Có thực mới vực được đạo thuộc phương pháp luận nào

Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đã từng một lần nghe thấy câu nói “có thực mới vực được đạo” đúng không nào? Tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu rõ được ý nghĩa sâu xa ẩn giấu sau câu nói này. Vậy, có thực mới vực được đạo là gì? Cùng muahangdambao.com tìm kiếm câu trả lời trong bài viết chi tiết dưới đây các bạn nhé!

Giải thích câu có thực mới vực được đạo

Đây là câu tục ngữ quen thuộc thường được dùng để nói lên tầm quan trọng của việc ăn uống trong đời sống hàng ngày [dĩ thực vi tiên]. Chúng ta có thể hiểu đơn giản câu nói này theo nghĩa đen là: Con người cần phải được ăn uống đầy đủ để có sức khỏe thật tốt trước đã, có sức khỏe rồi mới có thể đi theo Đạo được. Tức, đời sống vật chất được đáp ứng đủ đầy thì chúng ta mới một lòng chú tâm hướng tới đời sống tâm linh.

Có thực mới vực được đạo ý nghĩa là gì?

Tuy vậy, câu tục ngữ này còn mang theo một ý nghĩa sâu xa hơn. Đó là, trong cuộc sống, chúng ta trước tiên cần quan tâm tới những điều căn bản và thiết thực nhất. Sau đó mới nên nghĩ tới bất cứ điều gì ngoài tầm với hiện tại so với năng lực của mình. Chẳng hạn như là những ước mơ, mục tiêu mà chúng ta đang theo đuổi lúc này.

Chân lý “Có thực mới vực được đạo” đã được ông cha ta đúc kết trong hàng trăm năm qua. Và cho đến tận bây giờ nó đã trở thành 1 câu nói vô cùng phổ biến, được coi là “6 chữ vàng” ý nghĩa.

Vậy có thực mới vực được đạo trong tiếng Anh là gì?  Có thể bạn không biết, thành ngữ trong tiếng Anh cũng rất phong phú và có thực mới vực được đạo English sẽ là “Fine words butter no parsnips”. Nó có nghĩa là những lời ngon ngọt, bùi tai thì không có hữu ích gì cả, phải hành động trước chứ không nên chìm đắm trong ảo tưởng.

Có thực mới vực được đạo trong Đạo Phật được định nghĩa thế nào?

Bạn có biết rằng trong cuộc đời của mỗi chúng ta tồn tại bao nhiêu cách để ăn uống không? Và có mấy loại thức ăn?  Lâu nay đa phần mọi người đều nghĩ rằng, con người chỉ có thể ăn bằng miệng [người đời còn gọi là Đoàn thực]. Nhưng trên thực tế thì, theo quan niệm Phật giáo, lại có đến 4 cách ăn. Dưới đây là 4 cách ăn:

  • Thứ nhất là cách ăn kiểu “đoàn thực”: “Đoàn” ở đây tức là thức ăn đã được vo tròn lại rồi đưa vào trong miệng. Đây là cách ăn đúng, hợp lý để bảo vệ sức khỏe. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần phân biệt được đâu là thức ăn lành mạnh và đâu là thức ăn có chứa độc tố. Việc ăn uống không khoa học dễ để lại di chứng về sau.
  • Thứ hai là cách ăn kiểu “xúc thực”: Kiểu “ăn” này có nghĩa là những gì ta tiêu thụ bằng chính năm giác quan còn lại là mắt, tai, mũi, thân và ý. Mắt tiếp xúc trực tiếp với hình sắc, tai là âm thanh, mũi là mùi hương, lưỡi là mùi vị, thân là cảm giác đụng chạm, ý là pháp trần.
Đạo Phật định nghĩa thế nào về “có thực mới vực được đạo”?
  • Thứ ba là cách ăn kiểu “tư niệm thực”: Là những hoài bão to lớn, những ước mơ, những hoài vọng sâu xa của bản thân đang được ấp ủ thực hiện.
  • Thứ tư là cách ăn kiểu “thức thực”: Đó là những cái ở bên ngoài môi trường đang sống, tác động trực tiếp vào tâm thức [trong tiềm thức] của mỗi chúng ta. Khi bạn sống và làm việc trong môi trường lành mạnh và nhiều người tốt thì tâm thức sẽ tốt. Còn ngược lại, với môi trường xấu, độc hại thì tâm thức của bạn cũng sẽ bị cuốn trôi theo cái xấu đó.

