Đánh giá những khó khăn tâm lý của học sinh thcs

Đối với học sinh lớp 5, việc chuyển tiếp từ bậc tiểu học lên bậc THCS được coi là bước ngoặt trong cuộc đời. Các con bắt đầu một môi trường học tập mới với nhiều kiến thức mới, mối quan hệ mới.

Rất nhiều phụ huynh đặt ra câu hỏi tại sao khi học tiểu học các con đều là học sinh giỏi nhưng khi mới lên lớp 6 các con lại trở nên thiếu tập trung, học lực giảm sút…

Các thầy cô THCS Đoàn Thị Điểm xin chia sẻ những khó khăn ảnh hưởng đến việc học tập của học sinh khi mới bước vào lớp 6 để từ đó phụ huynh có thể định hướng cho con em mình phương pháp học tập tốt nhất.

1. Sự “mới lạ” của việc học

Việc học ở bậc THCS có khá nhiều điều mới lạ, mỗi thầy cô phụ trách một môn học, hết giờ học  [45 phút] các thầy cô sẽ di chuyển sang lớp khác dạy. Một số học sinh chưa hiểu kỹ bài, không chép bài kịp chưa biết nên làm như thế nào? Một số bạn sẽ thấy thầy cô giảng bài khá nhanh, các bạn chưa quen với việc tự giác ghi chép bài nên còn lúng túng, mất tự tin. Nếu bạn quên học bài, làm bài hay không tập trung trong giờ học… các thầy cô sẽ nhắc nhở, nếu bạn tiếp tục vi phạm thầy cô sẽ có biện pháp nghiêm khắc hơn để bạn tiến bộ.

2. Sự thay đổi về tâm sinh lý

Việc đầu tiên có thể khiến các bạn học sinh lớp 6 trở nên nhút nhát đó là tâm lý đang là những học sinh lớn nhất của trường tiểu học nay lại trở thành nhỏ nhất của trường THCS. Nhìn các anh chị lớp trên to lớn, lanh lợi, các bạn bỗng thấy mình sao nhỏ bé, ngơ ngác. Hơn thế, các nội quy, quy định của nhà trường đều được thực hiện thật nghiêm túc như đi học muộn, không mặc đồng phục,… thường xuyên được theo dõi chặt chẽ để đánh gíá thi đua của cá nhân và của lớp, bạn nào vi phạm sẽ bị phê bình. Những điều đó có thể khiến các bạn thấy rất mới lạ là lo ngại.

3. Một số môn học có độ khó hơn hẳn tiểu học

Các môn Toán, Vật lý, Tiếng Anh, Ngữ văn có độ khó hơn hẳn, mỗi môn lại có những yêu cầu cao hơn.

Môn Toán

Ở bậc THCS, không còn những bài toán chỉ áp dụng công thức cộng, trừ, nhân ,chia đơn thuần mà thay vào đó là những dạng bài logic hơn. Ngoài ra các bạn phải lập luận, chứng minh, áp dụng công thức rồi mới tính toán cho ra kết quả cuối cùng. Trong môn Toán còn chia thành 2 mảng riêng là Đại số và Hình học. Mỗi phần lại xoay quanh những vấn đề, những bài toán riêng đòi hỏi các em phải nắm chắc kiến thức, nội dung.

Môn Ngữ Văn

Không còn là những dạng bài miêu tả một cách đơn giản nữa thay vào đó các bạn được học các lối viết văn khác nhau, học thuộc các bài thơ, các bạn cần soạn bài trước khi lên lớp. Trong khi học, các bạn cần biết cách phân tích mỗi điểm nhấn cần nhớ ở mỗi tác phẩm...

Môn Vật Lý

Lên đến lớp 6 các sẽ không còn các câu hỏi đơn thuần mang tính định tính [Vì sao, Tại sao] của môn Khoa học tự nhiên nữa. Thay vào đó là những câu hỏi mang cả định tính và định lượng [giải thích, tính toán] để làm được những bài đó thì cần nắm vững lý thuyết và thuộc những các công thức Vật lý, các kỹ năng làm bài tập, kỹ năng thực hành thì các bạn mới có thể tiếp thu tốt môn Vật lý ở bậc THCS.

Môn Tiếng Anh

Nếu ở bậc tiểu, học sinh làm quen với một ngôn ngữ mới chủ yếu bằng các hoạt động vui chơi, tiếp cận ngôn ngữ bằng nghe, nhìn, học phát âm ở mức độ cơ bản, tương tác đơn giản thì ở bậc THCS, học sinh bắt đầu học cách tiếp cận ngôn ngữ theo lối tư duy phản biện. Học sinh phải phải nắm vững được những nguyên tắc, đặc điểm của ngôn ngữ cùng với hệ thống kiến thức ngữ pháp căn bản nhằm phát triển toàn diện và hoàn chỉnh các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết để phục vụ không chỉ nhu cầu giao tiếp hàng ngày bằng ngoại ngữ mà còn hướng tới các cuộc thi lớn liên quan đến ngoại ngữ ở trong và ngoài nước như kỳ thi vào các trường chuyên ngữ, kỳ thi dành cho học sinh giỏi các cấp, xin học bổng du học...

Ở bậc THCS, việc tổ chức hoạt động trong giờ học ngoại ngữ cũng đòi hỏi phương pháp hợp lý. Học sinh ở lứa tuổi này không chỉ cần phát triển năng khiếu ngoại ngữ mà còn cần bước đầu làm quen với cách làm việc theo nhóm. Biết cách tổ chức hoạt động nhóm, phân công công việc hợp lý, lãnh đạo nhóm thành công ở một đề tài [dù rất nhỏ] sẽ là những bước phát triển mới của các bạn lớp 6.

Trên đây là những chia sẻ của các thầy cô Đoàn Thị Điểm về những khó khăn mà học sinh thường gặp khi bước sang bậc học THCS. Với đội ngũ giáo viên giỏi, tâm huyết và nhiều kinh nghiệm cùng đội ngũ các chuyên gia tâm lý, các thầy cô sẽ giúp các bạn học sinh lớp 6 có giai đoạn chuyển tiếp bậc học một cách nhẹ nhàng, giảm bớt những lo lắng, băn khoăn của các bậc phụ huynh về việc học tập của các con.

Công trình: Khó khăn tâm lý trong học tập của học sinh cấp 1 ở một số trường tiểu học ở vùng sâu vùng xa tỉnh Lâm Đồng

Link công trình: //drive.google.com/drive/folders/1PcaOl_ntyrlDfPWFVjOHIOIcjkbMaaet?fbclid=IwAR0QdvXXq2jeycB-ieh-uq3-irre_RXPE7bI-tPPXarDXLOd1yWqTrdbvNQ

Giới thiệu về công trình:

PHẦN MỞ ĐẦU

Lý do chọn đề tài

Giáo dục – đào tạo có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực cho đất nước. Mỗi bậc học có một nhiệm vụ khác nhau trong quá trình hình thành và phát triển nhận thức của mỗi con người. Trải qua các bậc học khác nhau, con người càng hoàn thiện mình hơn hướng đến một con người toàn diện. Trong tất cả các bậc học thì Tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, là cơ sở quan trọng cho việc tiếp tục học ở bậc học cao hơn. Giáo dục Tiểu học nói chung và lớp 1 nói riêng nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho việc phát triển đúng đắn, lâu dài về đạo đức, nhân cách, trí tuệ, thẩm mĩ và các kĩ năng sống cơ bản nhất giúp các em có thể tiếp tục học lên các bậc học, các lớp học cao hơn.

Lớp 1 có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân nước ta nói chung và ở bậc Tiểu học nói riêng – lớp đầu tiên trong cuộc đời của trẻ ở trường Tiểu học.Việc đứa trẻ đi học là một bước ngoặt quan trọng để lại dấu ấn đậm nét, các em “thực hiện bước chuyển từ người mù chữ đến sáng chữ [từ chưa biết chữ đến biết chữ]”. Từ Mẫu giáo vào lớp 1 là một bước ngoặt quan trọng đối với mỗi học sinh. Trẻ vào lớp 1 có sự chuyển biến trong hoạt động chủ đạo từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập, trẻ tham gia vào môi trường học tập hoàn toàn mới, tham gia vào một cuộc sống mới, hoạt động mới, yêu cầu mới, quan hệ mới, các hình thức hoạt động với những yêu cầu ở trường Tiểu học cũng thay đổi so với Mầm non trước đây, điều đó sẽ gây cho trẻ rất nhiều khó khăn, trong đó có những khó khăn về tâm lý của trẻ. Những khó khăn tâm lý này sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến hứng thú, kết quả học tập cũng như các hoạt động của trẻ, nguy hiểm hơn nữa là nó có nguy cơ ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của trẻ sau này. Theo số liệu của Tổng cục Dân số – kế hoạch hóa gia đình từ năm 2014 – 2017 trung bình mỗi năm ở nước ta có hơn 1 triệu học sinh bước vào lớp 1, sự hồi hộp, lo lắng, căng thẳng, thiếu tự tin, áp lực là những khó khăn tâm lý chung của học sinh khi chuẩn bị bước vào lớp 1 đó là một yêu cầu lớn để những nhà giáo dục có giải pháp giúp trẻ bước vào lớp 1 khắc phục được khó khăn tâm lý ấy nhằm giúp trẻ sẽ dễ dàng thích nghi với hoạt động học tập tốt hơn.

Ở các vùng miền khác nhau những khó khăn này bộc lộ cũng khác nhau. Qua sự khảo sát ở một số lớp 1 đóng trên địa bàn huyện Di Linh – một vùng có phần đông học sinh là đồng bào dân tộc thiểu số, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, chúng tôi nhận thấy việc đưa ra những giải pháp để khắc phục khó khăn tâm lý trong hoạt động của trẻ trên địa bàn này là hết sức cần thiết. Từ đó giúp trẻ có được hứng thú đến trường, đến lớp, nhanh chóng tiếp thu kiến thức một cách tốt nhất để đạt được kết quả cao trong hoạt động học tập, cũng như phát triển tốt nhân cách và đạo đức.

Đã có nhiều đề tài nghiên cứu đề cập đến vấn đề khó khăn tâm lý của học sinh Tiểu học, song những khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của trẻ Tiểu học nhất là học sinh lớp 1 ở vùng sâu vùng xa, vùng có phần đông trẻ em là dân tộc thiểu số, có nhiều khó khăn trong việc phát triển kinh tế – xã hội như huyện Di Linh thì chưa có đề tài nghiên cứu nào đề cập tới.

Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi tiến hành lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh lớp 1 ở một số trường Tiểu học vùng sâu vùng xa huyện Di Linh tỉnh Lâm Đồng”.

Mục đích nghiên cứu đề tài

Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng những khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh lớp 1 ở một số trường Tiểu học vùng sâu vùng xa huyện Di Linh tỉnh Lâm Đồng từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn tâm lý, giúp trẻ tự tin hòa nhập ở trường Tiểu học với kết quả học tập và rèn luyện tốt.

– Nghiên cứu cơ sở lý luận về khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh lớp 1.

– Nghiên cứu thực trạng khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh lớp 1 ở một số trường Tiểu học địa bàn vùng sâu vùng xa huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng.

– Đề xuất một số giải pháp nhằm giảm bớt khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh lớp 1 ở một số trường Tiểu học địa bàn vùng sâu vùng xa huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng.

Đối tượng và khách thể nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh lớp 1 ở một số trường Tiểu học vùng sâu vùng xa huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng.

4.2. Khách thể nghiên cứu

Nghiên cứu 40 học sinh ở khối lớp 1 đối với hai trường Tiểu học Sơn Điền và trường Tiểu học – Trung học cơ sở Gia Bắc huyện Di Linh.

Nghiên cứu 06 giáo viên của hai trường Tiểu học Sơn Điền và trường Tiểu học – Trung học cơ sở Gia Bắc

Nghiên cứu 40 phụ huynh học sinh khối 1 trường Tiểu học Sơn Điền, Trường Tiểu học – Trung học cơ sở Gia Bắc huyện Di Linh.

Giới hạn nghiên cứu

5.1. Giới hạn về nội dung nghiên cứu

Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng và một số giải pháp khắc phục khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh lớp 1 ở một số trường Tiểu học vùng sâu vùng xa huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng.

5.2. Giới hạn về địa bàn và khách thể nghiên cứu

Trường Tiểu học Sơn Điền và trường Tiểu học – Trung học cơ sở Gia Bắc huyện Di Linh tỉnh Lâm Đồng.

Phương pháp nghiên cứu

6.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết

Mục đích: Làm sáng tỏ các thuật ngữ liên quan đến đề tài. Xây dựng cở sở khoa học về mặt lí luận cho đề tài.

Cách tiến hành: Nghiên cứu, thu thập, xử lý, chọn lọc và khái quát hóa thông tin từ những nghiên cứu thuộc các vấn đề liên quan đến đề tài.

6.2. Phương pháp điều tra

      1. Phương pháp điều tra Anket

Mục đích: Nhằm thu thập rộng rãi các số liệu từ đó phát hiện ra vấn đề cần giải quyết, xác định nguyên nhân của vấn đề để chuẩn bị cho các bước nghiên cứu tiếp theo.

Cách tiến hành: Xây dựng phiếu khảo sát và phiếu điều tra dành cho ba đối tượng là giáo viên, phụ huynh và học sinh.

      1. Phương pháp phỏng vấn

Mục đích: Khảo sát thực trạng khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh lớp 1.

Cách tiến hành: Đặt một số câu hỏi cho giáo viên, phụ huynh, học sinh lớp 1 trường Tiểu học Sơn Điền và trường Tiểu học Gia Bắc huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Dựa vào câu trả lời của họ để trao đổi và thu thập thông tin.

6.3. Phương pháp quan sát

Mục đích: Nhằm quan sát thái độ, hành vi, biểu hiện của các em học sinh lớp 1 trong quá trình học tập.

Cách tiến hành: Sử dụng các giờ ra chơi nhằm thu thập những thông tin thực tiễn, từ đó phát hiện ra các nguyên nhân, đặc điểm, biểu hiện tâm lý của các em học sinh.

6.4. Phương pháp thực nghiệm

Mục đích: Kiểm tra tính khả thi của đề tài.

Cách tiến hành: Khảo sát 30 giáo viên ở 2 trường tiểu học Sơn Điền và trường Tiểu học – Trung học cơ sở Gia Bắc. Từ đó, có những thay đổi hoàn thiện biện pháp và áp dụng vào trong dạy học một cách phù hợp.

6.5. Phương pháp thống kê toán học

Mục đích: Đưa ra kết luận.

Cách tiến hành: Từ những số liệu khảo sát, tác giả phân tích và đưa ra những kết luận ý nghĩa.

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu

Vấn đề về khó khăn tâm lý đã được các nhà nghiên cứu xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều loại khách thể với nhiều lĩnh vực khác nhau. Do phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi không có nhiều điều kiện để cập nhật một cách có hệ thống toàn bộ các công trình nghiên cứu về khó khăn tâm lý. Chúng tôi chỉ trình bày một cách tổng quát một số công trình nghiên cứu tiêu biểu có liên quan đến đề tài.

1.1.1. Những nghiên cứu về khó khăn tâm lý

– Trong công trình nghiên cứu của G.M.Anctrecva, tác giả đã đề cập đến những khó khăn tâm lý trong quá trình giao tiếp. Theo tác giả, trong quá trình giao tiếp con người bắt gặp một số bức rào cản tâm lý. Những trở ngại tâm lý đó có thể nảy sinh do sự bất đồng ngôn ngữ, do sự khác biệt về xã hội, chính trị, tôn giáo, nghề nghiệp do những đặc điểm tâm lý cá nhân của những người tham gia giao tiếp. Công trình nghiên cứu này của G.M.Anctrecva chủ yếu đi vào lý luận về khó khăn tâm lý trong lĩnh vực giao tiếp trên khách thể nghiên cứu là người lớn.

– Trong bài viết “Những khó khăn tâm lý trong quá trình giải toán của học sinh Tiểu học” của tác giả Nguyễn Minh Hải [8,tr25], tác giả đã đề cập đến những nguyên nhân khác nhau đã hạn chế năng lực giải toán của học sinh Tiểu học trong đó có những khó khăn về mặt tâm lý.

– Trong khi nghiên cứu về “Một số trở ngại tâm lý trong giao tiếp của sinh viên với học sinh khi thực tập tốt nghiệp”, tác giả Nguyễn Thị Thanh Bình [1996] đã đưa ra kết luận: trở ngại tâm lý trong giao tiếp là những đặc điểm tâm lý và kiểu hành vi ứng xử không phù hợp với nội dung, đối tượng và hoàn cảnh giao tiếp. Những trở ngại tâm lý trong giao tiếp được biểu hiện ở ba mặt: nhận thức, xúc cảm, tình cảm và hành vi của chủ thể giao tiếp. Bản chất của trở ngại tâm lý này là sự phù hợp giữa những đặc điểm tâm lý cá nhân và kiểu hành vi ứng xử với nội dung, đối tượng và hoàn cảnh giao tiếp. Ở đây tác giả còn nêu những nguyên nhân chủ quan và khách quan gây nên trở ngại tâm lý và đề xuất một số biện pháp để giải quyết trở ngại này.

