Có bao nhiêu chúa trịnh bao nhiêu chúa nguyễn năm 2024

Với ý đồ tách Đàng trong ra khỏi sự thống trị của vua Lê - chúa Trịnh, Nguyễn Hoàng và những người nối nghiệp một mặt củng cố phòng thủ đất Thuận Quảng, chống lại có hiệu quả các cuộc tấn công của quân Trịnh, mặt khác ra sức mở rộng lãnh thổ về phía Nam. Bằng chính sách nội trị mềm dẻo, ngoại giao khéo léo, Nguyễn Hoàng đã thành công trong việc xây dựng thực lực và năm 1570, được lãnh trấn thủ cả vùng đất Thuận Quảng.

Buổi đầu, với chức Trấn thủ việc cắt đặt quan lại của Nguyễn Hoàng chịu sự chi phối của triều đình Lê - Trịnh. Quan lại vẫn do vua Lê bổ nhiệm. Năm 1613, Nguyễn Phúc Nguyên nối nghiệp cha, quyết định thải hồi các quan do nhà Lê cắt cử, cải tổ lại bộ máy chính quyền, dời chuyển phủ chúa vào Phước Yên và tổ chức bộ máy ở Chính Dinh gồm 3 ty: Ty Xá (sai giữ việc giấy tờ, kiện tụng), Ty Tướng thần (coi việc thu thuế) và Ty Lệnh sử (giữ việc tế tự và phát lương cho quân lính). Ngoài ra, Chính Dinh còn có thêm Ty Nội lệnh sử coi các loại thuế, hai ty Tả, Hữu lệnh sử chia nhau thu nộp tiền sai dư (thuế thân). Ty Lệnh sử đồ gia (Nhà đồ) giữ việc thu phát vật liệu, quản lý kho. Từ năm 1669, Nguyễn Phúc Tần đặt thêm Ty Nông lại để coi thu thuế điền thổ.

Cho đến giữa thế kỷ XVIII, họ Nguyễn đã làm chủ cả vùng rộng lớn từ Nam Hoành Sơn đến mũi Cà Mau, Đàng Trong chia thành 12 dinh: Bố Chính, Quảng Bình, Lưu Đồn, Cựu Dinh, Chính Dinh (Phú Xuân), Quảng Nam, Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ và 1 trấn là Hà Tiên. Mỗi dinh quản hạt 1 phủ (riêng Quảng Nam quản 3 phủ), dưới phủ có huyện, tổng, xã (hay phường). Chỉ có Chính Dinh mới có đủ cơ cấu 3 ty, các dinh khác có 1 hoặc 2 ty.

Sau khi chúa Nguyễn Hoàng mất, đời con cháu của ông vẫn được nhà Lê phong chức, đến năm 1744, Nguyễn Phúc Khoát xưng vương, thành lập triều đình, đổi Ký lục thành Lại bộ, Nha úy thành Lễ bộ, Đô tri làm Hình bộ, Cai bạ làm Hộ bộ, đặt thêm Binh bộ và Công bộ, đồng thời đổi văn chức làm Hàn lâm viện. Vậy là các thay đổi lớn về chính quyền đều diễn ra trên đất Thừa Thiên Huế với tư cách là Chính Dinh.

Các đơn vị cơ sở ở Thừa Thiên Huế và cả Đàng Trong bấy giờ biến động và thay đổi luôn do quá trình khai hoang lập làng diễn ra rất mạnh.

Về bổ nhiệm quan lại, nửa đầu thế kỷ XVII, quan lại được bổ nhiệm theo tiến cử, thân tộc. Năm 1646, chúa Nguyễn Phúc Lan bắt đầu định phép thi cử gồm 2 cấp: Chính đồ (khoa thi lấy người đậu ra làm quan) và Hoa văn (khoa thi lấy học trò viết chữ tốt ra làm lại). Ngoài ra, chúa Nguyễn còn sử dụng chế độ mua quan, bán tước và không cấp bổng lộc cho quan lại, bổng lộc của quan lại phần nhiều do dân đóng góp.