Tóm lại, theo Đạo Phật chúng ta có tới 4 cách ăn, trong đó có đến 3 cách ăn thuộc về dạng tinh thần. Vậy cách ăn theo nghĩa đen, ăn để no chỉ là đoàn thực, còn những cách ăn còn lại mới thực sự có giá trị sâu sắc hơn cả.

Xem thêm: Đàn gảy tai trâu là gì? Nguồn gốc, ý nghĩa và cách sử dụng chuẩn

Có thực mới vực được đạo triết học giải thích ra sao?

Đạo Phật giải thích như trên vậy triết học đánh giá thế nào về câu “có thực mới vực được đạo?”. Có người nói rằng “thực” ở đây tức là ăn, phải no căng cái bụng đã thì mới có thể nói chuyện đạo lý, phải lo kiếm được thật nhiều tiền rồi mới bắt đầu chuyên tâm tu dưỡng.

Nghe thì có vẻ rất hợp lý nhưng khi ta suy xét kỹ lại thì cách lý giải ấy lại không được trọn vẹn và triệt để. Tư duy này khiến nhiều người nghĩ rằng đạo và đời là hai thứ hoàn toàn tách biệt với nhau nhưng trong thực tế chúng lại là một.

Chính bởi cách suy nghĩ sai lầm như vậy nên một người đang có xu hướng không tự ý thức để rèn luyện chính mình trong khi kiếm ăn, làm việc hay khi giao tiếp với thế giới.

Họ phải sống vô đạo trước rồi mới lo tới chuyện có đạo nếu “thực” đó không hề liên quan tới chuyện tu luyện chính mình – thứ họ để lại rồ làm sau. Và việc “thực” làm nền tảng chính cho “đạo” thì lại càng là ý tưởng vô cùng sai lầm, không khác gì nói vật chất là thứ quyết định ý thức cả. Các nhà khoa học vật lý lượng tử hiện đại ngày nay đã chứng minh được rằng ý thức là thứ quyết định vật chất chứ không phải ngược lại.

Nhà vật lý Erwin Schrödinger đã từng nói rằng: “Ý thức không thể diễn giải được bằng những thuật ngữ vật lý. Bởi ý thức là một nền tảng tuyệt đối. Nó không thể được diễn giải chính xác trong thuật ngữ của bất cứ lĩnh vực nào.”

Dĩ nhiên, no cái bụng hay ổn định về phương diện tài chính – kinh tế là điều kiện cần cho chuyện tu dưỡng, nhưng nó không phải điều kiện đủ. Một người không cần phải quá no hay quá giàu để có thể chạm tới được những giá trị tinh thần cao quý nhất. Thứ họ cần chính là ý chí hướng thiện và sự tinh tấn trong thực hành.

Triết học lý giải “có thực mới vực được đạo” theo cách nào?

Nhẫn nại, có kỷ luật, sống trong sạch và biết thương yêu mọi người xung quanh là phẩm hạnh không cần phụ thuộc vào bất cứ sự dư dật đồng tiền hay thể xác nào trong thế giới này. Nó thuần thuộc về phương diện đời sống tinh thần, và cần một sự cơ bản về nền tảng sức khỏe để đáp ứng nó.

Chuyện “vực được đạo” kia không hoàn toàn phụ thuộc vào việc ăn uống hay là kiếm tiền. Nó có thể xảy ra vào chính lúc này, ngay tại đây mà không cần thêm điều kiện gì khác. Đó là chưa kể, đời sống “thực tế” của con người hiện nay chỉ có thể được dồi dào ý nghĩa nhờ thực hành kết hợp với đạo lý. Hay nói cách khác hơn là “có đạo mới vực được thực.”