– Nguyễn Thu Hiền [2002]: “Tìm hiểu những khó khăn tâm lý trong quá trình giải bài tập hình học của học sinh lớp 11 Trung học phổ thông”.

Những công trình nghiên cứu trong và ngoài nước trên đây chủ yếu nghiên cứu trên khách thể có độ tuổi lớn với đặc trưng tâm lý và hoạt động chủ đạo khác biệt cơ bản với học sinh lớp 1 – những học sinh đang chuẩn bị đối mặt với một bước ngoặt lớn trong cuộc đời.

1.1.2. Những nghiên cứu về khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh lớp 1

Theo Binaka Zazzo cùng 12 cộng sự thuộc trung tâm nghiên cứu trẻ em của Đại học Paris, 10 công trình nghiên cứu về bước chuyển từ mẫu giáo lên lớp 12 của trẻ em. Tác giả đã chỉ ra khó khăn tâm lý lớn nhất mà trẻ gặp phải làm cản trở đến sự thích ứng với hoạt động học tập của trẻ là: “Sự thay đổi môi trường hoạt động một cách triệt để, gọi là chuyển dạng hoạt động chủ đạo, từ chơi trở thành hoạt động đa dạng, tính tùy tự do, tùy hứng của cá nhân nặng hơn là tính chỉ đạo của giáo viên. Bước sang lớp 1, học tập chủ đạo của học sinh phải nghiêm chỉnh theo sự chỉ đạo của giáo viên, theo nguyên tắc lớp học”.

– Trong cuốn “Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm” tác giả A.V.Petrovxki đã đưa ra những biến đổi về mặt sinh lí trong cơ thể trẻ 6 tuổi. Bên cạnh đó, ông còn đề cập đến những biến đổi về mặt tâm lý khi trẻ bước vào lớp 1. Ông đã chia những khó khăn tâm lý của trẻ lớp 1 thành 3 loại:

+ Loại 1: Những khó khăn có liên quan đến đặc điểm của chế độ học tập mới.

+ Loại 2: Khó khăn trong việc thiết lập quan hệ giao tiếp mới với thầy cô và bạn bè.

+ Loại 3: Khó khăn trong việc thích nghi với hoạt động mới, lúc đầu trẻ được sự chuẩn bị của gia đình, nhà trường và xã hội nên trẻ có tâm lý vui, thích, sẵn sàng đi học, về sau giảm dần khát vọng và chán học.

Bên cạnh đó, tác giả đã đề cập đến những khó khăn, ảnh hưởng của những khó khăn đến đời sống của trẻ và một số biện pháp để giải quyết khó khăn cho trẻ. Như vậy, tác giả đã đi sâu nghiên cứu khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh lớp 1.

– Theo các nhà tâm lý học Maurice Debesse, trong công trình nghiên cứu “Khó khăn tâm lý của trẻ khi học lớp 1” đã chỉ ra rằng: Đứng giữa ngưỡng cửa của lớp 1 trẻ em gặp rất nhiều khó khăn tâm lý. Điều này ảnh hưởng đến sự thích ứng của hoạt động học tập của trẻ, làm cho trẻ sợ học, không muốn đến trường và dẫn đến kết quả học tập không cao.

-Trong bài viết “Một số trở ngại tâm lý của trẻ khi vào học lớp 1”, tác giả Vũ Ngọc Hà đã chỉ ra một số trở ngại tâm lý mà trẻ thường gặp khi vào học lớp 1 đó là:

+ Khó khăn trong việc thích nghi với môi trường mới.

+ Khó khăn trong các mối quan hệ.

+ Khó khăn khi phải đến trường.

– Trong tác phẩm “Nỗi khổ của con em chúng ta” bác sĩ Nguyễn Khắc Viện [16, tr.32] đã nêu ra khó khăn tâm lý mà học sinh lớp 1 gặp phải là:

+ Trẻ phải giữ kỉ luật lớp học, phải ngồi yên cả buổi, cả tiết học.

+ Trẻ phải học một chương trình nặng hơn so với tuổi mẫu giáo.

+ Trẻ ít được bố mẹ vỗ về, âu yếm hơn trước và luôn bị kiểm tra, đánh giá của bố mẹ.

– Tác giả Nguyễn Thị Nhất đã nêu những khó khăn Trong tác phẩm “6 tuổi vào lớp 1” của học sinh lớp 1 phải vượt qua. Tác giảcho rằng: “Trong quá trình lớn lên của trẻ có những bước ngoặt chuyển từ giai đoạn này sang giai đoạn khác đòi hỏi trẻ phải thay đổi phương thứchoạt động một cách triệt để” [10, tr.4]. “Giữa phương thức học tập ở mẫu giáo và lớp 1 có một sự biến động đột ngột đối với trẻ em, một bước ngoặt quan trọng đòi hỏi sự thích nghi về nhiều mặt không dễ gì vượt qua. Đúng là một cửa ải phân chia hai cuộc sống khác nhau” [10, tr.14]. Đồng thời tác giả cũng nêu ra một số khó khăn tâm lý cụ thể mà trẻ lớp 1 phải vượt qua.

+ Trẻ phải rời bỏ cuộc sống thoải mái, vui nhộn, đa dạng, hoạt động tùy hứng ở mẫu giáo và khép mình vào kỉ luật nghiêm khắc của lớp học phổ thông.

+ Trẻ gặp khó khăn với quan hệ thầy cô giáo.

+ Trẻ bị “vỡ mộng” khi vào lớp 1 vì sự hân hoan, hồi hộp chờ đón những điều hấp dẫn được thay bằng những điều khác xa với tưởng tượng của trẻ.

– Trong bài viết “Chuẩn bị tâm lý cho trẻ vào lớp 1” tác giả Phạm Thị Đức cũng nêu ra một số khó khăn tâm lý của trẻ em khi đi học:

+ Chưa quen với chế độ học tập.

+ Chưa có thói quen nắm chắc dữ kiện, câu hỏi của bài tập, yêu cầu của cô giáo trước khi bắt tay vào hành động.

+ Nhút nhát, mất bình tĩnh trước hoàn cảnh mới.

+ Chưa có động cơ học tập đúng đắn.

Trên thế giới và Việt Nam, vấn đề khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh lớp 1 cũng được chú ý nghiên cứu. Tuy nhiên chưa có nhiều nghiên cứu về khó khăn tâm lý của học sinh lớp 1 ở vùng sâu vùng xa, đặc biệt là một vùng có học sinh lớp 1 đa phần là dân tộc thiểu số. Chính vì vậy chúng tôi lựa chọn và nghiên cứu đề tài này.

1.2. Cơ sở lý luận của đề tài

1.2.1. Một số khái niệm cơ bản

1.2.1.1. Khó khăn tâm lý

Khó khăn

Theo các từ điển cho thấy:

Theo “từ điển tiếng Việt căn bản”: Khó khăn là có nhiều trở ngại hoặc thiếu thốn [tr35].

Theo “từ điển láy tiếng Việt”: Khó khăn nghĩa là có nhiều trở ngại làm mất nhiều công sức [tr201].

Anh – Việt: “difficult” có nghĩa là khó khăn, gay go.

Pháp – Việt: “difficile” có nghĩa là khó, khó khăn, gian nan, khổ nhọc.

Như vậy, khó khăn là có nhiều trở ngại, thiếu thốn và sự khắc nghiệt đòi hỏi nhiều nổ lực để vượt qua.

Khó khăn tâm lý

Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đưa ra các khái niệm như sau:

Khó khăn tâm lý là toàn bộ những nét tâm lý của cá nhân, nảy sinh ở chủ thể trong quá trình hoạt động.

Khó khăn tâm lý không phù hợp với những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định, làm ảnh hưởng xấu đến tiến trình và kết quả hoạt động đó.

1.2.1.2. Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh lớp 1

Hoạt động học tập

Hoạt động học tập là một dạng hoạt động trí tuệ, là một dạng tồn tại của con người, hoạt động học tập là một trong những nhân tố chủ đạo quyết định trực tiếp đến sự phát triển của con người.

Có nhiều quan điểm, quan niệm khác nhau về khái niệm hoạt động học tập từ những quan niệm của tác giả cho phép chúng ta hiểu hoạt động học tập là hoạt động có mục đích của chủ thể nhằm lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm của khoa học loài người được kết tinh trong nền văn hóa xã hội, biến nó thành kiến thức riêng của bản thân, từ đó vận dụng thực tiễn phục vụ đời sống của bản thân.

Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập

Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập là những yếu tố tâm lý cản trở, ngăn cản hoạt động học tập.

Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập làm cho học sinh khó thích nghi với hoạt động học tập, kết quả học tập không được tốt.

Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh lớp 1

Khó khăn tâm lý của học sinh lớp 1 là sự thiếu hụt phẩm chất tâm lý cần thiết cho hoạt động học tập và sinh hoạt trong nhà trường của học sinh những ngày đầu đi học Tiểu học.

Khó khăn tâm lý của học sinh lớp 1 gây cản trở cho hoạt động học tập và sinh hoạt của học sinh, khiến cho các hoạt động này kém hiệu quả.

1.2.2. Những khó khăn của trẻ khi vào lớp 1

Các em không thích nghi được học tập theo nề nếp: Bước vào lớp 1, các em gặp nhiều khó khăn khi thích nghi với môi trường mới, luôn thấy bỡ ngỡ với mọi thứ xung quanh.Vào lớp 1, các em thường thấy bỡ ngỡ vì thầy cô mới lạ, cái gì cũng mới khung cảnh lạ không quen thuộc như ở Mầm non vì thấy các anh, chị lớp trên lớn xa lạ nên sợ sệt, sợ bị các anh chị bắt nạt nên tới trường là khóc không muốn học.Từ môi trường Mầm non vui chơi giữ vai trò chủ đạo, các hoạt động mang tính chất không bắt buộc, tự do, thoải mái thì khi vào lớp 1 các em phải làm nhiệm vụ của một học sinh, hoạt động chủ yếu là học tập, mang tính chất bắt buộc, theo nề nếp. Môi trường thay đổi khiến các em phải thích nghi với hàng loạt thói quen mới.

Các em thiếu tự tin, sợ đến lớp: Thay vì tự do vui chơi như ở trường Mầm non thì lên lớp 1 các em phải học tập theo nề nếp ở lớp, học nhiều môn học khác nhau, kể cả môn các em không thích thì các em còn phải làm thêm bài tập về nhà. Ngoài ra, các em phải làm quen với cô giáo mới, bạn bè mới. Nếu bố mẹ không có định hướng kịp thời thì các em sẽ bị căng thẳng với lượng kiến thức mới và trừu tượng khiến các em sợ đến lớp.

Viết chữ ngược: Việc làm quen với chữ viết đối với học sinh lớp 1 thật khó khăn bởi đôi tay còn vụng về, lóng ngóng. Trẻ ở Mầm non, các em mới được làm quen với đọc và tô các chữ cái, chưa có khái niệm về đường kẻ, dòng kẻ, chưa nắm được cấu tạo của các nét cơ bản, cấu tạo của các chữ cái, chưa nắm được độ cao, độ rộng của từng con chữ, khoảng cách của các chữ ghi tiếng, cách viết các chữ thường, dấu thanh và các chữ số, chưa nắm được quy trình viết chữ cái. Nhiều em còn viết chữ ngược, số ngược.

Dễ bị phân tán và thiếu tập trung: Do không được dạy giao tiếp với người xung quanh, nên không ít em đã đến trường nhưng rất nhút nhát, sợ thầy, sợ cô, sợ cả bạn bè. Cũng không được làm quen với hoạt động trí tuệ nên không biết quan sát sự vật, không được kích thích lòng ham hiểu biết, hứng thú nhận thức về các vấn đề xung quanh… nên một số em rất sợ đi học, đến trường chỉ là sự bắt buộc hoặc có trẻ đến trường chỉ để quấy phá nghịch ngợm.

Làm quen với chữ cái và con số: Việc viết chữ, làm toán cũng là một trong những khó khăn khi các em vào lớp 1, các em sẽ cảm thấy bỡ ngỡ, khó tiếp thu và dễ cảm thấy chán nản, mất hứng thú học tập.

1.2.3. Một số biểu hiện khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh

lớp 1

Biểu hiện khó khăn tâm lý trong học tập và sinh hoạt của học sinh lớp 1 khá đa dạng. Do nhận thức của trẻ học lớp 1 về nội quy học tập, nề nếp sinh hoạt và học tập còn chưa rõ nét, thông qua biểu hiện cảm xúc và hành vi thể hiện ở 6 mặt: Hành vi thực hiện nội quy học tập; Hành vi thực hiện nề nếp sinh hoạt và học tập; Hành động đọc, viết, làm toán; sự tự chủ khi chuyển trạng thái từ học sang chơi và ngược lại; Thái độ đối với học tập và sự thiết lập các mối quan hệ trong giao tiếp với bạn bè. Đây là 6 mặt cơ bản nhất về biểu hiện khó khăn tâm lý liên quan trực tiếp đến hoạt động học tập và sinh hoạt của học sinh lớp 1.

1.2.4. Một số nguyên nhân dẫn đến khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh lớp 1

Bước vào lớp 1, trẻ gặp rất nhiều khó khăn tâm lý. Những khó khăn này do nhiều nguyên nhân gây ra, bao gồm cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.

1.2.4.1. Nguyên nhân khách quan

+ Sự thay đổi môi trường hoạt động.

+ Sự thay đổi các mối quan hệ giao tiếp.

+ Sự thay đổi nội dung hoạt động.

+ Địa vị xã hội khác nhau.

+ Sự chênh lệch về tuổi tác.

+ Khác nhau về giới tính.

+ Khác biệt về lối sống, ngôn ngữ.

+ Khác nhau về mục đích hoạt động.

1.2.4.2. Nguyên nhân chủ quan

+ Chủ thể không có sự chuẩn bị trước môi trường hoạt động mới.

+ Có sự không phù hợp về tính cách của chủ thể.

+ Chủ thể chưa sẵn sàng trước môi trường hoạt động mới.

+ Do chủ thể gặp khó khăn về mặt sinh lí.

1.2.5. Một số đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Tiểu học

Theo quy định của Bộ Giáo dục và đào tạo, học sinh lớp 1 là những trẻ em đủ 6 tuổi đối với trẻ bình thường và độ tuổi từ 7 – 9 tuổi đối với các trường hợp trẻ khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, trẻ em ở nước ngoài về nước. Trẻ lớp 1 có đặc điểm tâm sinh lí sau:

1.2.5.1. Đặc điểm sinh lí

Hệ xương: Hệ xương của trẻ lớp 1 còn nhiều mô sụn. Xương sống, xương hông, xương chân, xương tay đang trong thời kì phát triển [thời kì cốt hóa] nên dễ bị cong vẹo, gẫy dập. Vì thế trong các hoạt động vui chơi của các em, cha mẹ và thầy cô cần chú ý quan tâm, hướng các em tới các hoạt đông vui chơi lành mạnh, an toàn.

Hệ cơ: Đang trong thời kì phát triển mạnh nên các em rất thích các trò chơi vận động như chạy nhảy, nô đùa. Vì vậy mà cha mẹ và thầy cô nên đưa các em vào các trò chơi vận động từ đơn giản đến phức tạp và đảm bảo sự an toàn cho trẻ.

Hệ thần kinh: Hệ thần kinh cấp cao đang hoàn thiện về mặt chức năng, do vậy tư duy của các em chuyển dần từ trực quan hành động sang tư duy trừu tượng. Do đó các em rất hứng thú với các trò chơi trí tuệ như đố vui, các cuộc thi trí tuệ… Dựa vào cơ sở sinh lí này mà các nhà giáo dục nên cuốn hút các em bằng các câu hỏi nhằm phát triển tư duy.

Chiều cao của trẻ vào lớp 1 đúng 6 tuổi có chiều cao khoảng 106cm [nam] và 104cm [nữ]; Cân nặng đạt 17,5kg [nam] và 15,1kg [nữ]. Đây là chỉ số trung bình, chiều cao của trẻ có thể xê dịch khoảng 4cm – 5cm, cân nặng có thể xê dịch từ 1kg đến 2kg.

Tim của trẻ đập nhanh khoảng 85 – 90 lần/phút, hệ tuần hoàn chưa hoàn chỉnh.

1.2.5.2. Đặc điểm tâm lý

Tâm lý của học sinh lớp 1

+ Đơn sơ, dễ dạy, dễ bảo.

+ Chóng chán bạn bè và các trò chơi vì khoảng thời gian chú tâm rất ngắn.

+ Thích làm việc thiện.

+ Những bé trai thường thích vượt qua những khó khăn, thử thách.

+ Thích chơi tranh ảnh, vẽ và hay bắt chước.

+ Nam nữ chơi chung được với nhau.

+ Thích khám phá, xây dựng.

+ Thích gì là nhớ kĩ, không thích là quên ngay.

+ Hay hỏi, hay thắc mắc để biết.

+ Thích khoe cái mình có và thích được khen lại.

1.2.5.3. Đặc điểm tâm lý của học sinh đầu lớp 1

Đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 1

Tri giác:

– Tri giác của học sinh lớp 1 mang tính tổng thể, ít đi sâu vào chi tiết và mang tính không chủ dộng. Mặc dù trẻ em đến trường đã có quá trình tri giác khá phát triển song tri giác trong hoạt động học tập chỉ diễn ra ở mức nhận biết và gọi tên hình dạng màu sắc.