Xây dựng vùng đất Đàng Trong trong bối cảnh phải đương đầu với họ Trịnh ở Đàng Ngoài và tự mở mang thêm lãnh thổ nhằm tạo thế lực nên Nguyễn Hoàng và các chúa kế nghiệp đã xây dựng một thể chế đậm tính quân sự, lấy quân đội làm chỗ dựa và ưu tiên việc binh. Từ đầu thế kỷ XVII, người Đàng Trong đã học được cách đúc súng và trang bị cho thuyền chiến.

Phương thức tổ chức chính quyền, quân đội như vậy đã tạo cho Đàng Trong có bước chuyển biến nhanh, đạt được ý đồ xây dựng cơ đồ của họ Nguyễn. Tuy nhiên nó cũng nhanh chóng bộc lộ những hạn chế làm cho bộ máy cồng kềnh, trở thành gánh nặng đối với nhân dân và xã hội.

Dưới sự cai trị của các chúa Nguyễn, vùng đất Thừa Thiên Huế nhanh chóng được khai thác. Đất đai trồng trọt mở rộng thêm, làng xóm được hình thành ở khắp đồng bằng ven biển, vùng đầm phá, gò đồi. So với thời Lê – Mạc, diện tích ruộng đất và làng xã đã tăng lên rất nhiều. Thừa Thiên Huế lúc bấy giờ là ba huyện Hương Trà, Phú Vang và Quảng Điền thuộc phủ Triệu Phong có 23 tổng, 234 xã, 23 thôn, 77 phường, 1 giáp, 1 châu và 3 sách.

Bộ mặt xứ Huế từng bước phát triển với tốc độ đáng kể nhất là khi chúa Nguyễn chuyển dinh phủ từ Phước Yên đến Kim Long, xây dựng thủ phủ xứ Đàng Trong với quy mô lớn trên đất Phú Xuân. Xứ Huế chuyển dân từ làng quê thành phố chợ, cảng thị tấp nập tàu bè các vùng, các nước đến buôn bán, Điều đó làm cơ sở cho việc phát triển tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp. Sự chuyển biến về kinh tế - xã hội đã ảnh hưởng đến văn hóa Huế, với vị trí là “thủ phủ”, phong thái thượng lưu quý tộc cũng đòi hỏi nhu cầu tương ứng với vị thế xã hội. Nếp sống đài các, tao nhã, thanh lịch ảnh hưởng sâu đậm đến các giai tầng, trở thành đặc trưng văn hóa của vùng đất Huế, biểu hiện trong nếp ứng xử, trong ẩm thực, y phục và nghệ thuật.

02/04/2015 10:38:59 |

Các vua nhà Lê tiếp sau vua Lê Thánh Tông toàn là những người yếu ớt và vào năm 1527 quyền thần Mạc Đăng Dung đã lật đổ nhà Lê. Ông thay thế vị vua nhà Lê là Lê Cung Hoàng và bắt đầu một triều đại mới. Vị vua mới của nhà Mạc bị coi là loạn thần và từ Thanh Hóa, Nguyễn Kim đã nổi dậy chống lại nhà Mạc, tôn lập hậu duệ nhà Lê là Lê Duy Ninh làm vua, tức là Lê Trang Tông (còn gọi nhà Lê Trung Hưng).

Nổi lên nắm quyền lực

Các vua nhà Lê tiếp sau vua Lê Thánh Tông toàn là những người yếu ớt và vào năm 1527 quyền thần Mạc Đăng Dung đã lật đổ nhà Lê. Ông thay thế vị vua nhà Lê là Lê Cung Hoàng và bắt đầu một triều đại mới. Vị vua mới của nhà Mạc bị coi là loạn thần và từ Thanh Hóa, Nguyễn Kim đã nổi dậy chống lại nhà Mạc, tôn lập hậu duệ nhà Lê là Lê Duy Ninh làm vua, tức là Lê Trang Tông (còn gọi nhà Lê Trung Hưng). Trong vòng 5 năm, tất cả các vùng phía nam sông Hồng nằm dưới quyền kiểm soát của nhà Lê Trung Hưng nhưng họ không thể chiếm Thăng Long. Trong thời gian này, nhà Lê cũng phát triển thế lực về phía Nam, chiếm quyền kiểm soát vùng cực nam lãnh thổ nơi từng là đất đai của Chăm pa.