Theo triết học, chữ “thực” nên được hiểu là thực hành, áp dụng đạo lý vào trong đời sống hàng ngày, tự mình kiểm chứng tính đúng sai của đạo lý bằng những trải nghiệm thực tế từ góc nhìn của mình. Đó chính là cách hiện thực hóa “đạo” sao cho đúng. Ví dụ luyện tập ăn uống có điều độ, khoa học là đạo, giao tiếp nhẹ nhàng, khách sáo với đối tác là đạo, làm tấm gương sáng cho con cái noi theo là đạo, kiên trì rèn luyện sức khỏe thường xuyên là đạo, điềm tĩnh trong mọi tình huống khó khăn thiếu thốn cũng là đạo.

Lý thuyết mà không được áp dụng đúng vào thực tế thì chỉ được coi là chuyện hô hào suông, suy nghĩ sâu xa mà không có hành động cụ thể thì cũng chỉ là ý nghĩ viển vông nghĩ quẩn rồi sinh ra hoang tưởng hoang đường.

Trong khi chúng ta đang muốn đi tìm ý thực nghĩa của câu “có thực mới vực được đạo” thì nó vẫn đúng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Cho dù có được biến thể theo cách nào thì tựu chung lại, câu tục ngữ này cũng muốn nhắn nhủ với mọi người rằng cần phải làm những việc thiết thực trước mắt, sau đó mới nghĩ tới những vấn đề khác xa vời hơn.

“Có thực mới vực được đạo” không chỉ đơn giản ăn no là đủ

Hy vọng với bài viết trên đây của muahangdambao.com đã giúp các bạn đọc hiểu rõ hơn “có thực mới vực được đạo” là gì và áp dụng đúng cách trong đời sống nhé!

Tìm hiểu những yếu tố triết học [hay triết lý dân gian] trong tục ngữ Việt Nam

Vũ Hùng

08:49 CH @ Thứ Sáu - 24 Tháng Ba, 2006

Tục ngữ và triết học là hai lĩnh vực, hai hiện tượng ý thức xã hội khác nhau. Tục ngữ thuộc lĩnh vực nghệ thuật, là một thể loại văn học dân gian [folklore], còn triết học thuộc lĩnh vực khoa học, là khoa học về thế giới quan và phương pháp luận.

Tri thức của tục ngữ là tri thức dân gian, được rút ra trên cơ sở quan sát và miêu tả cái cụ thể, đó là những tri thức kinh nghiệm, những "lẽ phải thông thường". Còn triết học - triết học nào cũng đi xa hơn "lẽ phải thông thường là tri thức khoa học, là hệ thống những quan niệm, quan điểm về thế giới, là sự tổng hợp và khái quát ở mức độ chung nhất và cao nhất những quy luật vận động của tự nhiên, của xã hội, của con người, của tư duy. Tục ngữ là văn học dân gian nên tác giả của nó là tập thể, là quần chúng nhân dân, còn triết học là một môn khoa học nên tác già của một hệ thống hoặc một tác phẩm triết học bao giờ cũng là cá nhân - là những người hoạt động trí óc chuyên nghiệp, có khả năng tư duy lý luận và có năng lực khái quát cao. Xét về cội nguồn, về thời điểm ra đời tục ngữ cũng có trước triết học. Tục ngữ đã có từ trong xã hội nguyên thuỷ, nhưng trong xã hội nguyên thủy thì chưa thể có triết học, nhiều lắm là chỉ có những mầm mống của tư tưởng triết học, hay là tư duy tiền triết học phải đến thời đại văn minh, tức là khi xã hội đã phân chia giai cấp thì triết học thực sự mới có điều kiện ra đời, nghĩa là trình độ tư duy trừu tượng và các tri thức khoa học của con người đã phát triển đến mức đòi hỏi và có khả năng khái quát các tư tưởng triết học.