– Tri giác của học sinh lớp 1 gắn với hành động và hoạt động thực tiễn của trẻ. Những gì trẻ được sờ mó, cầm nắm trực tiếp thì các em sẽ tri giác tốt hơn.

– Trẻ tri giác về thời gian, không gian còn hạn chế. Trẻ lớp 1 có khuynh hướng kéo dài thời gian. Những thời gian dài như ngày xưa, thế kỷ… Trẻ không tri giác được.

– Tri giác của trẻ em còn mang tính xúc cảm, những đặc điểm, dấu hiệu của sự vật nào trực tiếp gây cho các em những xúc cảm thì các em tri giác tốt hơn. Những gì trẻ thích, những gì mới lạ, sống động thì trẻ tri giác tốt hơn những gì mà các em không thích, những gì cũ kỹ quen thuộc, tĩnh lặng.

– Ở học sinh lớp 1 hình thành một dạng hoạt động phức tạp hơn so với cảm giác và sự phân chia những đặc tính riêng biệt của đồ vật – hoạt động quan sát. Nhờ có hoạt động này mà tri giác của trẻ trở nên có mục đích.

Trí nhớ:

– Tính không chủ định chiếm ưu thế trong trí nhớ của học sinh lớp 1. Trẻ không xác định được mục đích, nội dung, cách thức nhớ. Vì vậy trẻ thường ghi nhớ những gì mà trẻ thích.

– Do đặc điểm của hệ thống tín hiệu thứ nhất nên học sinh 6 tuổi có trí nhớ hình tượng trực quan tốt hơn trí nhớ logic. Điều này được biểu hiện ở chỗ học sinh nhớ nhanh và tốt những sự vật, hiện tượng mà các em được trực tiếp nhìn thấy, sờ mó thấy hơn những sự vật, hiện tượng mà các em được đọc, được mô tả bằng những lời giải thích dài dòng.

– Khả năng ghi nhớ máy móc ở lớp 1 tốt hơn khả năng ghi nhớ logic. Nguyên nhân là do trẻ chưa nhận ra mục đích, nội dung cần ghi nhớ, vốn ngôn ngữ của trẻ lại hạn chế do đó việc ghi nhớ từng câu, từng chữ dễ dàng hơn việc sử dụng ngôn ngữ của mình để diễn đạt lại.

– Đối với học sinh lớp 1, tình cảm ảnh hưởng khá lớn đến tốc độ cũng như sự bền vững của trí nhớ.

Tư duy:

– Tư duy của trẻ mới đến trường thường là tư duy cụ thể, mang tính hình thức bằng cách dựa vào việc phân tích những đặc điểm trực quan, cụ thể của đối tượng. Điều này được thể hiện ở chỗ:

Kĩ năng phân biệt và chỉ ra các thuộc tính bản chất của sự vật, hiện tượng không dễ gì trẻ thực hiện ngay được.

Trẻ gặp phải một số khó khăn nhất định khi phải xác định và hiểu các mối quan hệ nhân quả. Từ nguyên nhân trẻ có thể suy ra được kết quả song từ kết quả trẻ khó hoặc không suy ra được nguyên nhân.

Khi phân loại và phân hạng các sự vật, hiện tượng, học sinh lớp 1 thường dựa vào những dấu hiệu bên ngoài như màu sắc, hình dáng, kích thước… Mà chưa biết dựa vào các dấu hiệu bên trong.

Trong phán đoán và suy luận trẻ thường chỉ dựa vào những dấu hiệu duy nhất nên phán đoán của các em mang tính khẳng định. Trong suy luận, các em thường khó chấp nhận giả thuyết “nếu”.

Các thao tác tư duy như so sánh, phân tích trừu tượng hóa, khái quát hóa… Được trẻ tiến hành chủ yếu bằng hành động thực tế, bằng việc dựa vào các dấu hiệu bên ngoài.

Tưởng tượng:

Tưởng tượng của trẻ lớp 1 chủ yếu là tưởng tượng tái tạo. Những hình ảnh được tái tạo lại gần đúng đối tượng thực nhưng chi tiết trong các hình ảnh thường nghèo nàn và chưa hợp lý.

Tưởng tượng của học sinh lớp 1 còn chủ yếu dựa vào hình ảnh các sự vật, hiện tượng cụ thể, chưa biết sáng tạo và khái quát trong tưởng tượng.

Ngôn ngữ:

Ngôn ngữ của học sinh Tiểu học phát triển mạnh cả về ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp. Vốn từ của trẻ được tăng lên rõ rệt do học nhiều môn học, giao tiếp nhiều hơn. Tuy nhiên khả năng hiểu nghĩa từ của học sinh còn hạn chế.

Ở học sinh lớp 1, một loại ngôn ngữ mới được hình thành tuy nó còn nghèo nàn hơn ngôn ngữ nói. Đó là ngôn ngữ Việt.

Kỹ năng đọc của trẻ được hoàn thiện dần. Tuy nhiên ở học sinh lớp 1, khả năng đọc diễn cảm còn hạn chế, đọc hiểu vẫn là điều khó đối với trẻ.

Chú ý:

Khi đến trường trẻ em còn chưa có sự chú ý có mục đích. Chúng chủ yếu chú ý tới đến những gì mà chúng trực tiếp thấy thú vị, đến cái gì nổi bật nhờ tính chất rực rỡ và khác thường [chú ý không chủ định].

Chú ý của học sinh lớp 1 còn chưa bền vững. Trẻ chỉ có thể duy trì chú ý trong khoảng 30 đến 35 phút. Sự tập trung chú ý của trẻ chỉ khoảng 10 phút tuy nhiên còn phụ thuộc vào nhịp độ học tập. Nhịp độ học tập quá nhanh hay quá chậm, bài học quá dễ hay quá khó đều không gợi được sự chú ý của học sinh.

Khối lượng chú ý của học sinh lớp 1 là hẹp, cùng một lúc học sinh không thể tập trung vào nhiều đối tượng.

Chú ý có chủ định của học sinh lớp 1 mặc dù còn yếu nhưng khả năng phát triển lại rất lớn, sự phát triển của nó đi đôi với hoạt động học tập.

Nói tóm lại, 6 tuổi vào lớp 1 là bước ngoặt lớn của trẻ. Môi trường thay đổi đòi hỏi trẻ phải tập trung chú ý thời gian liên tục từ 30 – 35 phút; chuyển từ hiếu kì, tò mò sang tính ham hiểu biết, hứng thú khám phá. Bước đầu kiềm chế dần tính hiếu động, bộc phát để chuyển thành tính kỉ luật, nề nếp, chấp hành nội quy học tập; phát triển độ tinh nhạy và sức bền vững của các thao tác tinh khéo từ đôi bàn tay để tập viết… Tất cả đều là thử thách của trẻ muốn trẻ vượt qua được tốt thì cần có sự quan tâm giúp đỡ của gia đình, nhà trường và xã hội dựa trên sự hiểu biết về tri thức khoa học. Trong đó nhà giáo dục cần phải lưu ý đến mức độ phát triển nhận thức có ảnh hưởng đến các khó khăn tâm lý của học sinh: Mức độ phát triển nhận thức cao thì ít có khó khăn tâm lý trong học tập và sinh hoạt tại trường, ngược lại học sinh sẽ có nhiều khó khăn tâm lý hơn khi có nhận thức phát triển chậm.

Đặc điểm nhân cách của học sinh lớp 1

Nhu cầu:

Nhu cầu là những đòi hỏi tất yếu cần được thỏa mãn để con người tồn tại và phát triển. Đặc điểm về nhu cầu của học sinh lớp 1:

Vào lớp 1 là trẻ phải thực hiện một “bước ngoặt” rất lớn trong cuộc đời là chuyển từ cuộc sống ở nhà trường mẫu giáo lên cuộc sống của nhà trường phổ thông. Chính vì vậy ở học sinh lớp 1 vẫn tồn tại những nhu cầu từng là đặc trưng của tuổi mẫu giáo như nhu cầu vui chơi, vận động, nhu cầu tìm hiểu thế giới bên ngoài.

Theo nghiên cứu của tác giả Trịnh Quốc Thái về “Nhu cầu của học sinh lớp 1 những ngày đầu đi học”[17, tr.24-25] thì “nhu cầu vui chơi của trẻ vẫn còn chiếm ưu thế [90 %] trong khi nhu cầu nhận thức lại ở vị trí thấp hơn [63 %] trong hệ thống các yêu cầu”. Bên cạnh đó, ở học sinh Tiểu học xuất hiện một loạt những nhu cầu cuộc sống nhà trường như: Nhu cầu thực hiện chính xác mọi yêu cầu của giáo viên, nhu cầu được điểm tốt, nhu cầu làm hài lòng thầy cô, nhu cầu trở thành học sinh giỏi.

Tính cách:

Học sinh lớp 1 có một số tính cách sau:

– Tính xung đột trong hành vi của học sinh lớp 1: Trẻ sẵn sàng hành động ngay lập tức dưới ảnh hưởng của các kích thích bên trong và bên ngoài. Chính vì vậy mà hành vi của trẻ lớp 1 thường mang tính tự phát.

– Học sinh lớp 1 rất cả tin: Các em tin vào sách vở, vào người lớn, vào bản thân mình. Niềm tin này còn cảm tính, chưa có lý trí soi sáng.

– Một nét tính cách khác của học sinh lớp 1 là các em rất hồn nhiên: Hồn nhiên trong quan hệ với thầy cô, bạn bè, người lớn. Các em nghĩ rằng mọi thứ điều dễ dàng và đơn giản, nhìn cuộc sống với thái độ lạc quan.

– Học sinh lớp 1 còn có rất nhiều đức tính tốt như ham hiểu biết, lòng thương người, vị tha…

– Một đặc điểm nữa cần lưu ý trong tính cách của học sinh lớp 1 đó là tính bắt chước. Các em dễ dàng bắt chức người lớn, thầy cô, bạn bè, các nhân vật trong phim… Đây thực sự là “một con dao hai lưỡi” bởi các em bắt chức cái tốt cũng lắm mà cái xấu cũng không phải là ít.

Tự ý thức – tự đánh giá:

Ở học sinh lớp 1 các biểu tượng về bản thân thường không đầy đủ, không ổn định và dựa theo nhận xét của người ngoài.

Trong lớp học, muốn cho công việc được hoàn hảo thì phải thực hiện một kiểu hành động là hành động kiểm tra. Thoạt đầu, việc kiểm tra thuộc về giáo viên. Dần dần trẻ tự mình đối chiếu kết quả của những hành động của mình với mẫu, phát hiện và điều chỉnh những sai lệch. Ở trẻ xuất hiện năng lực tự kiểm tra, khả năng tự đánh giá cũng hình thành ở học sinh. Trẻ thường đánh giá hành vi của mình thông qua các tình huống cụ thể, đánh giá dự vào nhận xét của cô giáo.

Mối quan hệ nhân cách:

Trong quan hệ với bạn bè: Đối với học sinh lớp 1, mỗi quan hệ giữa các em phần lớn được giải quyết bởi giáo viên thông qua việc tổ chức các hoạt động cho trẻ. Ở tuổi này đã hình thành các nhóm bạn trong tập thể học sinh. Cơ sở để thành lập nhóm chủ yếu dựa trên các dấu hiệu bề ngoài như ở gần nhà nhau, cùng học mẫu giáo, ở cùng bàn…

Trong quan hệ với cô giáo: Đối với học sinh lớp 1, sự mến phục và uy quyền của giáo viên là tất cả cuộc sống của trẻ và tập thể lớp. Giáo viên như là chất kết dính liên kết các học sinh trong tập thể lại với nhau. Mọi học sinh đều cố gắng thiết lập được mối quan hệ thiện cảm từ phía cô giáo.

Ở học sinh lớp 1, mối quan hệ giữa học sinh – giáo viên chiếm vị trí chủ đạo song càng lên lớp lớn mối quan hệ học sinh – học sinh chiếm ưu thế dần.

Đời sống tình cảm:

– Tình cảm là một mặt rất quan trọng trong đời sống tâm lý nói chung và nhân cách nói riêng của học sinh lớp 1.

– Ở học sinh lớp 1 vẫn tồn tại một loạt những đặc điểm tình cảm đặc trưng của lứa tuổi mẫu giáo như:

+ Khả năng kiềm chế tình cảm của học sinh còn kém, các phẩm chất của ý chí còn chưa có khả năng điều khiển và điều chỉnh những cảm xúc của các em.

+ Tình cảm của các em dễ nảy sinh nhưng chưa bền vững. Các em rất dễ có cảm xúc với những sự vật, hiện tượng mà mình được tiếp xúc song có cái mới hơn, lạ hơn thì các em lại có rung động với cái mới, quên hẳn cái cũ.

+ Tình cảm của trẻ mang tính chất cụ thể, trực tiếp. Trẻ dễ dàng nảy sinh cảm xúc với những sự vật hiện tượng đẹp, sống động mới lạ.

Dưới tác động của hoạt động học, đời sống tình cảm của học sinh lớp 1 phát triển và thay đổi theo hướng khả năng kiềm chế tình cảm ngày càng tốt hơn và nội dung đời sống tình cảm ngày càng phong phú.

Ý chí và hành động ý chí:

Ý chí học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng chịu sự chi phối rất nhiều của tình cảm. Tình cảm có thể thúc đẩy, thôi thúc ý chí hoặc kìm hãm ý chí.

– Học sinh lớp 1 chưa tự mình đặt ra được mục đích và lập kế hoạch trong hoạt động của mình. Vì vậy trẻ chưa có khả năng tập trung sức lực để đạt được mục đích đã định.

– Tính độc lập, kiềm chế và tự chủ ở học sinh lớp 1 còn kém cho nên các em ít tự mình giải quyết sự việc mà thường là chờ đợi sự giúp đỡ của người khác.

– Tính bột phát và ngẫu nhiên vẫn còn trong hành động của học sinh. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho học sinh thường rời bỏ mục đích chính của mình.

– Những phân tích trên cho thấy học sinh lớp 1 có một số đặc điểm tâm lý giống như đặc điểm tâm lý ở lứa tuổi mẫu giáo. Bên cạnh đó có đặc điểm đặc trưng của lứa tuổi như khả năng quan sát, ghi nhớ ý nghĩa. Các đặc điểm đặc trưng này chỉ được hình thành rõ nét khi người giáo viên giúp trẻ khắc phục được các khó khăn tâm lý trong hoạt động của nhà trường Tiểu học mà chủ đạo là hoạt động học.

Tâm lý sẵn sàng đi học của trẻ vào lớp 1

Lớp 1 là lớp đầu tiên trong cuộc đời đi học ở trường phổ thông của học sinh. Xét về mặt tâm lý học, ở đây có sự thay đổi hoạt động chủ đạo của trẻ. Có nhiều yêu cầu mới được đặt ra cho trẻ. Hoạt động học tập là hoạt động hoàn toàn mới mẻ đối với trẻ, ít giống với hoạt động vui chơi trước đây của nó.

Vì vậy trẻ cần chuẩn bị chu đáo trước khi đến trường để có thể thích ứng được những điều kiện mới của đời sống nhà trường và hoạt động chủ đạo mới – hoạt động học. Nói cách khác trẻ cần được chuẩn bị tâm lý sẵn sàng đi học. Vậy khi vào học lớp 1, tâm lý sẵn sàng của trẻ gồm có những thành tố nào?

Theo tác giả Bùi Văn Huệ thì tâm lý sẵn sàng đi học gồm 4 thành tố cơ bản:

– Sự thích thú đến trường. Thích tìm tòi những hiểu biết mới.

– Sự phát triển ngôn ngữ đạt đến mức hiểu đúng lời giảng của giáo viên và diễn đạt đúng, rõ ràng và tương đối gãy gọn những ý nghĩ, tình cảm của mình.

– Biết điều khiển các hoạt động tâm lý của bản thân.

– Phát triển độ tinh nhạy và sức bền của vận động bàn tay.

Theo tác giả, trong 4 thành tố trên, quan trọng nhất là sự thích thú đi học của trẻ. Đây là yếu tố cơ sở để hình thành yếu tố còn lại.

Còn tác giả Trần Trọng Thủy trong bài “Về nguyên nhân của hiện tượng lưu ban ở học sinh lớp 1” thì “sự chín muồi đến trường” hay “sẵn sàng đi học” của học sinh lớp 1 là:

-Trước hết trẻ cần có một số tri thức, biểu tượng và kỹ năng thực hiện hoạt động trí óc nhất định như: Một số hiểu biết về các hiện tượng xung quanh trẻ; Hình dung được trong đầu một số sự vật, hiện tượng; Phân biệt sự giống nhau, khác nhau giữa các sự vật, hiện tượng; so sánh đối chiếu.

-Thứ hai, trẻ cần biết điều khiển hành vi, cử chỉ của mình, biết điều khiển hành vi, cử chỉ, việc làm cho phù hợp với yêu cầu chung của xã hội, tập thể lớp hay gia đình.

– Thứ ba, trẻ phải hình thành được động cơ kích thích nó học tập. Đó là những động cơ học tập nhận thức, những động cơ mang tính xã hội rộng lớn.

Còn theo tác giả Phạm Thị Đức thì cần chuẩn bị cho trẻ mẫu giáo lớn – những trẻ chuẩn bị vào lớp 1 – một số điều kiện tâm lý như sau:

– Cần tập cho trẻ quen dần với chế độ học tập nghiêm ngặt.