Nghe tin Nguyễn Kim nổi dậy dựng lại nhà Lê, Trịnh Kiểm bèn đến xin gia nhập. Nhờ tài năng, ông được Nguyễn Kim tin cậy và gả con gái là Ngọc Bảo cho. Nǎm 1539 ông được phong làm Đại tướng quân, tước Dực Quận công. Năm 1545, Nguyễn Kim chết, Trịnh Kiểm lên thay cầm quyền, được phong làm thái sư nắm toàn thể quân đội.

“Phù Lê diệt Mạc”

Trịnh Kiểm bèn sai người đi tìm được người trong tôn thất nhà Lê là Lê Duy Bang, cháu 5 đời của Lê Trừ (anh Lê Lợi), lập làm vua, tức là Lê Anh Tông. Từ đó họ Trịnh nối đời cầm quyền nhưng danh nghĩa vẫn tôn phò, làm bề tôi cho nhà Lê, hai họ sống chung trong cơ chế lưỡng đầu. Bởi vậy người đời truyền lại câu: “Trịnh tồn Lê tại, Trịnh bại Lê vong“.

Năm 1570, Trịnh Kiểm chết, chuyển giao binh quyền cho con trưởng Trịnh Cối (con phu nhân họ Lại ). Nhưng phần lớn tướng tài đi theo Nguyễn Kim phò tá Trịnh Tùng (là con thứ – cháu ngoại của Nguyễn Kim). Hai bên xảy ra giao tranh để giành quyền chỉ huy quân đội của Nam triều. Trong khi Trịnh Cối đang giao tranh với quân Trịnh Tùng. Nhân cơ hội đó Mạc Kính Điển tướng của nhà Mạc kéo quân vào nhằm tiêu diệt lực lượng Nam triều. Trịnh Cối không địch nổi quân Mạc nên đã đầu hàng nhà Mạc, được nhà Mạc thu nhận và phong chức tước.

Khôi phục Thăng Long

Từ khi Trịnh Kiểm nắm quyền, họ Trịnh cai quản vùng phía nam của Đại Việt (trên danh nghĩa vẫn là chiến đấu dưới quyền vua Lê) và chiến đấu với nhà Mạc ở phía bắc. Bấy giờ nhà Lê chiếm lại được Thanh Hóa và Nghệ An. Nhờ có khẩu hiệu “Phù Lê diệt Mạc”, thanh thế họ Trịnh ngày một lớn. Ở vùng Tây bắc, anh em Vũ Văn Mật, Vũ Văn Uyên cát cứ tại Tuyên Quang sai người đến xin quy phục. Sau đó năm 1550, thái tể nhà Mạc là Lê Bá Ly là cựu thần nhà Lê sơ cùng thông gia là Nguyễn Thiến mang gia quyến về hàng.

Trong suốt những năm 1545-1580 là giai đoạn hai bên giằng co. Được tăng sức mạnh, họ Trịnh liên tiếp tấn công ra bắc đánh Sơn Nam, Ninh Bình, Sơn Tây, Thăng Long. Nhà Mạc lúc đó dưới sự chèo lái của Khiêm vương Mạc Kính Điển đã đứng vững. Mạc Kính Điển nhiều lần phải mang vua Mạc qua sông tránh sang Kim Thành (Hải Dương) nhưng quân Lê-Trịnh vẫn không vào được Thăng Long. Ngược lại, sau những đợt tấn công ra bắc, quân Trịnh cũng phải đối phó với những đợt tiến công vào Thanh Hóa – Nghệ An của Mạc Kính Điển. Hai bên khi được khi thua. Cuộc chiến giằng co nổi lên tên tuổi các tướng Hoàng Đình Ái, Nguyễn Hữu Liêu bên Lê-Trịnh, Nguyễn Quyện bên Mạc.

