hiện pháp luật của bộ máy quan lại nhiều khi còn tùy tiện. Các nhà nước này thường coi trọng biện pháp cưỡng chế trong việc thực hiện chức năng của nhà nước, nhiều trường hợp các biện pháp cưỡng chế rất dã man tàn khốc. Chẳng hạn, trong xã hội chiếm hữu nô lệ, người nô lệ bị bóc lột rất nặng nề, họ bị coi là tài sản, là đồ vật thuộc sở hữu của chủ nô.1 Mâu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ vô cùng gay gắt, nhiều cuộc đấu tranh của nô lệ đã xảy ra. Nhà nước chủ nô đã ban hành pháp luật quy định tình trạng vô quyền của nô lệ, đồng thời sử dụng những biện pháp cưỡng chế rất dã man tàn bạo để trấn áp sự phản kháng của nô lệ. Nhiều cuộc khởi nghĩa của nô lệ nổ ra, trong đó cuộc khởi nghĩa do Cleon-Ennus hay cuộc khởi nghĩa do Spartacus lãnh đạo kéo dài nhiều năm đã làm rung chuyển chế độ La Mã cổ đại. Trước tình thế đó, nhà nước chủ nô đã sử dụng quân đội thẳng tay đàn áp những người nô lệ, nhấn chìm các cuộc đấu tranh của nô lệ trong bể máu.

Nhà nước phong kiến ra đời thay thế nhà nước chủ nô, quan hệ giữa địa chủ phong kiến và nông nô được cải thiện một bước. Tuy nhiên, đời sống của người nông dân trong xã hội phong kiến vẫn rất cùng cực, họ phải chịu nhiều tầng áp bức bóc lột, sưu cao thuế nặng và rất nhiều phu phen, tạp dịch. Nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân nổ ra, chẳng hạn khởi nghĩa Khăn Vàng cuối thời Đông Hán, khởi nghĩa Hoàng Sào cuối đời Đường ở Trung Quốc... Nhà nước phong kiến cũng sử dụng bạo lực quân sự để thẳng tay đàn áp các cuộc khởi nghĩa nông dân. Ngoài việc sử dụng bạo lực, nhà nước phong kiến còn dùng pháp luật quy định những biện pháp trừng trị rất hà khắc, những biện pháp gây đau đớn về thể xác và hạ nhục về tinh thần. Nhà nước còn quy định chế độ trách nhiệm tập thể như buộc cả cộng đồng làng xã phải chịu trách nhiệm, buộc cả những người thân thích với người vi phạm cùng phải chịu trách nhiệm tru di tam tộc, tru di cửu tộc]. Nhà nước phong kiến sử dụng khá nhuần nhuyễn công cụ tôn giáo trong việc thực hiện chức năng của mình. Chẳng hạn, các nhà nước phong kiến phương Tây lấy Thiên chúa giáo làm quốc giáo, kết hợp chặt chẽ giữa vương quyền với thần quyền. Ngoài đàn áp bằng bạo lực và tư tưởng, nhà nước phong kiến còn thực hiện chính sách ngu dân, trói buộc người nông dân vào những hủ tục lạc hậu của xã hội.

Nhà nước tư sản ra đời trong bối cảnh chế độ phong kiến suy tàn, phương thức sản xuất phong kiến trở thành trở lực cho sự phát triển xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình vận động và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nhiều hạn chế của nó dần dần được bộc lộ. Do cạnh tranh làm giàu, giai cấp tư sản không từ một thủ đoạn nào để bóc lột sức lao động của người công nhân. Từ chỗ tin tưởng vào tương lai trong xã hội mới, những người lao động đã sớm nhận thấy bản chất bóc lột của giai cấp tư sản, họ tiến hành nhiều cuộc đấu tranh đòi giai cấp tư sản cải thiện cuộc sống cho họ. Trong thời kì chủ nghĩa đế quốc, nhà nưởc tư sản đã sử dụng lực lượng vũ trang để thẳng tay đàn áp phong trào công nhân. Cùng với việc sử dụng bạo lực để trấn áp, nhà nước tư sản còn ban hành pháp luật trong đó có nhiều đạo luật chống phong trào công nhân, đặt đảng cộng sản ra ngoài vòng pháp luật với mục đích làm tan rã và triệt tiêu sự đấu tranh của những người lao động. Những năm gần đây, phong trào đấu tranh của công nhân cũng có sự thay đổi về cách thức và mục tiêu. Nhà nước tư sản vẫn thực hiện chức năng trấn áp nhưng có sự thay đổi thích họp.

Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, phương thức thực hiện chức năng nhà nước ngày càng dân chủ, rất tiến bộ, tôn trọng quyền con người. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, cưỡng chế vẫn còn rất cần thiết, tuy nhiên nó được thực hiện trên cơ sở tôn trọng và bảo vệ các quyền, các giá trị con người. Trong giai đoạn cách mạng mới thành công, nhà nước xã hội chủ nghĩa mới ra đời, sự phản kháng của các lực lượng chống đối còn hết sức gay gắt, vì vậy, cưỡng chế là cần thiết và tất yếu. Bên cạnh việc sử dụng lực lượng vũ trang, nhà nước cũng sử dụng pháp luật với việc quy định biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc đối với mọi hành vi chống phá, gây tổn hại đến sự tồn tại của chính quyền cách mạng. Tuy nhiên, nhà nước rất coi trọng biện pháp giáo dục, thuyết phục. Theo Lênin, trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, dù thế nào cũng trước hết phải thuyết phục, sau đó mới cưỡng chế. Nhà nước luôn coi trọng việc xây dựng hệ thống pháp luật hoàn thiện. Hoạt động xây dựng pháp luật được thực hiện đảm bảo nguyên tắc khách quan, khoa học, dân chủ..., nhờ đó đã tạo ra hệ thống pháp luật đáp ứng tốt việc thực hiện chức năng nhà nước. Đồng thời nhà nước cũng rất chú trọng việc phổ biến, giáo dục, giải thích pháp luật cho người dân, từ đó động viên, khuyến khích tính tích cực của họ trong việc đáp ứng các yêu cầu thực hiện chức năng nhà nước. Trong phạm vi thẩm quyền của mình, các cơ quan thực hiện và bảo vệ pháp luật hoạt động rất nhanh chóng, khách quan, công minh, đúng pháp luật.

Về xu hướng vận động phát triển của chức năng nhà nước:

Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai trở lại đây, chức năng của nhà nước có sự chuyển biến mạnh mẽ, nhà nước chuyển dần từ chủ yếu thực hiện chức năng “cai trị” sang thực hiện chức năng “phục vụ”. Trong các nhà nước chủ nô, phong kiến và nhà nước tư sản giai đoạn chủ nghĩa đế quốc trở về trước, chức năng chủ yếu của nhà nước là phục vụ lợi ích giai cấp thống trị, nô dịch áp bức nhân dân. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ra đời và phát triển mạnh mẽ, trở thành đối trọng với hệ thống tư bản chủ nghĩa, mặt khác, phong trào đấu tranh giành độc lập của các dân tộc bị áp bức nổ ra và giành thắng lợi trên phạm vi toàn thế giới, phong trào đấu tranh của công nhân ở các nước tư bản cũng ngày càng phát triển mạnh mẽ buộc chính quyền của giai cấp tư sản phải có sự thay đổi rất đáng kể trong việc thực hiện chức năng của mình. Ngày nay, các nhà nước hiện đại trở thành tổ chức phục vụ nhân dân, nhà nước ra đời, tồn tại là để phục vụ lợi ích về mọi mặt cho nhân dân. Các chức năng của nhà nước đều hướng đến việc chăm lo cho cuộc sống của nhân dân, đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao, các quyền con người được thừa nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ. Nhà nước thực hiện việc quản lí xã hội không phải bằng những mệnh lệnh dựa trên ý chí chủ quan của mình mà bằng các quy định pháp luật dựa trên sự đồng thuận xã hội. Nhà nước không chỉ đơn thuần là người quản lí mà còn là người gợi ý, hướng dẫn, định hướng, dẫn dắt các hoạt động kinh tế - xã hội, cung cấp thông tin, tạo sự kết nối trong xã hội..., nói cách khác, nhà nước trở thành người kiến tạo phát triển. Đe phục vụ tốt nhất cho nhân dân, nhà nước phải thực hiện nhiều hoạt động như hoạch định các mục tiêu phát triển xã hội, lựa chọn các ưu tiên phát triển của đất nước; ban hành cơ chế, chính sách và xây dựng bộ máy nhân lực; tạo lập môi trường và điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của xã hội; tạo cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người, đảm bảo cho các cá nhân, tổ chức trong xã hội phát huy mọi tiềm năng phát triển; điều tiết các quan hệ xã hội, giải quyết các mâu thuẫn và xung đột xã hội; ứng phó thảm họa, khủng hoảng, giúp đỡ, hỗ trợ người dân khi họ gặp khó khăn; bảo đảm ổn định và ừật tự, an toàn xã hội...

Luật Minh Khuê [sưu tầm & biên tập]

Video liên quan

Chủ Đề