– Luyện cho các em hiểu và nhớ bài đầy đủ, chính xác nhiệm vụ, câu hỏi được đưa ra trước khi bắt tay vào hành động.

– Hướng dẫn trẻ biết quan sát các sự vật, hiện tượng qua đó hình thành ở trẻ hứng thú đối với việc tiếp nhận, giải thích sự vật xung quanh.

– Phát triển trí nhớ có chủ định ở trẻ.

– Rèn luyện khả năng chú ý cho trẻ.

Tóm lại, nếu trẻ đến trường với sự “sẵn sàng đi học” chưa đầy đủ thì sẽ gặp những khó khăn tâm lý ảnh hưởng đến kết quả học tập của trẻ và do đó trẻ khó có thể hoàn thành nhiệm vụ học tập ở nhà trường.

Như vậy ta thấy tâm, sinh lý của trẻ ở lứa tuổi Tiểu học đang được hình thành và phát triển. Các em đang từng bước gia nhập vào xã hội thế giới của mọi mối quan hệ. Do đó, học sinh Tiểu học chưa đủ ý thức, chưa đủ phẩm chất và năng lực như một công dân trong xã hội, mà các em luôn cần sự bảo trợ, giúp đỡ của người lớn, của gia đình, nhà trường và xã hội. Bên cạnh đó tâm lý của học sinh dân tộc thiểu số còn bộc lộ ở việc thiếu cố gắng, thiếu khả năng phê phán và cứng nhắc trong hoạt động nhận thức. Học sinh có thể học được tính cách hành động trong điều kiện này nhưng lại không biết vận dụng kiến thức đã học vào trong điều kiện hoàn cảnh mới. Ngoài ra việc học tập của các em còn bị chi phối bởi yếu tố gia đình, điều kiện địa lý và các yếu tố xã hội khác. Đòi hỏi nhà trường, gia đình và xã hội phải có sự phối hợp chặt chẽ để tạo động lực học tập cho học sinh.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Qua nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài “Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh lớp 1 ở một số trường Tiểu học vùng sâu vùng xa huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng”, chúng tôi đưa ra một số kết luận như sau:

Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh lớp 1 là những yếu tố tâm lý cản trở, ngăn cản hoạt động học tập. Làm cho học sinh khó thích nghi với hoạt động học tập, kết quả học tập không được tốt. Khó khăn tâm lý của học sinh lớp 1 là sự thiếu hụt phẩm chất tâm lý cần thiết cho hoạt động học tập và sinh hoạt trong nhà trường của học sinh những ngày đầu đi học Tiểu học gây cản trở cho hoạt động học tập và sinh hoạt của học sinh, khiến cho các hoạt động này kém hiệu quả.

Trên thế giới và Việt Nam vấn đề khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh lớp 1 cũng được chú ý nghiên cứu. Tuy nhiên chưa có nhiều công trình nghiên cứu về khó khăn tâm lý của học sinh lớp 1 ở vùng sâu vùng xa, đặc biệt là vùng có nhiều học sinh lớp 1 đa số là người dân tộc thiểu số.

Biểu hiện khó khăn tâm lý trong học tập và trong sinh hoạt của học sinh lớp 1 khá đa dạng. Do nhận thức của trẻ học lớp 1 về nội quy học tập, nề nếp sinh hoạt học tập chưa rõ nết. Do nguyên nhân chủ quan: Trẻ gặp khó khăn về mặt tâm, sinh lý, không chuẩn bị trước môi trường hoạt động mới… Do nguyên nhân khách quan: Môi trường học tập, mối quan hệ… của trẻ bị thay đổi.

Như vậy khi trẻ bước vào lớp 1 cần được chuẩn bị những tiền đề cần thiết, tạo cơ hội giúp trẻ đạt trình độ chín muồi đến trường về mọi phương diện: Thể lực, trí tuệ, ngôn ngữ, xã hội, giao tiếp,… chuẩn bị cho trẻ chu đáo trước khi đến trường có thể thích ứng được những điều kiện mới của đời sống nhà trường và hoạt động chủ đạo mới – hoạt động học.

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG KHÓ KHĂN TÂM LÝ TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA HỌC SINH LỚP 1 TRƯỜNG TIỂU HỌC SƠN ĐIỀN

VÀ TRƯỜNG TIỂU HỌC – TRUNG HỌC CƠ SỞ GIA BẮC,

HUYỆN DI LINH, TỈNH LÂM ĐỒNG

2.1. Đặc điểm chung của trường và của học sinh lớp 1 trường Tiểu học Sơn Điền và trường Tiểu học – Trung học cơ sở Gia Bắc, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng

2.1.1. Đặc điểm chung của trường và học sinh lớp 1 trường Tiểu học Sơn Điền huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng

Trường Tiểu học Sơn Điền nằm ở thôn Bó Cao, xã Sơn Điền, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Trên địa bàn xã có một số cơ quan, đơn vị đóng trên địa bàn như: Ủy ban nhân dân xã, trạm y tế, trường Trung học cơ sở,… Tuy nhiên phần đông phụ huynh học sinh ở trường là dân tộc thiểu số nghề nghiệp chính là làm nông và buôn bán tự do. Do điều kiện địa lí khó khăn, các thôn bản ở cách xa nhau nên xã Sơn Điền có 1 trường chính và các phân trường nhỏ đóng trên địa bàn thôn. Địa bàn xã cách xa trung tâm huyện nên các em chưa thật sự được sự quan tâm và tạo điều kiện tốt đến việc học tập.

Theo thống kê năm học 2020 – 2021, tổng số giáo viên toàn trường là 24 giáo viên, trong đó có 14 giáo viên trình độ Đại học, 5 giáo viên trình độ Cao đẳng, 5 giáo viên trình độ Trung cấp. Toàn trường có 422 học sinh, chia thành 5 khối lớp, trong đó có 3 lớp 1 gồm 79 học sinh, có 2 học sinh là dân tộc Kinh, số còn lại là người dân tộc thiểu số chiếm 97,46 %.

Phân trường Ka Liêng nằm ở thôn Ka Liêng, xã Sơn Điền, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Tổng số học sinh của phân trường có 25 học sinh, có 1 lớp học. Vì là phân trường nhỏ nằm trong thôn, cách trung tâm huyện nên mức sống của gia đình học sinh trong trường chỉ ở mức trung bình, phụ huynh có trình độ thấp, nghề nghiệp chủ yếu là làm ruộng, làm cà phê, thời gian rảnh rỗi thì đi làm thuê. Do vậy cha mẹ ít có thời gian quan tâm đến việc học hành của con cái, điều kiện học tập của trẻ cũng chưa đảm bảo

Phân trường Lang Bang nằm ở thôn Lang Bang, xã Sơn Điền, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Tổng số học sinh của phân trường gồm có 132 học sinh, chia thành 5 khối lớp, trong đó có 1 lớp 1 gồm 23 học sinh, 100% là người dân tộc thiểu số. Vì là phân trường nhỏ nằm trong thôn, cách trung tâm huyện nên mức sống của gia đình học sinh trong trường chỉ ở mức trung bình, phụ huynh có trình độ thấp, nghề nghiệp chủ yếu là làm ruộng, làm cà phê, thời gian rảnh rỗi thì đi làm thuê. Do vậy cha mẹ ít có thời gian quan tâm đến việc học hành của con cái, điều kiện học tập của trẻ cũng chưa đảm bảo.

2.1.2. Đặc điểm chung của trường và học sinh lớp 1 trường Tiểu học – Trung học cơ sở Gia Bắc, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng

Trường Tiểu học – Trung học cơ sở Gia Bắc nằm ở thôn Bộ Bê, xã Gia Bắc, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Trên địa bàn xã có một số cơ quan, đơn vị đóng trên địa bàn như: Ủy ban nhân dân xã, trạm y tế, trường Mầm non… Tuy nhiên phần đông phụ huynh học sinh ở trường là dân tộc thiểu số, nghề nghiệp chính là làm nông và buôn bán tự do, địa bàn xã cách xa trung tâm huyện nên các em chưa thật sự được sự quan tâm và tạo điều kiện tốt đến việc học tập.

Theo thống kê năm học 2020 – 2021, tổng số giáo viên toàn trường là 35 giáo viên, trong đó có 28 giáo viên trình độ Đại học, 9 giáo viên trình độ Cao đẳng, 4 giáo viên trình độ Trung cấp. Toàn trường có 585 học sinh, trong đó học sinh Trung học cơ sở là 220 học sinh, học sinh Tiểu học là 365 học sinh, Tiểu học có 13 lớp trong đó có 3 lớp 1 gồm 80 học sinh, số học sinh lớp 1 là người dân tộc thiểu số chiếm 97,5 %.

Do điều kiện có hạn nên tôi chỉ tiến hành nghiên cứu 40 học sinh lớp 1 ở lớp trường Tiểu học Sơn Điền và trường Tiểu học – Trung học cơ sở Gia Bắc.

Bảng 2.1. Một số đặc điểm của khách thể nghiên cứu:

Giới tính

Trường

Nam Nữ
SL % SL %
Tiểu học Sơn Điền 8 40 12 60
Tiểu học – Trung học cơ sở Gia Bắc 11 55 9 45

2.2. Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh lớp 1 trường Tiểu học Sơn Điền và trường Tiểu học – Trung học cơ sở Gia Bắc huyện Di Linh

Nội dung khảo sát bao gồm:

+ Thực trạng nhận thức của học sinh lớp 1 về tầm quan trọng của việc đi học.

+Thực trạng việc chuẩn bị tâm lý cho trẻ vào lớp 1 của phụ huynh học sinh.

+ Thực trạng việc chuẩn bị chào đón trẻ vào lớp 1 của giáo viên.

+ Thực trạng khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh lớp 1.

+ Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên.

Phương pháp khảo sát:

+ Phương pháp quan sát: Chúng tôi tiến hành quan sát một số hoạt động chủ yếu của học sinh trong hoạt động học tập, cũng như trong cuộc sống hằng ngày của trẻ tại nhà.

+ Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: Tiến hành phát phiếu khảo sát tại 4 lớp 1 ở hai trường Tiểu học Sơn Điền và trường Tiểu học – Trung học cơ sở Gia Bắc.

+ Phương pháp phỏng vấn: Trong quá trình khảo sát chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn một số phụ huynh, các thầy cô chủ nhiệm lớp 1 ở hai trường Tiểu học Sơn Điền và trường Tiểu học – Trung học cơ sở Gia Bắc.

+ Phương pháp thống kê toán học: Thống kê những kết quả thu thập được, xử lí số liệu vào bảng

Kết quả khảo sát thu được như sau:

Để tìm hiểu thực trạng về một số khó khăn và nguyên nhân dẫn đến khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh lớp 1 ở hai trường Tiểu học Sơn Điền và trường Tiểu học – Trung học cơ sở Gia Bắc, đề tài tiến hành khảo sát 40 học sinh của 4 lớp 1 tại hai trường, kết quả thu được như sau:

2.2.1. Nhận thức của học sinh lớp 1 về tầm quan trọng của việc đi học

Bước vào lớp 1, trẻ gặp rất nhiều khó khăn tâm lý: Khó khăn trong quan hệ với thầy cô, với gia đình; Khó khăn khi ở trường, lúc ở nhà; Khó khăn khi tiến hành hoạt động học và các hoạt động khác. Mỗi học sinh đều có những khó khăn riêng, từ đó ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức của trẻ về tầm quan trọng của việc đi học.

Vậy để biết rõ được mức độ biểu hiện những khó khăn trong hoạt động nhận thức học tập của học sinh lớp 1, chúng tôi tiến hành khảo sát trên 40 học sinh khối 1 ở trường Tiểu học Tiểu học Sơn Điền và trường Tiểu học – Trung học cơ sở Gia Bắc, Kết quả thu được ở bảng sau:

Bảng 2.2. Mức độ biểu hiện những khó khăn trong hoạt động nhận thức học tập của học sinh lớp 1

TT Nội dung Mức độ
Thường xuyên Thỉnh thoảng Ít khi Không bao giờ
SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%
1 Đọc bảng chữ cái 10 25 12 30 10 25 8 20
2 Đọc bảng chữ cái to rõ ràng 6 15 9 22,5 21 52,5 4 10
3 Nhận biết và thuộc các mặt chữ 11 27,5 20 50 4 10 5 12,5
4 Ghép, đọc các chữ cái đã học thành tiếng, thành từ 20 50 12 30 5 12,5 3 7,5
5 Viết đúng và đẹp các chữ cái 9 22,5 22 55 5 12,5 4 10
6 Nhận diện các chữ cái và thanh điệu 5 12,5 23 57,5 10 25 2 5
7 Làm quen với các con số 2 5 8 20 26 65 4 10
8 Đếm, viết các số trong phạm vi 100 4 10 4 10 22 55 10 25
9 Thực hiện các phép tính +, – 15 37,5 12 30 11 27,5 2 5
10 Sử dụng tiếng phổ thông thường xuyên 30 75 6 15 2 5 2 5

Qua bảng số liệu tổng hợp được chúng tôi nhận thấy:

Với nội dung Đọc bảng chữ cái có tới 30% học sinh lớp 1 thỉnh thoảng gặp khó khăn, 25% số học sinh cho rằng thường xuyên và ít khi gặp khó khăn. 20% Số học sinh cho rằng không bao giờ gặp khó khăn. Như vậy có thể thấy rằng học sinh lớp 1 ở hai trường Tiểu học Sơn Điền và trường Tiểu học – Trung học cơ sở Gia Bắc gặp khó khăn tương đối lớn trong việc đọc bảng chữ cái.

Với nội dung Đọc bảng chữ cái to rõ ràng, học sinh ít khi gặp khó khăn chiếm tỉ lệ cao 52,5%, tỉ lệ học sinh không bao giờ gặp khó khăn chiếm 10%, thường xuyên gặp khó khăn chiếm tỉ lệ 15% và tỉ lệ thỉnh thoảng gặp khó khăn chiếm 22,5%. Như vậy, cho ta thấy được học sinh lớp 1 ở hai trường Tiểu học này có giọng đọc khá tốt nên việc đọc to rõ ràng bảng chữ cái ít khi gặp khó khăn.

Ở hai nội dung Nhận biết và thuộc các mặt chữ; Nhận biết các chữ cái và thanh điệu, tỉ lệ học sinh thỉnh thoảng gặp khó khăn chiếm tỉ lệ tương đối lần lượt là 50% và 57,5%. Cũng tương tự ở nội dung này học sinh thường xuyên gặp khó khăn chiếm tỉ lệ lần lượt là 27,5% và 12,5%. Với tỉ lệ bằng nhau 5% số học sinh không bao giờ gặp khó khăn, cho thấy rằng việc nhận biết và thuộc các mặt chữ, các thanh điệu của học sinh lớp 1 ở hai trường này được biểu hiện như nhau. Tuy nhiên ở mức độ ít khi gặp khó khăn hai nội dung này lại có tỉ lệ khá chênh lệch lần lượt là 10% và 25%.

Phần nội dung thứ tư Ghép, đọc các chữ cái đã học thành tiếng, thành từ, tổng tỉ lệ hai mức độ thường xuyên và thỉnh thoảng khá cao chiếm 80%, số lượng học sinh ít khi gặp khó khăn có tỉ lệ 12,5% và không bao giờ gặp khó khăn có tỉ lệ 7,5%. Từ đó cho thấy, việc ghép, đọc các chữ cái đã học thành tiếng, thành từ đối với học sinh lớp 1 ở hai trường Tiểu học này gặp khó khăn tương đối lớn.

Có tới 77,5% tổng tỉ lệ số học sinh ở mức độ thường xuyên và thỉnh thoảng gặp khó khăn trong việc Viết đúng và đẹp các chữ cái, số lượng học sinh ít khi và không bao giờ gặp khó khăn có tổng tỉ lệ là 22,5%. Chính vì vậy có thể thấy ở nội dung này đa số học sinh còn gặp khó khăn lớn trong việc viết đúng và đẹp các chữ cái.

Với hai phần nôi dung Làm quen với các con số và Đếm, viết các số trong phạm vi 100, ở mức độ thường xuyên chiếm tỉ lệ lần lượt là 5% và 10%. Ở mức độ thỉnh thoảng có tỉ lệ lần lượt là 20% và 10%. Cuối cùng ở mức độ ít khi và không bao giờ hai nội dung này có tỉ lệ lần lượt là 65%, 55% và 10% và 25%. Có thể thấy, hai nội dung này có mức độ khó tương đối như nhau chính vì vậy cần dạy cho trẻ hai nội dung này song song và phối hợp cùng lúc.

Ở nội dung Thực hiện phép tính +, – ta thấy mức độ thường xuyên và thỉnh thoảng gặp khó khăn chiếm tỉ lệ lần lượt là 37,5%, 30%, từ đó cho thấy phần nội dung này đối với lớp học sinh lớp 1 ở hai trường Tiểu học được khảo sát gặp không ít những khó khăn. Ở mức độ ít khi và không bao giờ chiếm tỉ lệ lần lượt là 27,5% và 5%.