Sau khi trấn thủ Thuận Hoá (năm 1558), năm 1570, Nguyễn Hoàng lại xin trấn thủ Quảng Nam. Chúa Trịnh mải lo chiến trường phía bắc nên chấp thuận. Năm 1572, Hoàng dùng kế giết được tướng Mạc là Mạc Lập Bạo vào đánh. Nhà Mạc mất hẳn phía nam và chỉ còn kiểm soát Bắc Bộ.

Sau khi Mạc Kính Điển chết (1580), nhà Mạc bắt đầu suy yếu. Vua Mạc là Mậu Hợp ít lo chính sự, phụ chính Mạc Đôn Nhượng không đủ năng lực. Quân Lê-Trịnh bắt đầu chiếm ưu thế. Năm 1591, Trịnh Tùng đem quân bắc tiến áp sát thành Thăng Long. Đầu năm 1592, Mạc Mậu Hợp chạy sang Gia Lâm, thống suất thủy quân để làm thanh thế trên sông Nhị Hà cho các tướng giữ thành Thăng Long. Trịnh Tùng thúc quân tổng tiến công. Các tướng Mạc Ngọc Liễn, Bùi Văn Khuê, Trần Bách Niên tan vỡ bỏ chạy. Phục binh của Nguyễn Quyện ở cầu Dền không kịp nổi dậy đã bị giết. Nguyễn Quyện bị bắt rồi bị giết, hai con tử trận. Quân Mạc chết rất nhiều.

Trịnh Tùng rút quân chủ lực về. Mạc Mậu Hợp thu tàn quân án ngữ sông Nhị Hà, lại ham sắc đẹp của vợ tướng Bùi Văn Khuê là Nguyễn thị Niên (xem thêm bài về nhà Mạc) nên muốn giết Khuê. Tháng 8 năm 1592, Khuê biết chuyện bèn đem quân hàng Lê, hợp binh với Trịnh Tùng đại phá quân Mạc.

Tháng 11 năm 1592, Trịnh Tùng lại tiến đánh Thăng Long. Mậu Hợp thua chạy về Kim Thành (Hải Dương). Thấy thế nguy cấp, Mậu Hợp lập con là Toàn lên ngôi, tự mình làm tướng thống suất quân đội. Sau các cuộc chiến ác liệt tại khu vực các phủ Nam Sách, Hạ Hồng, Kinh Môn trong tháng 11 và 12 thì quân Mạc thua to. Mạc Mậu Hợp phải bỏ trốn đến huyện Phượng Nhãn, bị bắt sống sau đó ít ngày và bị hành hình.

Sau vài cuộc chiến khác chống lại các thế lực tàn dư nhà Mạc, Trịnh Tùng rước vua Lê Thế Tông trở lại Thăng Long năm 1593.

Dẹp tàn dư họ Mạc

Dù Mạc Mậu Hợp và sau đó là Mạc Toàn bị bắt và bị giết thì thế lực của nhà Mạc chưa bị tiêu diệt hết. Các vùng như Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng vẫn thuộc quyền quản lý của nhiều người như Mạc Kính Chỉ, Mạc Kính Cung cho tới năm 1623. Nhà Minh, vì muốn duy trì thế Nam Bắc triều ở Việt Nam có lợi cho họ nên can thiệp để họ Mạc được cát cứ ở Cao Bằng. Vì vậy cháu Mạc Kính Điển là Kính Khoan và con Khoan là Kính Vũ vẫn cát cứ ở Cao Bằng, dù về cơ bản, họ Trịnh đã làm chủ Bắc Bộ và Bắc Trung bộ.