Tục ngữ tuy không phải là triết học nhưng về phương diện nào đó nó rất gần gũi với triết học. Tục ngữ được làm ra với mục đích triết lý, luôn luôn cố gắng phát hiện ra bản chất và tính quy luật của các sự vật và hiện tượng tự nhiên, xã hội và đời sống con người. Do đó nhiều người gọi tục ngữ là "'triết lý dân gian", "triết học của nhân dân lao động". Điều đó được thể hiện ở chỗ trong nội dung tục ngữ có chứa đựng những yếu tố của tư tưởng triết học, nghĩa là những tư tưởng triết học không được thể hiện một cách đầy đủ và chặt chẽ như những quy luật, nguyên lý và mệnh đề triết học mà nó chỉ được thể hiện một phần nào đó và bằng cách nào đó trong nội dung của tục ngữ.

Về mặt thế giới quan, tục ngữ Việt Nam đã phản ánh những nhận thức có tính duy vật tự phát, thừa nhận sự tồn tại và vận động khách quan của thế giới không phụ thuộc vào con người: "Chạy trời không khỏi nắng", "Chạy mưa không khỏi trời", "trời", "nắng", "mưa" ở đây chính là hiện thực khách quan. Sự vật và hiện tượng khách quan tồn tại, vận động và phát triển theo quy luật vốn có của nó: “Trăng đến rằm thì tràng tròn, sao đến tối thì sao mọc", "Còn da lông bọc, còn chồi nẩy cây". Tư tưởng duy vật của nhân dân lao động còn được thể hiện ở thái độ phản đối những chuyện mê tín dị đoan và những người làm các nghề đó: "Thầy bói nói dựa", "Bói ra ma, quét nhà ra rác”.

Nhân dân lao động còn thể hiện tư tưởng duy vật của mình trong việc nhìn nhận và giải quyết các vấn đề về đời sống xã hội. Đó à một thứ chủ nghĩa duy vật trực quan, chất phác, ngây thơ, xuất phát từ kinh nghiệm. Quan điểm duy vật đó được thế hiện một cáchh đơn giản và sinh động: "Có thực mới vực được đạo”. "Thực" ở đây có thể là ăn, là lương thực, là kinh tế như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng vận dụng trong những trường hợp cụ thể khác nhau. Nhưng dù sao, "thực" cũng là một cơ sở kinh tế, là đời sống vật chất là tồn tại xã hội, còn "đạo" nghĩa là sự nghiệp, là lý tưởng hoạt động thuộc lĩnh vực kiến trúc thượng tầng, là đời sống tinh thần, là ý thức xã hội. "Thực" vực "đạo", nghĩa là vật chất quyết định tinh thần, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.

Con người là chủ thể xã hội, nhưng cũng là một sinh vật. Đối với mọi sinh vật, ăn phải là nu cầu hàng đầu: "Mẻ không ăn cũng chết". Những con người thì không chỉ có ăn, mà sau ăn phải là mặc: "Được bụng no còn lo ấm cật". Và khi có ăn có mặc rồi thì con người không lo chết đói chết rét nữa: "Cơm ba bát, áo ba manh, đói không xanh, rét không chết”.

Nhưng muốn có ăn, có mặc thì phải lao động vì như Engen nói: "lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống con người". Vốn là những người lao động nên nhân dân ta rất coi trọng lao động và thấy rõ giá trị của lao động: “Khen nết hay làm, ai khen nết hay ăn”, “Có khó mới có miếng ăn”, “Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ”…

Nói đến xã hội, nói đến lao động thì phải nói đến chính bản thân con người, vìkhông có con người thì không có xã hội, không có lao động. Bởi vậy xưa nay triết học Đông Tây đều bàn về con người rất nhiều. Tục ngữ ta có câu; " Người ta là hoa đất” -một câu nói chỉ có năm từ thuần Việt mà thể hiện sâu sắc quan niệm cả về vũ trụ và nhân sinh, vớimột tư tưởng nhân văn cao đẹp.