Ở nội dung Sử dụng tiếng phổ thông thường xuyên, số học sinh thường xuyên gặp khó khăn chiếm tỉ lệ rất cao 75%, tiếp theo là mức độ thỉnh thoảng chiếm 15%, cuối cùng là mức độ ít khi, không bao giờ có tỉ lệ bằng nhau là 5% và 5%. Chính từ tỉ lệ chênh lệch như vậy có thể thấy học sinh lớp 1 ở hai trường Tiểu học này gặp khó khăn rất lớn đối với việc sử dụng tiếng phổ thông thường xuyên trong giao tiếp hằng ngày.

Từ những số liệu đã thống kê trong bảng 2.2 ta có thể thấy rằng, học sinh lớp 1 ở hai trường Tiểu học Sơn Điền và trường Tiểu học – Trung học cơ sở Gia Bắc gặp khó khăn nhiều nhất trong việc sử dụng tiếng phổ thông thường xuyên. Cũng vì lí do học sinh ở hai trường này đa số là học sinh dân tộc thiểu số, các em giao tiếp hằng ngày bằng tiếng mẹ đẻ, ít được quan tâm trong việc dạy các em biết đọc, biết viết tiếng phổ thông. Chính từ đó, khi bước chân vào trường Tiểu học các em sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi phải thường xuyên sử dụng tiếng phổ thông trong việc học tập và giao tiếp. Qua đó các nhà giáo dục, nhất là các giáo viên Mầm non cùng phối hợp với phụ huynh tập trung, khuyến khích các em sử dụng tiếng phổ thông hằng ngày, để khi bước chân vào lớp 1 các em sẽ không còn bỡ ngỡ và khó khăn làm ảnh hưởng tới tâm lý của trẻ.

2.2.2. Việc chuẩn bị tâm lý cho trẻ vào lớp 1 của phụ huynh học sinh

Để đánh giá thực trạng việc chuẩn bị tâm lý cho trẻ của phụ huynh có con em chuẩn bị vào lớp 1 chúng tôi đã sử dụng câu hỏi số 2 trong phiếu điều tra, qua khảo sát thu được như sau:

Bảng 2.3. Mức độ của phụ huynh về việc chuẩn bị tâm thế vào lớp 1 cho con em mình

TT Nội dung Mức độ
Thường xuyên Thỉnh thoảng Ít khi Không bao giờ
SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%
1 Bố mẹ khuyến khích các em sử dụng tiếng phổ thông trong giao tiếp hằng ngày 2 5 3 7,5 7 17,5 28 70
2 Đưa các em đi tham quan trường Tiểu học mình sắp học 1 2,5 2 5 5 12,5 32 80
3 Chuẩn bị sách vở, đồ dùng học tập 12 30 10 25 14 35 4 10
4 Đưa em đến các khu vui chơi để làm quen với nhiều bạn mới, các bạn cùng trang lứa 1 2,5 1 2,5 2 5 36 90
5 Tập cho các em kiên trì làm một công việc nào đó tập trung trong thời gian lâu 1 2,5 1 7,5 2 5 36 90
6 Động viên, tạo nhiều hứng thú để các em cảm thấy muốn đến trường, không còn sợ sệt 2 5 2 5 3 7,5 33 82,5
7 Giới thiệu cô giáo mới, bạn bè mới, lớp học mới cho các em 0 0 2 5 3 7,5 35 87,5
8 Được rèn kỹ năng tự tin, thuyết trình… 0 0 0 0 0 0 40 100
9 Được làm quen với môi trường học tập mới: lớp học, sân trường, nhà vệ sinh; hiệu lệnh tiếng trống trường… 1 2,5 2 5 4 10 33 82,5
10 Được làm quen với lớp học mới: cô giáo mới, nội quy lớp học, chỗ ngồi, tủ sách cá nhân, phấn và bảng… 2 5 3 7,5 2 5 33 82,5
11 Hướng dẫn thời gian biểu 2 5 3 7,5 2 5 33 82,5
12 Rèn một số kỹ năng tự phục vụ và bảo vệ bản thân 0 0 0 0 2 5 38 95
13 Tư thế và tác phong khi học

lớp 1

0 0 2 5 5 12,5 33 82,5

Qua bảng số liệu chúng tôi nhận thấy:

Ở phần nội dung thứ nhất Bố mẹ khuyến khích các em sử dụng tiếng phổ thông trong giao tiếp hằng ngày có mức độ tương đối thấp, ở mức độ thường xuyên và thỉnh thoảng chỉ chiếm tỉ lệ lần lượt là 5% và 7,5%. Còn ở mức độ ít khi và không bao giờ lại chiếm tỉ lệ cao hơn lần lượt là 17,5% và 70%. Chính vì vậy, ta thấy được ở nội dung này phụ huynh chưa thật sự quan tâm nhiều tới việc khuyến khích con em mình sử dụng tiếng phổ thông trong giao tiếp hàng ngày, dẫn tới khi bước chân vào lớp 1 trẻ gặp khó khăn rất lớn trong việc phải sử dụng tiếng phổ thông thường xuyên.

Nội dung thứ hai Đưa các em đi tham quan trường Tiểu học mình sắp học, ở phần nội dung này hầu như tất cả phụ huynh đều không quan tâm thậm chí là không cho rằng việc đó là cần thiết. Số liệu thu được qua khảo sát như sau: Ở mức độ thường xuyên chỉ có tỉ lệ 2,5%, tiếp theo là mức độ thỉnh thoảng chiếm 5%, mức độ ít khi chiếm 12,5%, cuối cùng là mức độ không bao giờ chiếm tỉ lệ cao 80%. Từ những số liệu thống kê được ta thấy, phụ huynh chưa quan tâm đến việc phải dẫn con em mình đi tham quan trường Tiểu học mà các em sắp được học.

Với nội dung thứ ba Chuẩn bị sách vở, đồ dùng học tập, mức độ quan tâm của phụ huynh có phần nhiều hơn. Ở mức độ thường xuyên và thỉnh thoảng chiếm tỉ lệ lần lượt là 30% và 25%, tiếp theo là mức độ ít khi chiếm tỉ lệ 35%, cuối cùng là mức độ không bao giờ chiếm tỉ lệ 10%. Qua đó cho thấy, ở nội dung này phụ huynh có phần quan tâm đến việc chuẩn bị đồ dùng, sách vở của con em mình hơn.

Nội dung thứ tư và thứ năm Đưa em đến các khu vui chơi để làm quen với nhiều bạn mới, các bạn cùng trang lứa; Tập cho các em kiên trì làm một công việc nào đó tập trung trong thời gian lâu có tỉ lệ được quan tâm rất thấp. Dẫn chứng như sau: Ở mức độ thường xuyên chỉ chiếm tỉ lệ ở cả hai nội dung là 2,5%, mức độ thỉnh thoảng cũng tương tự chiếm tỉ lệ lần lượt là 2,5% và 7,5%, mức độ ít khi chiếm tỉ lệ lần lượt là 5% và 7,5%. Ngược lại ở cả hai nội dung mức độ không bao giờ lại có tỉ lệ rất cao chiếm tỉ lệ lần lượt là 90%, 82,5%. Từ đó cho thấy, ở cả hai nội dung này phụ huynh chưa nhận thấy được tầm quan trọng và dẫn đến họ sẽ không bao giờ quan tâm đến việc phải chuẩn bị hai nội dung này.

Với nội dung Động viên, tạo nhiều hứng thú để các em cảm thấy muốn đến trường, không còn sợ sệt mức độ thường xuyên, thỉnh thoảng và ít khi được quan tâm của phụ huynh dành cho con em mình chỉ chiếm tỉ lệ lần lượt là 5%, 5% và 7,5%. Còn lại mức độ không bao giờ chiếm số tỉ lệ còn lại 82,5%. Chính điều đó cho thấy, học sinh khi bước vào lớp 1 luôn mang tâm lý sợ sệt, không muốn đến trường vì các em ít nhận được sự quan tâm và động viên từ phía phụ huynh. Vì vậy phụ huynh cần giành nhiều thời gian và mức độ quan tâm tới việc động viên, khuyến khích trẻ đến trường.

Ở hai nội dung Được làm quen với môi trường học tập mới: Lớp học, sân trường, nhà vệ sinh; Hiệu lệnh tiếng trống trường…; Được làm quen với lớp học mới: Cô giáo mới, nội quy lớp học, chỗ ngồi, tủ sách cá nhân, phấn và bảng…Ta thu được số liệu thống kê là như sau: Ở cả hai mức độ thường xuyên có tỉ lệ lần lượt là 2,5% và 5% , mức độ thỉnh thoảng chiếm tỉ lệ lần lượt là 5% và 7,5%, mức độ tiếp theo là mức độ ít khi chiếm tỉ lệ lần lượt là 10% và 5% và cuối cùng là mức độ không bao giờ chiếm tỉ lệ bằng nhau là 82,5%. Chính từ những số liệu thống kê được cho ta thấy rằng thực trạng quan tâm của phụ huynh tới cả ba nội dung này là như nhau, họ chưa thật sự quan tâm và thậm chí là không quan tâm đến việc phải chuẩn bị hai tâm thế này cho trẻ khi trẻ chuẩn bị vào lớp 1, vì thế khi bước vào ngôi trường Tiểu học đa số trẻ còn rất nhiều bỡ ngỡ, rụt rè dẫn tới khó khăn về tâm lý rất lớn ảnh hưởng tới việc học của trẻ.

Ở ba nội dung Giới thiệu cô giáo mới, bạn bè mới, lớp học mới cho các em; Được rèn kỹ năng tự tin, thuyết trình…; Rèn một số kỹ năng tự phục vụ và bảo vệ bản thân là 3 nội dung hầu như không được phụ huynh quan tâm đến. Ở cả 3 nội dung mức độ thường xuyên đều có tỉ lệ là 0%, mức độ thỉnh thoảng có tỉ lệ lần lượt là 5%, 0% và 0%, mức độ ít khi có tỉ lệ lần lượt là 7,5, 0% và 5%, mức độ không bao giờ chiếm tỉ lệ rất cao lần lượt là 87,5%, 100% và 95%. Từ đó cho thấy, trẻ khi bước vào lớp 1 đều không được quan tâm cũng như rèn luyện tới những kỹ năng được coi là cơ bản và cần thiết nhất. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến sự sợ sệt, ngại khó, thiếu tự tin trong việc học tập cũng như việc tham gia vào các hoạt động của trường lớp.

Hai nội dung Hướng dẫn thời gian biểu; tư thế và tác phong khi học lớp 1 cũng chưa được sự quan tâm từ phía phụ huynh học sinh. Mức độ thường xuyên chiếm tỉ lệ bằng nhau là 0%, tiếp theo là mức độ thỉnh thoảng có tỉ lệ lần lượt là 0% và 5%, tiếp đến là mức độ ít khi cả hai nội dung đều có tỉ lệ lần lượt là 5% và 12,5%, cuối cùng là mức độ không bao giờ chiếm tỉ lệ lần lượt là 95% và 82,5%. Điều đó cho thấy phụ huynh cũng chưa có sự quan tâm cao đến việc chuẩn bị tâm thế cho con em mình khi bước vào lớp 1 ở cả hai nội dung này.

Trong câu hỏi số 2 ở phần thực trạng này, chúng tôi phỏng vấn hai phụ huynh của học sinh K’Nuys, K’ Hoành trường Tiểu học Sơn Điền và phụ huynh em Ka Miu trường Tiểu học – Trung học cơ sở Gia Bắc. Cả ba phụ huynh này đều trả lời họ không nghĩ tới việc phải chuẩn bị những tâm thế như việc rèn một số kỹ năng cơ bản, đưa con đi tham quan, làm quen với trường học mới, bạn bè, thầy cô giáo mới… Họ đều cho rằng chỉ cần chuẩn bị sách vở, bút thước đầy đủ cho các em, vào ngày khai giảng đến trường học là được.

Qua bảng số liệu thống kê ở bảng 2.3 và câu trả lời phỏng vấn ở hai phụ huynh cho ta thấy, học sinh ở cả hai trường Tiểu học Sơn Điền và trường Tiểu học – Trung học cơ sở Gia Bắc chưa nhận được sự quan tâm lớn từ phía phụ huynh trong tất cả các nội dung được coi là cơ bản nhất cần được chuẩn bị khi bước chân vào lớp 1. Từ điều đó học sinh ở hai trường Tiểu học vùng sâu vùng xa này, các em đều không nhận thức được tầm quan trọng, sự hứng thú khi được đi học lớp 1, thay vào đó các em cảm thấy rất lo sợ, rụt rè, bỡ ngỡ khi bước vào một môi trường học tập mới, khi phải chuyển hoạt động chủ đạo vui chơi là chính sang học tập. Những khó khăn tâm lý đó sẽ ảnh hưởng xấu tới kết quả học tập, rèn luyện của các em ở ngôi trường Tiểu học. Chính vì vậy các bậc phụ huynh, người gần gũi với các em học sinh nhất cần hiểu rõ và nắm được tầm quan trọng về việc chuẩn bị tâm thế vào lớp 1 cho các em, từ đó quan tâm nhiều hơn, chuẩn bị tốt hơn những kỹ năng cơ bản và tâm thế sẵn sàng vào lớp 1 cho con em mình.

2.2.3. Việc chuẩn bị chào đón trẻ vào lớp 1 của giáo viên

Để hiểu rõ hơn về thực trạng việc chuẩn bị chào đón trẻ vào lớp 1 của giáo viên, chúng tôi tiến hành phỏng vấn 3/24 giáo viên ở trường Tiểu học Sơn Điền và 3/35 giáo viên ở trường Tiểu học – Trung học cơ sở Gia Bắc với câu hỏi: “Quý thầy [cô] đã chuẩn bị những gì trong việc chào đón học sinh vào lớp 1?”.

Với câu hỏi này đa số các thầy cô trong cả hai trường Tiểu học đều trả lời rằng họ đã có sự chuẩn bị rất kĩ lưỡng trong tất cả các giai đoạn trước và sau ngày khai giảng như sau:

+ Thăm nắm tình hình như hoàn cảnh gia đình, tình hình sức khỏe học sinh từ các giáo viên ở trường Mầm non, các chính quyền địa phương nơi mà các em đã học, đã sinh sống.

+ Thăm hỏi, động viên các học sinh có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn để các em có thể được đến trường.

+ Xây dựng không khí vui tươi, trường học thân thiện để các em có hứng thú khi đến trường.

+ Gần gũi, thân thiện với học sinh, giới thiệu các cơ sở vật chất, trang thiết bị, các giáo viên ở trường, ở lớp. Giới thiệu bạn mới, tạo hứng thú muốn được kết bạn cho tất cả học sinh.

+ Khuyến khích, hướng dẫn các em sử dụng tiếng phổ thông trong giao tiếp hằng ngày.

+ Tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp để các em cảm thấy hứng thú khi đến trường.

Thông qua những câu trả lời của một số giáo viên đã phỏng vấn, ta thấy được giáo viên ở cả hai ngôi trường này đều có sự quan tâm rất lớn tới việc chào đón trẻ vào lớp 1, chính những điều đó đã giúp các em có điều kiện đến trường, cảm thấy được quan tâm hơn, nhận thấy được sự thân thiện, gần gũi ngay chính ngôi trường mà các em sẽ học, từ đó các em sẽ hứng thú với việc đến trường, sẽ dần mất đi sự rụt rè, bỡ ngỡ ngay lúc ban đầu.

2.2.4. Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh lớp 1

Để đánh giá về thực trạng khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh lớp 1 chúng tôi đưa ra câu hỏi số 3 trong phiếu điều tra, kết quả khảo sát thu được qua bảng 2.3 như sau:

Bảng 2.4. Mức độ những khó khăn mà em gặp phải trong hoạt động học tập

ở lớp 1

TT Nội dung Mức độ
Thường xuyên Thỉnh thoảng Ít khi Không bao giờ
SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%
1 Khó thích ứng với nề nếp sinh hoạt của nhà trường 15 37,5 10 25 13 32,5 2 5
2 Khả năng điều khiển các hoạt động tâm lý của bản thân còn kém 15 37,5 12 30 8 20 5 12,5
3 Chuyển dạng hoạt động chủ đạo từ vui chơi là chính qua học tập 25 62,5 10 25 2 5 3 7,5
4 Phải tiếp thu những kiến thức mới trừu tượng 22 55 12 30 3 7,5 3 7,5
5 Liều lượng kiến thức trong sách giáo khoa mới nhiều hơn, khó hơn 22 55 12 30 4 10 2 5
6 Phải làm những công việc đòi hỏi sự khéo léo, tập trung cao 20 50 10 25 5 12,5 5 12,5
7 Có tâm lý lo lắng, sợ hãi khi đến trường 28 70 10 25 1 2,5 1 2,5
8 Cảm thấy chán học, “thèm” được chơi nhiều hơn 28 70 8 20 2 5 2 5
9 Khó làm quen với bạn mới 5 12,5 10 25 10 25 15 37,5
10 Gặp khó khăn trong giao tiếp với cô giáo 25 62,5 10 25 3 7,5 2 5
11 Phải đóng một vai mới trong gia đình 10 25 5 12,5 8 20 17 42,5
12 Khả năng ngôn ngữ còn hạn chế 28 70 8 20 2 5 2 5
13 Khó khăn khi tham gia các hoạt động vui chơi tập thể và lao động 6 15 8 20 13 32,5 13 32,5
14 Chưa tự tin, chưa dám thể hiện 28 70 9 22,5 3 7,5 3 7,5
15 Mạnh dạn, năng động và tự tin 15 37,5 10 25 10 25 5 12,5
16 Nhiệt tình, hăng hái phát biểu bài 22 55 10 25 4 10 4 10
17 Vui và hạnh phúc khi được tới lớp 22 55 10 25 5 12,5 3 7,5

Biểu đồ 1: Biểu đồ thể hiện mức độ những khó khăn mà em gặp phải trong hoạt động học tập ở lớp 1

Thông qua bảng 2.4 và biểu đồ 1 có thể thấy học sinh ở hai trường Tiểu học Sơn Điền và trường Tiểu học – Trung học cơ sở Gia Bắc có mức độ khó khăn tương đối lớn trong hoạt động học tập ở lớp 1.