Khi nhà Minh mất (1644), các vua Nam Minh – tàn dư nhà Minh – vẫn ủng hộ họ Mạc. Họ Mạc nối nhau trấn giữ ở đây trong nhiều năm. Mãi đến khi nhà Minh mất hẳn (1662) về tay nhà Thanh, họ Trịnh mới ra tay dẹp họ Mạc. Tới năm 1677, chúa Trịnh Tạc sai tướng Đinh Văn Tả đi đánh, việc trấn giữ Cao Bằng của họ Mạc mới chấm dứt.

Trịnh – Nguyễn phân tranh

Sau khi Nguyễn Hoàng xuống phía Nam đã xây dựng căn cứ và phát triển thành một thế lực độc lập, hình thành chính quyền của họ Nguyễn. Tuy các chúa Nguyễn vẫn hợp tác với chúa Trịnh để chống nhà Mạc và vẫn đứng danh nghĩa là thần tử nhà Lê, nhưng thực tế các chúa Nguyễn vẫn cai trị các tỉnh biên giới phía Nam Đại Việt với một chính quyền độc lập. Hơn thế nữa, họ đã có công mở rộng lãnh thổ Đại Việt lên gấp đôi về phía Nam. Sau khi đánh bại nhà Mạc, sự độc lập của các chúa Nguyễn ngày càng trở nên khó chịu đối với các chúa Trịnh.

Chúa Nguyễn xây dựng hai giới tuyến rất vững chắc kéo dài vài dặm từ biển đến tận các ngọn đồi. Họ đã bảo vệ hai giới tuyến này chống lại nhiều cuộc tấn công của các chúa Trịnh. Trong thời gian từ 1627 đến tận 1672, hai bên giao chiến cả thảy 7 lần. Năm 1655, quân Nguyễn thắng thế vượt sông Gianh đánh Nghệ An, chiếm 7 huyện và mang theo nhiều dân cư ở đây vào khai khẩn trong nam. Năm sau quân Trịnh phản công chiếm lại.

Dẹp yên khởi nghĩa nông dân

Các chúa Trịnh từ Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng, Trịnh Tráng, Trịnh Tạc, Trịnh Căn, Trịnh Cương đều là những chúa giỏi cai trị. Sau khi chiến tranh Trịnh – Nguyễn và Trịnh – Mạc chấm dứt, Bắc Hà yên ổn thịnh trị.

Các chúa Trịnh cai trị khá tốt, luôn giữ danh nghĩa cho vua Lê. Tuy nhiên họ là người lựa chọn ra vua và họ có quyền cha truyền con nối. Không giống như các chúa Nguyễn, những người thường gây chiến với Đế chế Khmer và Xiêm La, các chúa Trịnh giữ quan hệ hòa bình hữu hảo với các nước láng giềng.

Năm 1729, Trịnh Cương chết, con là Trịnh Giang lên thay. Trịnh Giang phế bỏ vua Lê là Duy Phương (1729-1732), lập Lê Thuần Tông (anh Duy Phương) lấy lý do là tư thông với cung nữ của cha. Trong thời gian điều hành đất nước Trịnh Giang có nhiều việc làm gây mất lòng dân. Từ đó giặc cướp nổi lên đánh phá nhiều nơi.

Năm 1737, nhà sư Nguyễn Dương Hưng nổi dậy khởi nghĩa. Năm 1739, hậu duệ nhà Mạc (đã bị đổi họ) là Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển cùng Vũ Trác Oánh nổi dậy ở Hải Dương. Tông thất nhà Lê là Lê Duy Mật cũng định làm binh biến ở Thăng Long để lật đổ họ Trịnh nhưng không thành nên rút ra ngoài. Đến năm 1740 đồng loạt các cuộc nổi đậy lớn của quận He Nguyễn Hữu Cầu, quận Hẻo Nguyễn Danh Phương và Hoàng Công Chất bùng phát. Chính sự Bắc Hà hết sức rối ren.