Nói về con người và giá trị con người, tục ngữ ta thường so sánh người và của bao giờ cũng đặt người trên cao hơn rấtnhiều: “Người làm ra của, của không làm ra người", "Một mặt người hơn mười mặt của”, “Người sống hơn đống vàng"… Đương nhiên, trên thực tế tuy cùng là "người" nhưng không phải ai cũng như ai, cũng như tuy cùng là "của" nhưng không phải cái gì cũng có hai trị như nhau, vì thế tục ngữ ta cũng có phân loại: “Người ba bẩy đảng, của ba bẩy loài”.

Đi đôi với tư tưởng duy vật tự phát, trong tục ngữ Việt Nam cũng chứa đựng rất nhiều những yếu tố của tư tưởng biện chứng. Đó là cách nhìn nhận các sự vật và hiện tượng không phải ở trạng thai đứng im, bất biến mà ở trong sự vận động, biếnđổi và phát triển và luôn luôn liên hệ điều đó với đời sống con người: “Trời còn có khả năng khi mưa, ngày còn khi sớm khi trưa nữa người”, “Người có lúc vinh, lúc nhục, nước có lúc đục lúc trong”, “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”, “Hết cơn bĩ cực đến kỳ thái lai”, “Tre già măng mọc”, “Con chị nó đi, con dì nó lớn”…

Các sự vật và hiện tượng không tồn tại độc lập, tách rời nhau: mà giữa chúng có những mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau với mức độ và phạm vi khác nhau tùy theo từng đối tượng cụ thể: "Mạ nhờ nước, nướcnhờ mạ”, “Hồ cậy rừng, rừng cậy hồ”, “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”, “Gần lửa rát mặt”, “Cháy thành vạ lây”, “Con sâu bỏ rầu nồi canh”, “Thớt trên mòn, thớt dưới cũng mòn’, “Trâu bò đánh nhau ruồi muỗi chết”, “Cả nhà làm quan cả họ được cậy, một người làm bậy cả họ mất nhờ”, “Lê tồn Trịnh, tại Lê bại Trịnh vong”…

Mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng được tục ngữ thể hiện khá phong phú và sinh động, tuy không phải dùng đến khái niệm “Chất, lượng, độ, thuộc tính” như triết học. Phân biệt chất khác nhau được tạo nên bởi những thuộc tính khác nhau: “Chẳng chua cũng thể là chanh, chẳng ngọt cũng thể cam sànhchín cây”. Chất khác nhau tạo ra những giá trị khác nhau: “Trăng mờ còn tỏ hơn sao, dẫu rằng núi nở còn cao hơn đồi”. Không thể lấy lượng thay chất được dù rằng lượng đó gấp bao nhiêu lần: “Trăm đom đóm không bằng bó đuốc, trăm hòm chỉ chẳng đúc lên chuông”. Chất bao giờ cũng được coi trọng hơn lượng. “Quý hồ tinh bất quý hồ đa”, “Văn hay chẳng lọ dài dòng”… và rất nhiều câu diễn tả sự thay đổi về lượng khi “vượt độ” sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất: “Quá mù ra mưa”, “Tốt quá hoá lốp”, “Mèo già hoá cáo”, “Góp gió thành bão, góp cây nên rừng”… Đặc biệt có câu thể hiện sự chuyển hoá lẫn nhau giữa khái niệmlượng và khái niệm chất: ”Gò với núi cũng kể loài cao, bể với ao cũng kể loài thấp”.

Mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng được tục ngữ nói đến ở nhiều góc độ và mức độ khác nhau, rất thực tế và linh hoạt. Bản chất bao giờ cũng bộc lộ qua hiện tượng: "Người khôn dồn ra mặt", "Khôn ngoan hiện ra nét mặt, què quặt hiện ra chân tay". Có thể căn cứ vào hiện tượng đề kết luận về thực chất sự vật: "Nứa trôi sông chẳng giập thì gẫy, gái trồng rẫy chẳng chứng nọ cũng tật kia". Hiện lượng khác nhau nhưng bản chất chi là một: “Khác lọ cùng một nước". Cái bề ngoài thì dễ thấy nhưng cái bên trong thì khó mà thấy: "Họa hổ hoạ bì nan họa cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm". Phải cảnh giác với những hiện tượng xuyên tạc bản chất: "Thủ thỉ nhưng mà quỷ ma", "Tẩm ngẩm tầm ngầm mà dẫm chết voi"...

Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả [gọi tắt là quan hệ nhân quả] cũng được thể hiện trong nhiều câu tục ngữ: "Không có lửa sao có khói", “Gieo gió gặt bão”, “Trèo cao ngã đau”, “Nguồn đục dòng cũng đục”, “Thế gian chẳng ít thì nhiều, không dừng ai dễ đặt điều cho ai”…

Mối quan hệgiữa cái riêng và cái chung trong tục ngữ được thể hiện như là sự gắn bó và phân biệt giữa cá thể và và loài trong thế giới sinh vật: “Thân chim cũng như thân cò”, “Lòng vả cũng như lòng sung, một trăm con lợn cũng chung một lòng”, “Sống mỗi người mỗi nết, chết mỗi người mỗi tật”…

Quan hệ mâu thuẫn trong tự nhiên và xã hội được trình bàynhư là “sự trái ngược” đơn thuần: “Được mùa cau, đau màu lúa”, “Được người mua, thua người bán’, “Được lòng ta xót xa lòng người”, “Kẻ ăn không hết, người lần không ra”…

Bên cạnh những tư tưởng duy vật và tư tưởng biện chứng có tính chất trực quan đó, nhân dân lao động ngày xưa, do thế giới quan không thuần nhất, do trình độ nhận thức còn thấp kém và do bị áp bức nặng nề trong xã hội có giai cấp đối kháng nên không tránh khỏi những tư tưởng duy tâm và mê tín dị đoan. Tuy có nghi ngờ, không tin vào các loại "thầy" cụ thể làm nghề mê tín, nhưng họ lại tin vào thần thánh, vào vận hạn, vào tướng mạo và những dấu vết trên cơ thể con người, vào ngày giờ lành dữ, và nhất lả tin vào số mệnh [những câu tục ngữ nói về "số" cũng nhiều hơn về các thứ mê tín khác]: "Đất có thổ công, sông có hà bá," "Trời cho hơn lo làm", "Một khoáy sống lâu, hai khoáy trọc đầu, ba khoáy chóng chết", "Chớ đi ngày bảy, chớ về ngày ba", "Từ sinh hữu mệnh, phú quí tại thiên", "Trăm đường tránh chẳng khỏi số", "Tốt số hơn bố giầu', "Số giàu tay trắng cũng giàu, số nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo"...

Những tư tưởng duy tâm, mê tín nói trên không những chi phối nặng nề đời sống của nhân dân lao động nước ta trong các xã hội trước đây, mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến một bộ phận nhân dân trong xã hội ta ngày nay, đặc biệt là đối với lớp người làmnghề buôn bán và tầng lớp thanh niên gặp nhiều khó khăn, trắc trở về tình duyên, về công việc làm ăn... Đó cũng là điều khó tránh khỏi. Chi có sự phát triển của đời sống xã hội và kinh nghiệm thực tế của mỗi người mới có thể dần dần khắc phục và loại trừ những quan niệm sai lầm trong thế giới quan và nhân sinh quan.

Ý nghĩa triết học của kho tàng tục ngữ Việt Nam rất rộng lớn, phong phú, muôn hình, muôn vẻ. Đó là những di sản quý báu “Những viên ngọc quý” của đời sống tinh thần được coi như một trong những điểm tựa về tư tưởng truyền thống của dân tộc mà chúng ta cần và có thể chọn lọc, kế thừa và sử dụng trong cuộc sống mới hiện nay.

Nguồn:Tạp chí Triết học

LinkedInPinterestCập nhật lúc:08:32 CH @ 06/09/2008

Video liên quan

Chủ Đề