Với nội dung thứ nhất Khó thích ứng với nề nếp sinh hoạt của nhà trường, mức độ khó khăn thường xuyên gặp phải có tỉ lệ 37,5%, tiếp theo là mức độ thỉnh thoảng 25%, mức độ ít khi 32,5%, cuối cùng là mức độ không bao giờ có tỉ lệ 5%. Từ đó cho thấy, mức độ thường xuyên gặp khó khăn trong việc thích ứng với nề nếp sinh hoạt mới ở trường Tiểu học của học sinh ở hai trường này cũng không quá lớn. Trẻ cũng có sự thích nghi nhanh chóng với nề nếp mới.

Với nội dung Khả năng điều khiển các hoạt động tâm lý của bản thân còn kém, tổng tỉ lệ mức độ thường xuyên và thỉnh thoảng gặp khó khăn chiếm tỉ lệ lên tới 67,5%, trong khi đó tổng tỉ lệ của mức độ ít khi và không bao giờ gặp khó khăn lại chiếm tỉ lệ 32,5%. Qua đó cho ta thấy được, học sinh lớp 1 ở hai trường này gặp không ít khó khăn trong việc phải điều khiển các hoạt động tâm lý của bản thân mình, trẻ dễ bị sợ hãi, nóng nảy, thậm chí có thể ngưng hoạt động học tập khi cảm thấy chán nản, nhớ ba mẹ…

Ở nội dung Chuyển dạng hoạt động chủ đạo từ vui chơi là chính qua học tập, mức độ thường xuyên gặp khó khăn cũng chiếm tỉ lệ khá cao 62,5%, mức độ thỉnh thoảng và ít khi có tỉ lệ lần lượt là 25% và 5%, mức độ không bao giờ gặp khó khăn có tỉ lệ 7,5%. Từ điều đó thấy được, học sinh lớp 1 của hai trường Tiểu học này cũng gặp khó khăn rất lớn trong nội dung này, nguyên nhân chính cũng từ lí do trẻ chưa có nhận thức tốt về tầm quan trọng cũng như công việc chủ yếu phải làm khi bắt đầu đặt chân vào lớp 1.

Hai nội dung Phải tiếp thu những kiến thức mới trừu tượng và Liều lượng kiến thức trong sách giáo khoa mới nhiều hơn, khó hơn, mức độ khó khăn là tương đối như nhau. Ở mức độ thường xuyên có tỉ lệ bằng nhau là 55%, ở mức độ thỉnh thoảng có tỉ lệ bằng nhau là 30%, ở mức độ ít khi có tỉ lệ lần lượt là 7,5% và 10%, ở mức độ không bao giờ có tỉ lệ lần lượt là 7,5% và 5%. Sở dĩ ở hai nội dung này có mức độ khó khăn tương đối như nhau và tỉ lệ ở mức độ thường xuyên và thỉnh thoảng gặp khó khăn là tương đối cao vì trẻ em ở độ tuổi này các em vừa phải chuyển hoạt động chủ đạo từ vui chơi là chính sang học tập, trẻ phải học những kiến thức mới và khó hơn so với việc chỉ cần học đếm, học hát, học múa ở trường Mầm non. Khi bước chân vào học lớp 1 trẻ phải tiếp xúc với việc cầm bút viết bài, nhớ và thuộc các mặt chữ, các con số, phải biết thực hiện phép tính +, -, liều lượng kênh chữ trong sách giáo khoa nhiều hơn kênh hình… Chính những điều đó đã làm cho trẻ cảm thấy hoang mang, bỡ ngỡ và khó khăn khi phải học và tiếp thu những kiến thức đó hằng ngày.

Nội dung thứ 6 Phải làm những công việc đòi hỏi sự khéo léo, tập trung cao, ở mức độ thường xuyên gặp khó khăn chiếm tới 50%, mức độ thỉnh thoảng gặp khó khăn chiểm tỉ lệ 25%, mức độ ít và không bao giờ gặp khó khăn chiếm tỉ lệ bằng nhau là 12,5%. Những mức độ này cho thấy, trẻ khi vào lớp 1 gặp khó khăn khá nhiều về việc phải tập trung học, làm bài trong khoảng thời gian lâu. Ở bảng 2.2 nội dung thứ 5 đã cho thấy được, phụ huynh học sinh chưa quan tâm nhiều đến việc phải rèn luyện cho trẻ sự khéo léo và tập trung làm một công việc nào đó trong một thời gian lâu, chính vì điều đó đã dẫn đến khi vào lớp 1 trẻ gặp khó khăn tương đối lớn trong việc phải thực hiện nội dung này.

Nội dung Có tâm lý lo lắng, sợ hãi khi đến trường và cảm thấy chán học, “thèm” được chơi nhiều hơn mức độ khó khăn thể hiện là tương đối như nhau. Mức độ thường xuyên ở cả hai nội dung có tỉ lệ rất cao 70%, mức độ thỉnh thoảng có tỉ lệ lần lượt là 25% và 20%, mức độ ít khi và không bao giờ có tỉ lệ lần lượt là 2,5% và 5%. Với tỉ lệ tương đối như nhau ở cả hai nội dung này cho ta thấy được, nếu trẻ khi chuẩn bị vào lớp 1 đã có tâm lý lo lắng, sợ hãi thì các em sẽ nhanh chóng cảm thấy chán học, lười học, trẻ chỉ mong rằng được trở về học ở Mầm non để được vui chơi nhiều hơn thay vì việc phải tập trung học nhiều hơn ở trường Tiểu học. Chính vì điều đó, các bậc phụ huynh, các nhà giáo dục nên động viên, tạo tâm lý thoải mái khi trẻ bước chân vào lớp 1, nên tổ chức, khuyến khích cho các em tham gia nhiều hơn các hoạt động ngoài giờ lên lớp để trẻ có hứng thú, có niềm vui khi được đến trường.

Nội dung thứ 9 Khó làm quen với bạn mới, mức độ thường xuyên gặp khó khăn rất ít 12,5%, mức độ thỉnh thoảng gặp khó khăn là 25%, mức độ ít khi và không bao giờ gặp khó khăn lần lượt là 25% và 37,5%. Qua tỉ lệ đó cho ta thấy được, học sinh lớp 1 ở hai trường Tiểu học này không gặp nhiều khó khăn trong việc làm quen với bạn mới. Lí do là do trẻ đã được làm quen và học cùng nhau ở trường Mầm non, ở độ tuổi này trẻ rất dễ hòa đồng vào các bạn cùng lứa với mình và nhanh chóng kết bạn với nhau.

Với nội dung gặp khó khăn trong giao tiếp với cô giáo, mức độ thường xuyên gặp khó khăn rất cao chiếm tỉ lệ 62,5%, mức độ thỉnh thoảng gặp khó khăn chiếm tỉ lệ 25%, mức độ ít khi có tỉ lệ 7,5%, mức độ không bao giờ chỉ chiếm tỉ lệ 5%. Từ đó cho ta thấy được, học sinh lớp 1 ở hai trường Tiểu học này rất rụt rè, sợ và không dám tiếp xúc, trò chuyện với giáo viên, chính vì điều đó đã gây không ít khó khăn trong việc thăm nắm suy nghĩ, tâm lý, những khó khăn mà trẻ gặp phải. Vì vậy, người giáo viên nhất là giáo viên chủ nhiệm, cần quan tâm nhiều hơn tới học sinh của mình, tạo mối quan hệ thầy trò gần gũi, thân thiện với học sinh của mình.

Với nội dung Phải đóng một vai mới trong gia đình, mức độ thường xuyên và thỉnh thoảng gặp khó khăn có tỉ lệ lần lượt là 25% và 12,5%, mức độ ít khi và không bao giờ gặp khó khăn có tỉ lệ lần lượt là 20% và 42,5%.

Với nội dung Khó khăn khi tham gia các hoạt động vui chơi tập thể và lao động, trẻ gặp khó khăn tương đối ít. Tổng tỉ lệ mức độ thường xuyên và thỉnh thoảng gặp khó khăn là 35%, tổng tỉ lệ mức độ ít khi và không bao giờ gặp khó khăn là 65%. Từ đó cho thấy độ chênh lệch rất lớn từ bốn mức độ, trẻ ở độ tuổi này rất “thèm” được chơi, các em rất phấn khởi và hứng thú khi được nhà trường tổ chức các hoạt động vui chơi tập thể. Và cũng vì lí do đặc thù là gia đình các em phần lớn làm vườn, làm rẫy nên các em đã phải phụ giúp ba mẹ khi còn nhỏ, chính vì vậy các em sẽ không gặp khó khăn nhiều trong việc tham gia vào các hoạt động lao động do nhà trường tổ chức. Vì thế nắm được đặc thù này, các nhà giáo dục nên tạo nhiều điều kiện hơn để tổ chức các hoạt động vui chơi, các hoạt động lao động ngoài giờ học để các em học sinh có được niềm vui, sự hứng thú khi đến trường.

Ở nội dung Chưa tự tin, chưa dám thể hiện; Mạnh dạn, năng động và tự tin; Nhiệt tình, hăng hái phát biểu bài, mức độ thường xuyên gặp khó khăn rất cao lần lượt là 70%, 35,5% và 55%, mức độ thỉnh thoảng gặp khó khăn lần lượt là 22,5%, 25% và 10%, mức độ ít khi gặp khó khăn lần lượt là 7,5%, 25% và 10%, mức độ không bao giờ gặp khó khăn lần lượt là 7,5%, 12,55, 10%. Từ đó cho thấy, ở cả ba nội dung này học sinh đều gặp khó khăn lớn, các em còn rụt rè, e ngại, chưa mạnh dạn, chưa tự tin. Lí do rất lớn từ phía phụ huynh cũng như nhà trường, họ chưa có sự quan tâm lớn đến việc rèn kỹ năng thuyết trình, kỹ năng tự tin khi đứng trước đám đông cho trẻ, điều đó dẫn tới các em học sinh sẽ thiếu tự tin, thiếu mạnh dạn trong việc phát biểu, bày tỏ ý kiến của mình trong học tập cũng như trong các hoạt động tập thể.

Với nội dung Vui và hạnh phúc khi được tới lớp, mức độ thường xuyên cảm thấy không vui và hạnh phúc khi tới lớp là 55%, mức độ thỉnh thoảng là 25%, mức độ ít khi và không bao giờ lần lượt là 12,5% và 7,5%. Chính từ đó ta thấy được, trẻ em không có hứng thú khi đến trường thì sẽ không cảm thấy vui và hạnh phúc khi được tới lớp, các em chỉ muốn đến trường để chơi nhiều hơn là học.

Qua bảng các số liệu thống kê thu được ở bảng 2.4 cho ta thấy rằng, học sinh ở hai trường Tiểu học Sơn Điền và trường Tiểu học – Trung học cơ sở Gia Bắc đều có những khó khăn rất lớn trong hoạt động học tập ở lớp 1, các em cảm thấy rụt rè, lo lắng, không muốn đến trường, “thèm” được chơi nhiều hơn là học, các em chỉ muốn đến trường để có nhiều bạn mới, được tham gia vào các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Chính vì những lí do đó, các bậc phụ huynh cần quan tâm và chuẩn bị tâm thế thật tốt cho trẻ vào lớp 1. Ở phía nhà trường, các thầy cô giáo cần gần gũi, ân cần với học sinh, tổ chức và quan tâm nhiều hơn tới các hoạt động ngoài giờ lên lớp để các em cảm thấy “Mỗi ngày đến trường là một niềm vui”, cần lồng ghép việc học với các hoạt động vui chơi, mang tới cho các em những điều sinh động, quen thuộc ở cuộc sống hằng ngày từ đó các em sẽ tập trung và tiếp thu bài học một cách nhanh chóng.

2.2.5. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên

Chúng ta biết rằng học sinh lớp 1 gặp rất nhiều khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập. Vậy những nguyên nhân nào dẫn đến những khó khăn đó? Để trả lời câu hỏi này chúng tôi đưa ra câu hỏi số 4 trong phiếu điều tra và thu được bảng số liệu như sau:

Bảng 2.5. Nguyên nhân dẫn đến khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập

của học sinh lớp 1

TT Nguyên nhân Mức độ
Rất nhiều Nhiều Ít Không có
SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%
1 Chưa hiểu rõ nội quy, quy định của nhà trường 2 33,3 3 50 1 16,7 0 0
2 Hạn chế về tiếng phổ thông 3 50 2 33,3 1 16,7 0 0
3 Không được chuẩn bị tâm lý sẵn sàng vào lớp 1 4 66,7 2 33,3 0 0 0 0
4 Do tính cách của trẻ 1 16,7 2 33,3 2 33,3 1 16,7
5 Gia đình thờ ơ, không quan tâm đến việc học của trẻ 4 66,6 1 16,7 1 16,7 0 0
6 Môi trường gia đình không thuận lợi 1 16,7 2 33,3 2 33,3 1 16,7
7 Gia đình luôn tạo áp lực bắt buộc trẻ phải đi học 1 16,7 2 33,3 2 33,3 1 16,7
8 Do đường đến trường quá xa 2 33,3 2 33,3 1 16,7 1 16,7
9 Nội dung học tập nhiều, khô khan 4 66,6 1 16,7 1 16,7 0 0
10 Giáo viên luôn kiểm tra, đánh giá mọi công việc của trẻ 2 33,3 2 33,3 1 16,7 1 16,7
11 Ít được trò chuyện, vui chơi cùng giáo viên 2 33,3 2 33,3 1 16,7 1 16,7
12 Ít được động viên, thăm hỏi về việc đến trường 2 33,3 2 33,3 1 16,7 1 16,7
13 Không bộc lộ được hết khả năng của mình trong các hoạt động 1 16,7 3 50 1 16,7 1 16,6
14 Ít được tham gia các hoạt động ngoại khóa 2 33,3 2 33,3 1 16,7 1 16,7
15 Ít được tạo cơ hội làm quen với bạn mới 1 16,7 3 50 1 16,7 1 16,6
16 Điều kiện của nhà trường chưa đáp ứng đủ chỗ chơi cho trẻ 2 33,3 2 33,3 1 16,7 1 16,7

Qua thống kê của bảng số liệu 2.5 ta thấy được, trẻ khi vào lớp 1 có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập.

Nguyên nhân thứ nhất Chưa hiểu rõ nội quy, quy định của nhà trường, ở mức độ rất nhiều chiếm 33,3%, mức độ nhiều chiếm 50%, tỉ lệ ở mức độ ít 16,7%, mức độ không có 0%. Với tỉ lệ thu được như vậy ta thấy được mức độ học sinh chưa nắm được nội quy, quy định của nhà trường rất nhiều và nhiều, chính vì điều đó sẽ dẫn đến sự vi phạm, lo lắng ở trẻ khi học lớp 1.

Với nguyên nhân Hạn chế về tiếng phổ thông, mức độ rất nhiều trẻ hạn chế tiếng phổ thông chiếm 50%, mức độ nhiều 33,3%, mức độ ít 16,7%, mức độ không có 0%. Từ đó ta thấy được, mức độ hạn chế tiếng phổ thông rất nhiều điều đó là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến những khó khăn trong hoạt động học tập của trẻ. Trẻ sẽ khó khăn trong giao tiếp, trong việc đọc bảng chữ cái…

Với nguyên nhân Không được chuẩn bị tâm lý sẵn sàng vào lớp 1, mức độ rất nhiều trẻ không được chuẩn bị tâm lý sẵn sàng vào lớp 1 rất cao chiếm tới 66,7%, tiếp theo là mức độ nhiều chiếm 33,3%. Chính từ điều đó cho thấy, học sinh khi chuẩn bị vào lớp 1 đều không được phụ huynh quan tâm tới tâm lý, họ chỉ chuẩn bị quần áo, sách vở, đồ dùng cho con em mình đến lớp là đủ. Vì vậy đây được coi là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến khó khăn tâm lý trong hoạt động của trẻ lớp 1.

Với nguyên nhân Do tính cách của trẻ, mức độ rất nhiều có tỉ lệ 16,7%, mức độ nhiều có tỉ lệ 33,3%, mức độ ít có tỉ lệ 33,3% và không có có tỉ lệ 16,7%. Chính vì vậy trẻ sẽ gặp khó khăn khi bước vào lớp 1.

Với nguyên nhân Gia đình thờ ơ, không quan tâm đến việc học của trẻ, mức độ rất nhiều chiếm tới 66,6%, mức độ nhiều chiếm 16,7%, mức độ ít có tỉ lệ là 16,7%. Chính vì nguyên nhân đó dẫn đến trẻ sẽ gặp nhiều bỡ ngỡ và gặp nhiều khó khăn khi bước vào lớp 1.