Trịnh Giang không khắc phục được khó khăn, lại mắc bệnh nằm bẹp dưới nhà hầm không điều hành được công việc. Trước tình hình đó, gia tộc họ Trịnh phế bỏ Trịnh Giang, lập em là Trịnh Doanh lên ngôi năm 1740. Là người có tài năng, Trịnh Doanh điều chỉnh chính sách, ra tay đánh dẹp, dần dần củng cố lại tình hình Bắc bộ. Trong cuộc chinh phạt nổi lên tên tuổi các danh tướng Hoàng Ngũ Phúc, Bùi Thế Đạt, Phạm Đình Trọng. Đến khi Trịnh Doanh mất (1767), cơ bản các cuộc nổi dậy đều bị dẹp tan, chỉ còn Hoàng Công Chất và Lê Duy Mật. Con Doanh là Trịnh Sâm lên ngôi nhanh chóng dẹp nốt các cuộc khởi nghĩa này năm 1769.

Trịnh bại Lê vong

Hòa bình lâu dài với Đàng Trong kết thúc khi cuộc nổi dậy Tây Sơn ở phía nam chống lại chúa Nguyễn bùng nổ. Cuộc nổi dậy Tây Sơn được chúa Trịnh Sâm coi là một cơ hội để kết liễu chúa Nguyễn ở miền nam. Năm 1774, Trịnh Sâm cử lão tướng quận Việp Hoàng Ngũ Phúc mang quân tấn công và chiếm Phú Xuân. Quân Trịnh tiếp tục tiến về phía nam trong khi quân Tây Sơn chiếm các thành khác ở trong nam. Các chúa Nguyễn giữ Gia Định tới tận khi nó bị chiếm vào năm 1777 và dòng họ nhà Nguyễn gần như bị tiêu diệt. Lần đầu tiên nước Việt thống nhất.

Họ Trịnh từ Trịnh Kiểm đến Trịnh Sâm là truyền được 8 đời chúa. Năm 1782, Trịnh Sâm chết. Ngay từ khi Trịnh Sâm còn sống đã diễn ra cuộc tranh giành ngôi thế tử giữa con trưởng Trịnh Tông và con thứ Trịnh Cán. Trịnh Cán còn nhỏ nên thực chất đó là phe Tuyên phi Đặng Thị Huệ. Tuyên phi lôi kéo quận Huy là Hoàng Đình Bảo (cháu Hoàng Ngũ Phúc). Vì Tuyên phi được sủng ái nên Trịnh Cán được lập làm thế tử. Khi Trịnh Sâm chết, Trịnh Cán lên thay, quận Huy phụ chính. Quân kiêu binh giúp Trịnh Tông làm binh biến giết chết quận Huy, phế bỏ Trịnh Cán và đưa Trịnh Tông lên ngôi chúa.

Tuy nhiên từ khi Trịnh Tông lên ngôi, chính sự cũng không sáng sủa. Quân kiêu binh cậy công làm càn, cướp của, phá phách kinh đô, kể cả nhà các quan lại. Trịnh Tông không dẹp nổi.

Ngoài biên cương, sau khi quận Việp mất, thành Phú Xuân giao cho Bùi Thế Đạt. Sau Đạt cũng rút về bắc giao lại cho Phạm Ngô Cầu và Hoàng Đình Thể. Tướng sĩ kiêu ngạo, lơ là mất cảnh giác phòng bị.

Vua chúa cùng chạy

Tây Sơn không muốn trở thành kẻ bầy tôi của các chúa Trịnh và sau một vài năm củng cố quyền lực ở phía nam, tướng Tây Sơn là Nguyễn Huệ tiến ra phía bắc Đại Việt vào giữa năm 1786 với một đội quân đông đảo. Quân Trịnh bị quân Tây Sơn đánh bại và chúa Trịnh Khải phải chạy về phía tây bắc và sau đó bị bắt. Trên đường áp giải về Thăng long, Trịnh Khải dùng dao cắt cổ tuẫn tiết.

Tây Sơn rút về, các bầy tôi cũ lại lập con Trịnh Giang là Trịnh Bồng lên ngôi. Vua Lê mới là Chiêu Thống muốn củng cố quyền lực của nhà Lê nên triệu Nguyễn Hữu Chỉnh đang trấn thủ Nghệ An ra giúp. Chỉnh đánh tan quân Trịnh, Trịnh Bồng bỏ đi mất tích.

Tuy nhiên sau đó Nguyễn Hữu Chỉnh lại lộng quyền. Nguyễn Huệ phái Vũ Văn Nhậm ra giết Chỉnh rồi đến lượt Nhậm lại mưu cát cứ ở Bắc Hà. Vua Càn Long điều một đội quân lớn tới Việt Nam nhằm tái lập vua Lê. Quân Thanh chiếm được Thăng Long năm 1788 nhưng sau đó bị Nguyễn Huệ giáng cho một đòn nặng nề đầu năm 1789. Quân Thanh thua to, rút chạy. Nguyễn Huệ -lúc ấy đã là hoàng đế Quang Trung – sau đó được vua Thanh công nhận và chính thức thay họ Lê cai trị nước Đại Việt. Chiêu Thống lưu vong và chết ở Trung Quốc.

Các chúa Trịnh cầm quyền 249 năm, được 11 đời chúa (kể từ chúa Trịnh Từng đến chúa Trịnh Bồng).

Đánh giá

Các chúa Trịnh đã tránh một số vấn đề quản lý triều đình bằng cách lựa chọn người con giỏi nhất cai trị đất nước. Khi lập thế tử, các chúa Trịnh không nhất thiết chọn con cả, mà chọn người con nào giỏi nhất. Giống như các chúa Nguyễn và nhà Nguyễn sau này, các chúa Trịnh cũng gặp phải vấn đề với các cuộc nổi dậy của nông dân và việc không có ruộng đất đã trở thành một nguồn gốc gây nên các vấn đề cho triều đình.

Các chúa Trịnh chú ý tới việc giữ vững các quan hệ tốt với Trung Quốc và giữ gìn xã hội Khổng giáo hơn các chúa Nguyễn. Vào những năm sau này khi nhà Nguyễn nổi lên và cai trị toàn bộ Việt Nam, các chúa Trịnh đã bị đánh giá thấp, thậm chí lên án trong chính sử, điển hình là sách “Khâm định Việt sử Thông giám cương mục”. Nếu nhìn nhận khách quan hơn, phần lớn các chúa Trịnh đều là những người tài. Như trên đã đề cập, chỉ trừ Trịnh Cán, các chúa từ Trịnh Kiểm đến Trịnh Sâm đều là chúa giỏi, do đó đã hoàn thành việc đánh dẹp và cai trị phía Bắc Việt Nam, giữ cho xã hội Việt Nam ổn định trong gần 3 thế kỷ không bị nước ngoài xâm lăng.

Các chúa Trịnh Căn, Trịnh Cương, Trịnh Giang, Trịnh Doanh và Trịnh Sâm ngoài võ công còn được đánh giá là những người hay chữ. 5 chúa từ Trịnh Kiểm đến Trịnh Căn đều rất thọ (từ 68 đến 81 tuổi). Các thành tựu của nhà Lê trung hưng thực chất là thành tựu do các chúa Trịnh.

Hiển nhiên với ngôi vị “phi đế phi bá”, vừa thực sự là người cầm trịch trong bộ máy chính quyền, vừa phải cảnh giác với sự nổi dậy đòi quyền của họ Lê, các chúa Trịnh phải luôn có thái độ cứng rắn, cương quyết, không thể ôn hòa như các vua Hiến Tông, Túc Tông nhà Lê sơ trước đây, nhằm bảo vệ địa vị của mình. Do đó việc phế lập tại triều đình trong cuộc đấu tranh đó là khó tránh khỏi. Chỉ có các vua Lê bằng lòng sống chung với họ Trịnh mới có thể tồn tại.