Với nguyên nhân Môi trường gia đình không thuận lợi, mức độ rất nhiều có tỉ lệ là 16,7%, mức độ nhiều có tỉ lệ 33,3%, mức độ ít có tỉ lệ 33,3%, mức độ không có có tỉ lệ là 16,7%. Từ đó cho thấy môi trường gia đình không thuận lợi sẽ dẫn đến trẻ gặp khó khăn khi bước vào lớp 1.

Với nguyên nhân Gia đình luôn tạo áp lực bắt buộc trẻ phải đi học, mức độ rất nhiều có tỉ lệ 16,7%, tiếp theo là mức độ nhiều có tỉ lệ 33,3%, mức độ ít có tỉ lệ 33,3%, mức độ không có chiếm tỉ lệ 16,7%. Từ đó thấy được, phụ huynh chưa thật sự quan tâm đến suy nghĩ của trẻ, chưa quan tâm, động viên trẻ đến trường nhiều mà thay vào đó là đưa ra sự ép buộc đối với trẻ.

Với nguyên nhân Do đường đến trường quá xa, mức độ rất nhiều học sinh phải đến trường quá xa 33,3%, mức độ nhiều 33,3%, mức độ ít 16,7%, mức độ không có 16,7%. Ở nguyên nhân này được coi là nguyên nhân khách quan dẫn đến khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập ở trẻ, phân nửa số học sinh phải đến trường quá xa dẫn tới các em lười biếng và không ham muốn đến trường.

Với nguyên nhân Nội dung học tập nhiều, khô khan, mức độ rất nhiều là 66,6%, mức độ nhiều là 16,7%, mức độ ít là 16,7%. Từ đó thấy được, học sinh đa số đều cho rằng nguyên nhân này ảnh hưởng rất nhiều đến tâm lý của trẻ khi học lớp 1.

Với nguyên nhân Giáo viên luôn kiểm tra, đánh giá mọi công việc của trẻ; Ít được trò chuyện, vui chơi cùng giáo viên; Ít được động viên, thăm hỏi về việc đến trường, cả ba nội dung này có tỉ lệ tương đối như nhau, lí do là vì giáo viên chưa xây dựng được mối quan hệ gần gũi với học sinh, chưa thật sự quan tâm và tìm hiểu nhiều đến hoàn cảnh gia đình của trẻ, chưa động viên trẻ nhiều. Mức độ rất nhiều và nhiều có tỉ lệ bằng nhau là 33,3%, mức độ ít và không có có tỉ lệ bằng nhau là 16,7%.

Với nguyên nhân Không bộc lộ được hết khả năng của mình trong các hoạt động, mức độ rất nhiều có tỉ lệ là 16,7%, mức độ nhiều chiếm tỉ lệ là 50%, mức độ ít chiếm tỉ lệ là 16,7%, mức độ không có chiếm tỉ lệ 16,7%, điều này cho thấy trẻ còn rụt rè, nhút nhát không giám thể hiện bản thân và giáo viên chưa thực sự tạo điều kiện để trẻ có thể phát huy được hết khả năng của mình.

Với nguyên nhân Ít được tham gia các hoạt động ngoại khóa mức độ rất nhiều và nhiều có tỉ lệ bằng nhau là 33,3%, mức độ ít và không có chiếm tỉ lệ bằng nhau là 16,7%, điều này cho thấy giáo viên chưa thực sự tạo điều kiện để trẻ có thể phát huy được hết khả năng của mình.

Với nguyên nhân Ít được tạo cơ hội làm quen với bạn mới và Điều kiện của nhà trường chưa đáp ứng đủ chỗ chơi cho trẻ, mức độ rất nhiều có tỉ lệ lần lượt là 16,7% và 33,3%, mức độ nhiều có tỉ lệ lần lượt là 50% và 33,3%, mức độ ít và không có có tỉ lệ bằng nhau là 16,7%. Điều này thấy được, điều kiện của nhà trường còn nhiều khó khăn nên không thể đáp ứng được điều kiện vật chất để trẻ có thể hoạt động vui chơi, giao lưu làm quen với bạn mới, vì vậy nhà trường cần có biện pháp thích hợp để cải thiện nguyên nhân này như tổ chức nhiều hơn các hoạt động ngoài giờ lên lớp cho toàn thể học sinh được tham gia, tạo sân chơi lành mạnh bổ ích để kết nối giữa học sinh với học sinh…

Ngoài ra một số học sinh còn đưa ra một số nguyên nhân khác như: Hoàn cảnh gia đình không đủ đáp ứng việc đi học của trẻ; Trẻ chỉ muốn được đến trường chơi với bạn mới thay vì phải học nhiều hơn; Trẻ muốn ở nhà lên rẫy, làm phụ ba mẹ; Sợ cô giáo phạt khi không làm được bài…

Qua bảng số liệu thống kê 2.5 và một số nguyên nhân khác học sinh nêu ra qua khảo sát cho ta thấy, học sinh ở hai trường Tiểu học Sơn Điền và trường Tiểu học – Trung học cơ sở Gia Bắc đều có những nguyên nhân và mức độ thể hiện nguyên nhân khác nhau. Nhưng những nguyên nhân lớn nhất và được coi là hàng đầu ảnh hưởng đến tâm lý của trẻ là các nguyên nhân sau: Hạn chế về tiếng phổ thông; Không được chuẩn bị tâm lý sẵn sàng vào lớp 1; Phụ huynh thờ ơ, không quan tâm đến việc học của trẻ; Do đường đến trường quá xa; Ít được trò chuyện, vui chơi cùng giáo viên; Ít được tham gia các hoạt động ngoại khóa. Những nguyên nhân này cần được các nhà giáo dục, các bậc phụ huynh đặc biệt quan tâm chú ý hơn. Về phía phụ huynh cần chuẩn bị cho trẻ một tâm thế sẵn sàng vào lớp 1, động viên trẻ đến trường, cùng trẻ đi dự lễ khai giảng năm học mới, nắm được suy nghĩ và những khó khăn trẻ đang gặp phải để có biện pháp giải quyết kịp thời và phù hợp nhất; Về phía nhà trường cần gần gũi, thân thiện với học sinh nhiều hơn, không tạo quá nhiều áp lực đối với trẻ, tổ chức nhiều hơn các hoạt động ngoại khóa để trẻ cảm thấy không nhàm chán, mệt mỏi sau những giờ học căng thẳng.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Bước vào lớp 1, trẻ gặp rất nhiều khó khăn tâm lý: Khó khăn trong quan hệ với thầy cô, với gia đình; Khó khăn khi ở trường, lúc ở nhà; Khó khăn khi tiến hành hoạt động học và các hoạt động khác. Mỗi học sinh đều có những khó khăn riêng, từ đó ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức của trẻ về tầm quan trọng của việc đi học.

Qua quá trình tiến hành khảo sát thực trạng khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh ở trường Tiểu học Sơn Điền và trường Tiểu học – Trung học cơ sở Gia Bắc huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng, chúng tôi nhận thấy: Học sinh lớp 1 ở hai trường Tiểu học Sơn Điền và trường Tiểu học – Trung học cơ sở Gia Bắc thường xuyên gặp khó trong việc sử dụng tiếng phổ thông; Chưa nhận được sự quan tâm lớn từ phía phụ huynh; Ít được trò chuyện, vui chơi cùng giáo viên; Ít được tham gia các hoạt động ngoại khóa,… Từ đó làm cho các em không nhận thức được tầm quan trọng, sự hứng thú khi được đi học lớp 1, thay vào đó các em cảm thấy rất lo sợ, rụt rè, bỡ ngỡ khi bước vào một môi trường học tập mới.

Những nguyên nhân này cần được các nhà giáo dục, các bậc phụ huynh đặc biệt quan tâm chú ý hơn. Về phía phụ huynh cần chuẩn bị cho trẻ một tâm thế sẵn sàng vào lớp 1, động viên trẻ đến trường, cùng trẻ đi dự lễ khai giảng năm học mới, nắm được suy nghĩ và những khó khăn trẻ đang gặp phải để có biện pháp giải quyết kịp thời và phù hợp nhất; về phía nhà trường cần gần gũi, thân thiện với học sinh nhiều hơn, không tạo quá nhiều áp lực đối với trẻ, tổ chức nhiều hơn các hoạt động ngoại khóa để trẻ cảm thấy không nhàm chán, mệt mỏi sau những giờ học căng thẳng.

CHƯƠNG 3. BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC KHÓ KHĂN TÂM LÝ

TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA HỌC SINH LỚP 1

Ở ĐỊA BÀN VÙNG SÂU VÙNG XA HUYỆN DI LINH

3.1. Cơ sở xây dựng biện pháp và nguyên tắc xây dựng biện pháp khắc phục khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập cho học sinh lớp 1 vùng sâu vùng xa huyện Di Linh

3.1.1. Cơ sở xây dựng biện pháp

Theo số liệu của Tổng cục Dân số – Kế hoạch hóa gia đình từ năm 2014 – 2017 trung bình mỗi năm ở nước ta có hơn một triệu học sinh bước vào lớp 1, sự hồi hộp, lo lắng, căng thẳng, thiếu tự tin, áp lực là những khó khăn tâm lý chung của học sinh khi chuẩn bị bước vào bậcTiểu học. Đó là một yêu cầu lớn để những nhà Giáo dục có biện pháp nói chung và bậc Tiểu học nói riêng.

Trường Tiểu học Sơn Điền và trường Tiểu học – Trung học cơ sở Gia Bắc là hai trường nằm ở vùng sâu vùng xa huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Trên địa bàn có một số cơ quan, đơn vị đóng trên địa bàn như: Ủy ban nhân dân xã, trạm y tế,… Tuy nhiên phần đông phụ huynh học sinh ở trường đều là dân tộc thiểu số, nghề nghiệp chính là làm nông và buôn bán tự do. Do điều kiện vật chất còn hạn chế, trình độ nhận thức của phụ huynh chưa thực sự cao nên các em học sinh chưa thực sự được quan tâm và tạo điều kiện tốt nhất. Cũng do nguyên nhân đó mà các em học sinh không có cơ hội để được đến lớp.

Học sinh mới lên lớp 1 vừa hoàn thành bậc Mầm non đã quen với hoạt động vui chơi nhưng khi vào lớp 1 trẻ phải thực hiện nhiệm vụ của một học sinh – hoạt động chủ yếu là học tập, mang tính bắt buộc, có tổ chức chặt chẽ, có mục đích, có kế hoạch. Trong khi đó, các em ở vùng sâu vùng xa phần lớn đã quen với lối sống tự do, thiếu các kĩ năng sống cần thiết, các em chưa thực hiện được nhiệm vụ một cách độc lập. Khả năng tập trung, chấp hành theo những quy định và nghe theo sự chỉ dẫn của người lớn còn nhiều hạn chế. Các em hầu như chưa được xây dựng thói quen học tập tự giác đặc biệt là cách học tập. Vì thế khi đi học thường xuyên học sinh sẽ sinh ra tâm lý lười đi học, nhàm chán thích ở nhà.

Hiện nay theo Chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 ở lớp 1 có 5 bộ sách giáo khoa: Cánh diều, Chân trời sáng tạo, Kết nối tri thức với cuộc sống, Vì sự bình đẳng của dân chủ trong giáo dục, Cùng học để phát triển năng lực, thay thế cho Chương trình Giáo dục Phổ thông năm 2000. Nội dung của các bộ sách được các giáo viên đánh giá là hơi nặng, nội dung trọng tâm ở một bài khá nhiều, đòi hỏi giáo viên phải dạy nhanh. Đặc biệt là môn Tiếng Việt so với chương trình Giáo dục Phổ thông năm 2000 nặng hơn rất nhiều, một tiết học có đến bốn âm, bốn vần, lại vừa tập viết, vừa nhận dạng chữ, viết bảng và đọc. Điều này gây khó khăn cho học sinh đặc biệt là học sinh dân tộc thiểu số vì các em chưa được tiếp xúc nhiều với Tiếng Việt, khả năng nghe, nói, đọc, viết Tiếng Việt còn đang hạn chế do một số nguyên nhân khách quan trong đó chủ yếu là do nguyên nhân các em ít giao tiếp bằng tiếng việt, sử dụng tiếng mẹ đẻ để giao tiếp hằng ngày, vốn từ tiếng việt của các em còn nhiều hạn chế. Vì thế các em gặp nhiều khó khăn trong việc nghe, hiểu và tiếp thu những gì giáo viên giảng dạy dẫn đến các em không hiểu bài, mất kiến thức căn bản không chỉ ở môn Tiếng Việt mà còn ở các môn khác. Từ đó học sinh sinh ra tâm lý rụt rè, lo sợ mỗi khi đi học, chán nản việc đến trường.

3.1.2. Nguyên tắc xây dựng biện pháp

3.1.2.1. Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn

Nguyên tắc đề ra dựa trên cơ sở phù hợp với tình hình thực tế: Học sinh ở vùng sâu vùng xa thuộc huyện Di Linh chưa được tiếp xúc nhiều với Tiếng Việt, chủ yếu là sử dụng tiếng địa phương [Tiếng mẹ đẻ]. Giáo viên chủ yếu là người Kinh, không biết tiếng dân tộc nên còn gây nhiều khó khăn trong hoạt động dạy học. Hình thành tâm lý sợ đi học ở học sinh. Trình độ dân trí ở các vùng này còn thấp, một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học của con em mình, chưa biết được tầm quan trọng, ý nghĩa của việc đi học. Các em từ nhỏ đã phải phụ giúp gia đình nên đã hình thành tâm lý thích đi làm hơn là đi học. Các biện pháp đưa ra phải kích thích được hứng thú của học sinh khi đến trường, thay đổi nhận thức của các em và các bậc phụ huynh.

3.1.2.2. Nguyên tắc đảm bảo tính khoa học Sư phạm

Các biện pháp được xây dựng một cách khoa học không gò bó, rập khuôn, phù hợp với đối tượng học sinh. Nội dung của các biện pháp đảm bảo tính đặc trưng của việc dạy học cũng như các nguyên lý sư phạm cơ bản, có mối liên hệ chặt chẽ với nội dung chương trình dạy học, phù hợp với các nhiệm vụ sư phạm và thúc đẩy khả năng học tập của học sinh. Các biện pháp khi áp dụng vào thực tế một phải thật gần gũi, học sinh dễ dàng tiếp cận, dễ tiếp thu tránh tạo ra cảm giác xa lạ, khó hiểu ở học sinh.

3.1.2.3. Nguyên tắc đảm bảo tính khách quan

Các biện pháp đề ra phù hợp và áp dụng được với tất cả các học sinh dân tộc thiểu số vùng sâu vùng xa huyện Di Linh nói riêng và cả nước nói chung, không đề ra chỉ dựa trên một đối tượng cụ thể nào.

3.1.2.4. Đảm bảo tính phát triển

Các biện pháp đưa ra nhằm hướng tới sự phát triển toàn diện cho trẻ ở vùng sâu vùng xa, giúp trẻ nghe, nói, đọc, viết một cách thành thạo, nâng cao khả năng giao tiếp, phát triển được các kỹ năng mềm cần thiết cho bản thân.

3.1.2.5. Đảm bảo tính hệ thống

Các biện pháp khắc phục khó khăn tâm lý đối với học sinh lớp 1 vùng sâu vùng xa phải thiết kế xây dựng phù hợp với hệ thống chương trình giáo dục của nhà trường, các biện pháp đi từ xa đến gần, từ khái quát đến cụ thể.

3.1.2.6. Đảm bảo phù hợp đặc điểm tâm lý trẻ em vùng sâu vùng xa

Tâm lý của các em ở lứa tuổi này còn ham chơi, thích vận động. Nên trên cơ sở đó xây dựng các biện pháp nhằm đáp ứng nhu cầu của các em như là: Tổ chức các hoạt động vui chơi, các buổi ngoại khóa, tổ chức dạy học với không khí thoải mái, vừa học vừa chơi,….

3.1.2.7. Nguyên tắc đảm bảo tính khả thi

Các biện pháp khắc phục khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh lớp 1 ở vùng sâu vùng xa cần phải dựa trên thực tiễn và có khả năng thực hiện có hiệu quả cao. Cụ thể:

Các biện pháp phải đảm bảo được mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục đào tạo của nhà trường.

Phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học hiện có của nhà trường.

Phù hợp với năng lực chuyên môn của giáo viên Mầm non, giáo viên Tiểu học, có khả năng triển khai ứng dụng rộng rãi trong quá trình giáo dục học sinh.

Phù hợp với điều kiện sống, môi trường học tập của học sinh.

Phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lí và trình độ nhận thức của học sinh.

Biện pháp phải kích thích được sự mạnh dạn, tự tin thể hiện bản thân của học sinh.

3.1.2.8. Nguyên tắc đảm bảo phối hợp giữa các lực lượng giáo dục nhằm nâng cao hoạt động học tập của học sinh lớp 1 vùng sâu vùng xa.

Các biện pháp đề ra không chỉ để giáo viên áp dụng mà cần có sự phối hợp của nhà trường với địa phương cũng như là phụ huynh học sinh. Tất cả cùng phối hợp với nhau để tạo điều kiện để các em học sinh thuận lợi học tập khắc phục và hạn chế được những khó khăn tâm lý của bản thân.