Trong 3 chúa cuối cùng của họ Trịnh, trừ Trịnh Cán quá nhỏ không đáng kể, hai chúa Trịnh Tông và Trịnh Bồng dù không đủ năng lực nhưng cũng là những người biết cách rút lui. Trịnh Tông tự vẫn không để mình lọt vào tay Tây Sơn, Trịnh Bồng bỏ đi mai danh ẩn tích khi biết dòng họ mình không còn đủ uy tín để giữ ngôi cai trị. Không ai trong họ Trịnh đi cầu viện nước ngoài như những người đứng đầu các tập đoàn song song tồn tại khi đó là Nguyễn Phúc Thuần (định cầu viện nhà Thanh), Nguyễn Ánh (cầu Xiêm, Pháp, Bồ), Lê Duy Kỳ (cầu viện Thanh).

Lê và Trịnh gần như cùng mất một thời điểm nhưng cách rời bỏ vũ đài chính trị của họ Trịnh không giống với họ Lê.

Danh sách niên đại các chúa Trịnh

Danh sách dưới đây gồm 12 vị chúa. Nhưng bắt đầu kể từ Trịnh Tùng mới được phong Vương.

1. Trịnh Kiểm (1503-1570): Người cai trị đầu tiên, nắm quyền trong khoảng 1545-1570, trải qua ba đời vua: Lê Trang Tông (1533-1548), Lê Trung Tông (1548-1556) và Lê Anh Tông (1556-1573).

2. Trịnh Tùng (1550-1623): con thứ của Trịnh Kiểm, nắm quyền trong khoảng 1570-1623, trải qua bốn đời vua: Lê Anh Tông (1556-1573), Lê Thế Tông (1573-1599), Lê Kính Tông (1600-1619) và Lê Thần Tông (1619-1643).

3. Trịnh Tráng (1577-1657): Con cả Trịnh Tùng, nắm quyền trong khoảng 1623-1657, trải qua nhiều đời vua: Lê Chân Tông (1643-1649), Lê Thần Tông (lần hai: 1649-1662).

4. Trịnh Tạc (1606-1682): Con Trịnh Tráng, nắm quyền trong khoảng 1657-1682, trải qua các thời vua: Lê Thần Tông (lần hai: 1649-1662), Lê Huyền Tông (1663-1671), Lê Gia Tông (1672-1675) và Lê Hy Tông (1676-1704).

5. Trịnh Căn (1633-1709): Con Trịnh Tạc, nắm quyền trong khoảng 1682-1709, trải qua các thời vua: Lê Hy Tông (1676-1704), Lê Dụ Tông (1705-1729).

6. Trịnh Cương (1690-1729): Chắt Trịnh Căn (con Trịnh Bính, cháu nội Trịnh Vĩnh), nắm quyền trong khoảng 1709-1729, trải qua thời vua Lê Dụ Tông (1705-1729) và Hôn Đức Công (1729-1732).

7. Trịnh Giang (1709-1751): Con Trịnh Cương, nắm quyền trong khoảng 1729-1740, trải qua các thời vua Lê Thuần Tông (1732-1735) và Lê Ý Tông (1735-1740); bị phế truất năm 1740, mất năm 1751.

8. Trịnh Doanh (1720-1767): Em Trịnh Giang, nắm quyền trong khoảng 1740-1767, trải qua các thời vua Lê Ý Tông (1735-1740) và Lê Hiển Tông (1740-1786).

9. Trịnh Sâm (1739-1782): Con Trịnh Doanh, nắm quyền trong khoảng 1767-1782, trải qua thời vua Lê Hiển Tông (1740-1786).

10. Trịnh Cán (1777-1782): Con Trịnh Sâm, nắm quyền từ tháng 9 năm 1782 đến tháng 10 năm 1782 thời vua Lê Hiển Tông; bị phế làm Cung quốc công và mất sau loạn kiêu binh 1782.

11. Trịnh Khải hay gọi theo tên cũ là Trịnh Tông (1763-1786): Anh Trịnh Cán, nắm quyền từ tháng 10 năm 1782 đến 1786 thời vua Lê Hiển Tông.

12. Trịnh Bồng: Con Trịnh Giang, cầm quyền từ tháng 9 năm 1786 đến tháng 9 năm 1787 thời Lê Chiêu Thống. Trốn mất tích không biết kết cục ra sao.