3.2. Một số biện pháp khắc phục khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh lớp 1 địa bàn vùng sâu vùng xa.

3.2.1. Chuẩn bị tốt cho trẻ về mặt tâm, sinh lí

3.2.1.1. Nội dung biện pháp

Chuẩn bị về mặt sinh lí cho trẻ không đơn thuần là sự chuẩn bị về phát triển chiều cao và trọng lượng cơ thể mà còn là sự chuẩn bị về chất, năng lực làm việc bền bỉ, dẻo dai, có khả năng chống lại sự mệt mỏi của thần kinh, cơ bắp, độ khéo léo của bàn tay, tính nhanh nhạy của các giác quan,… Nhưng trên thực tế, ở các tỉnh, huyện miền núi đặc biệt là tỉnh Lâm Đồng, học sinh suy dinh dưỡng có tỉ lệ khá cao và có độ chênh lệch lớn giữa các thành phố và các huyện, xã vùng sâu vùng xa; Nhiều em chưa được chuẩn bị sẵn sàng về mặt thể chất cho một môi trường học tập mới. Ngoài việc phát triển chiều cao, trọng lượng cơ thể, học sinh còn nên được rèn luyện sự bền bỉ, dẻo dai, có khả năng chống lại sự mệt mỏi của thần kinh, cơ bắp; Độ khéo léo của bàn tay, tính nhanh nhạy của các giác quan,… để thích nghi với trường Tiểu học.

Chuẩn bị về mặt tâm lý cũng rất quan trọng ở trẻ lớp 1, trẻ cần được gia đình, thầy cô và xã hội trang bị tốt một tâm thế sẵn sàng đi học. Trẻ cần được khích lệ, động viên để khi đến trường trẻ nhanh chóng thích nghi với môi trường học tập mới mà không bị bỡ ngỡ, sợ hãi, rụt rè, trẻ sẽ hiểu và biết được tầm quan trọng, vai trò của việc đến lớp. Nhưng đáng tiếc, những điều này học sinh những vùng sâu vùng xa đa phần không được chú ý trang bị, rèn luyện.

3.2.1.2. Cách thực hiện

– Đối với trường Mầm non cần phải tổ chức cho trẻ thực hiện các nội dung phát triển vận động:

+ Giáo viên thường xuyên kể cho học sinh nghe những câu chuyện vui và điều thú vị khi bước vào trường Tiểu học.

+ Phát triển các nhóm cơ: Hô hấp, tay, chân, lưng, bụng [qua các giờ thể dục].

+ Phát triển các vận động thô: Đi, chạy, nhảy, leo trèo nhanh, chậm, thăng bằng… Trẻ thực hiện các vận động theo nhạc, nhịp điệu và hiệu lệnh bằng lời với các dụng cụ như bóng, dây, gậy, cờ, vòng…

+ Phát triển vận động tinh: Vận động khéo léo của các ngón tay, phối hợp vận động với mắt – tay và kỹ năng sử dụng các đồ dùng dụng cụ [kéo, bút, đồ chơi].

+ Tổ chức các trò chơi vận động để phát triển tính nhanh nhạy cho trẻ. Ví dụ: Trò chơi “Mèo và chim sẻ”, “Chim sẻ và ô tô”, “Đuổi bắt”…

+ Tổ chức các bữa ăn hợp lý và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ: Trẻ được ăn đủ lượng, đủ chất, tỷ lệ các chất được cân đối hợp lý, thực đơn được thay đổi theo mùa. Nên khuyến khích động viên các cháu ăn hết xuất, nhất là những cháu ăn chậm và lười ăn. Ví dụ như: Cơm hôm nay con ăn với gì mà ngon thế?, Cô xem ai có miệng há to nào?, Bạn An hôm nay ăn rất giỏi, ai thi ăn với bạn An nào?

+ Chăm sóc trẻ chu đáo: Trẻ cần được giữ ấm về mùa đông, tránh gió lùa, mát mẻ về mùa hè, đặc biệt lưu ý tới trẻ khi thời tiết thay đổi. Theo dõi động viên những trẻ khó ngủ để 100% các cháu ngủ ngon, ngủ đủ giấc.

– Đối với gia đình: Giúp trẻ biết được những việc trẻ cần phải làm khi bước vào lớp 1 để trẻ không bị bỡ ngỡ, sợ hãi; Giúp trẻ có tâm lý tốt, tâm thế sẵn sàng bước vào lớp 1; Giúp trẻ làm quen với giờ giấc mới. Khi bắt đầu vào lớp 1, con bạn cần làm quen với nhịp sống mới chính vì vậy hãy cho trẻ tập thói quen đi ngủ và dậy sớm hơn. Có như vậy thì trẻ mới cảm thấy không khó chịu khi phải dậy sớm đi học; Chuẩn bị cho trẻ tác phong tự lập bằng cách cho trẻ tự soạn sách vở, tự mặc quần áo, tự đi vệ sinh… Bởi lẽ có nhiều đứa trẻ cảm thấy rất sợ hãi khi không có bố mẹ ở bên; Kiểm tra sức khỏe cho con trước năm học mới: Kiểm tra thị lực, thính giác, răng miệng và tiêm chủng là những việc rất quan trọng với tương lai của trẻ, vì một đứa trẻ có thể trở thành học trò kém chỉ vì có vấn đề về thị lực hoặc thính giác. Hơn nữa gia đình cần quan tâm đến chế độ dinh dưỡng của trẻ sao cho phù hợp để trẻ đảm bảo đủ sức khỏe cho học tập.

3.2.2. Chuẩn bị về mặt tri thức cho trẻ

3.2.2.1. Nội dung biện pháp

Giáo dục Mầm non có một ý nghĩa quan trọng đối với việc chuẩn bị tâm thế sẵn sàng đi học cũng như tập cho trẻ làm quen với những sinh hoạt gần gũi với hoạt động học tập. Vì vậy, trẻ cần phải có sự rèn luyện về các thao tác trí tuệ, có sự hiểu biết về bản thân, gia đình, môi trường xung quanh, các biểu tượng định hướng về thời gian, không gian đồng thời có kỹ năng thực hiện hoạt động trí óc như biết so sánh, phân tích, tổng hợp,…

Ở bậc Tiểu học chuẩn bị tri thức cho học sinh khi bước vào lớp 1 là nhiệm vụ cần thiết không chỉ ở giáo viên mà còn ở phụ huynh. Trước khi con bước vào lớp 1 thì các bậc phụ huynh cần: Tập cho con cách ngồi và cách sử dụng đồ dùng học tập, không bắt ép con phải học bài học chữ trước chương trình vì như vậy sẽ gây cho con cảm giác áp lực khi học tập; Cho con xem các chương trình ca nhạc, trò chơi giành cho thiếu nhi; Thường xuyên kể chuyện cho con nghe, dạy con những kiến thức cơ bản về đạo đức, một số kỹ năng cần thiết cho con khi đến trường, động viên con tìm tòi, khám phá ra cái mới,…

3.2.2.2. Cách thực hiện

Để chuẩn bị tốt về mặt trí tuệ cho học sinh đầu lớp 1 trường Tiểu học Sơn Điền và trường Tiểu học Gia Bắc theo chúng tôi cần có một số biện pháp cụ thể sau:

– Cung cấp cho trẻ những hiểu biết nhất định về môi trường gần gũi ở xung quanh như: Môi trường tự nhiên có thế giới động thực vật; Các hiện tượng tự nhiên và môi trường xã hội gồm có thế giới con người và các đồ vật do con người làm ra.

– Dạy trẻ biết định hướng vào không gian và thời gian như phải trái, trên dưới, trước sau, xa gần; Biết các thời điểm trong ngày, các ngày trong tuần, các mùa trong năm… Khả năng định hướng trong không gian và thời gian giúp trẻ tập đọc, tập viết dễ dàng và thích ứng với giờ giấc học tập, sinh hoạt ở trường phổ thông.

– Phát triển tư duy chủ yếu là tư duy trực quan hình tượng. Các thao tác tư duy cơ bản [so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa…], trí tưởng tượng, trí nhớ, năng lực quan sát, phân loại, chú ý và ghi nhớ có chủ định, suy luận cũng cần được rèn luyện.

– Giúp trẻ có khả năng phát hiện và giải quyết những vấn đề đơn giản trong cuộc sống.

– Giúp trẻ làm quen với chữ cái và con số.

+ Hướng dẫn trẻ làm quen với các con số bằng cách: Chia nhỏ các nhóm số để trẻ dễ ghi nhớ và học thuộc. Mới đầu chỉ nên dạy trẻ biết cách đếm thành thạo từ 1 đến 10. Một trong những cách đơn giản, được nhiều phụ huynh sử dụng là hướng dẫn trẻ đếm ngón tay. Cách này thường giúp trẻ nhớ rất lâu, mà ít nhầm lẫn.

Bên cạnh đó, cha mẹ cũng có thể khuyến khích trẻ có thói quen đếm bất kì đồ vật nào trong nhà, từ một vài đồng xu đến số đồ chơi, quần áo… Đơn giản hơn, khi yêu cầu trẻ làm một việc gì đó, cha mẹ cố gắng lồng ghép thêm các con số. Chẳng hạn, “Lấy cho mẹ hai quả táo nào!”, hay “Nhà mình có bao nhiêu người?”. Các bậc phụ huynh nên khuyến khích trẻ đếm số bất kỳ lúc nào có thể. Lúc trẻ chơi đồ chơi có thể hỏi trẻ: “Đố con có bao nhiêu xe ô tô, có bao nhiêu quả trứng?…”

Đợi đến khi nào trẻ đã đếm thành thạo từ 1 đến 10, mới nên giúp trẻ chuyển sang việc đếm thêm nhóm số từ 11 đến 20. Nếu trẻ đã đếm thành thạo từ 1 đến 20, có thể tiếp tục hướng dẫn để trẻ biết cách đếm tiếp từ 20 đến 100. Với trẻ 5 tuổi, cha mẹ có thể trao đổi để trẻ hiểu được quy luật ghép số, nếu trẻ muốn đếm số chính xác. Nguyên tắc của đếm số bao giờ cũng từ thấp tới cao, nghĩa là, bạn có thể gợi ý để bé bắt đầu từ 21, 31, 41, 51… Nếu trẻ muốn đếm từ 21 đến 30, bé sẽ thay lần lượt các số từ 1 đến 9 vào sau số 2, ví dụ: 21, 22… 28, 29. Lặp lại tương tự với nhóm 10 chữ số khác, cho đến khi trẻ có thể đếm được từ 1 đến 100.

Hát những bài chứa chữ số: Những bài hát có nhạc điệu vui vẻ thường khiến trẻ hào hứng và vui thích. Nên chọn những ca khúc có chứa những số đếm, rồi bật lên cho trẻ nghe. Mỗi lần đến đoạn hát số, bạn lại cùng bé ngân nga cao giọng hơn. Chẳng hạn “Một với một là hai…”, đồng thời bạn cũng giơ cao một món đồ chơi minh họa, hoặc hình ảnh số đếm trong ca khúc.

+ Hướng dẫn trẻ làm quen với chữ cái bằng cách:

Giúp trẻ làm quen với các nét lên, xuống: Mới đầu, cha mẹ hãy cho trẻ làm quen với những chữ cái có những nét lên, rồi xuống. Điều đó sẽ khiến trẻ thích thú hơn rất nhiều, vì chúng đã hiểu được khái niệm “lên” và “xuống” từ những hành động như nhảy. Ví dụ, bạn có thể chỉ cho bé thấy chữ M “lên, xuống, lên, xuống” và việc tập viết có thể liên hệ với một vận động cơ thể thú vị. Và sau đó, bạn có thể bỏ thuật ngữ “lên, xuống”, thay vào đó là các “chữ cái”. “Lên, xuống” chỉ là một thuật ngữ giúp trẻ nhận được mặt các chữ cái.

Bắt đầu với các chữ in hoa: Trẻ sẽ dễ phân biệt chữ in hoa này với chữ in hoa khác hơn. Vì thế, bạn hãy bắt đầu dạy trẻ những chữ in hoa trước.

Để trẻ tự khám phá chữ cái: Khuyến khích trẻ tìm các chữ cái trong cuộc sống ở xung quanh trẻ bằng cách cho trẻ xem các bài hát về các chữ cái, xem video giải trí có liên quan về chữ cái trên youtube, tivi như: ABC – song; A con cá sấu; Bài hát bảng chữ cái Việt Nam; Trò chơi chữ cái u, ư, b, d, đ…. Mua bảng ô li để con tự tập viết.

Hãy để trẻ tự tưởng tượng: Bạn cũng có thể yêu cầu trẻ nhìn những chữ cái và ghi nhớ theo trí tưởng tượng của mình. Liệu trẻ sẽ miêu tả chữ cái bằng ngôn từ của chính mình như thế nào? Ví dụ, trẻ có thể nghĩ rằng chữ “o” tròn như quả trứng gà, “ô” thì có mũ, “ơ” thì có râu…

Vận dụng tất cả các giác quan: Cách tiếp cận này dựa trên việc vận dụng mọi giác quan để học. Nói cách khác, cách học này bao gồm:

  • Nhìn [nhận biết mặt chữ]
  • Nói [phát âm thành tiếng]
  • Vận động [chuyển động cơ thể để tạo hình chữ]

Cách học này giúp tăng cường sự phát triển trí não của trẻ và giúp trẻ nhớ tốt hơn. Khi bạn khuyến khích trẻ tìm kiếm các chữ cái trong môi trường xung quanh, miêu tả lại những gì bé thấy, tự viết lại nó, phát âm nó và học nghĩa của từ, điều này sẽ giúp phát triển nhận thức của trẻ và khơi dậy sự yêu thích của trẻ với các chữ cái.

3.2.3. Chuẩn bị về mặt ngôn ngữ, cách giao tiếp cho trẻ

3.2.3.1. Nội dung biện pháp

Trẻ em dân tộc thiểu số gặp nhiều khó khăn trong giao tiếp Tiếng Việt và bị hạn chế về ngôn ngữ, vốn từ Tiếng Việt. Đặc biệt khi bước vào lớp 1 giáo viên chủ yếu sử dụng Tiếng Việt để giảng dạy và giao tiếp với các em sẽ gây cho các em tâm lí lo sợ, rụt rè, không diễn tả được ý hiểu của mình, thậm chí không hiểu bài. Vì vậy các bậc phụ huynh cần trang bị cho con trước khi bước vào lớp 1 các kiến thức cơ bản về giao tiếp như sau: Cho con tham gia các chương trình giao lưu văn hóa tiếng việt do địa phương tổ chức, xem các chương trình giải trí dành cho trẻ em để tăng vốn từ vựng, cho các con hát các bài hát thiếu nhi về tiếng việt, thường xuyên nói chuyện với các con bằng tiếng việt [nếu phụ huynh rành tiếng việt], khuyến khích con tham gia các cuộc thi viết văn, thuyết trình do nhà trường Mầm non tổ chức.

Đối với giáo viên: Giáo viên rèn luyện cho học sinh khả năng giao tiếp thông qua tất cả các môn, trong đó môn Tiếng Việt đóng vai trò quan trọng. Giáo viên chú trọng dạy học sinh trong phân môn Tập đọc, thường xuyên gọi các em trả lời câu hỏi, cho nhiều học sinh nhắc lại, tổ chức.

3.2.3.2. Cách thực hiện

Tất cả những nội dung, kiến thức nói cho cùng đều phải thông qua tiếng Việt. Vì vậy chuẩn bị cho trẻ sử dụng thành thạo tiếng Việt trong sinh hoạt hàng ngày là việc quan trọng nhất để chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1. Đối với những trẻ có ngôn ngữ mạch lạc phát triển tốt thì đồng thời các quá trình như tư duy, tưởng tượng, trí nhớ, tri giác… của trẻ cũng phát triển tốt. Muốn vậy cần có sự quan tâm phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội.

– Về phía phụ huynh học sinh:

Tăng cường tuyên truyền, vận động phụ huynh đồng bào dân tộc đưa con đến trường mẫu giáo đúng độ tuổi. Tăng cường nhận thức cho phụ huynh, giáo viên về việc chuẩn bị tâm thế cho con vào lớp 1. Công tác tuyên truyền đòi hỏi phải thực hiện một cách đồng bộ từ cấp trung ương đến cấp thôn, bản, từng hộ gia đình thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Cần thiết phải tổ chức những buổi sinh hoạt “Tiền lớp 1” hướng dẫn phụ huynh đồng bào những cách thức để nuôi dạy con, giúp con phát triển thể chất, tâm lý, ngôn ngữ,… Tổ chức thường xuyên những buổi sinh hoạt cho phụ huynh ở các thôn bản dưới sự hướng dẫn của cán bộ để giúp cha mẹ học sinh biết cách, tăng cường cải thiện ngôn ngữ tiếng Việt cho học sinh và giúp họ ý thức được tầm quan trọng của việc chuẩn bị tâm thế cho con vào lớp 1. Trong việc phát triển tiếng Việt cho trẻ em cần thống nhất với phụ huynh là khi về nhà, nói chuyện với con em, nên sử dụng tiếng Việt hoặc một phần tiếng Việt. Làm được điều này sẽ hỗ trợ được rất nhiều cho các em trong việc tăng cường vốn từ và khả năng sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp và học tập, để củng cố và phát triển vốn từ mà các em học được ở trường.

– Đối với các giáo viên chủ nhiệm lớp và giáo viên bộ môn:

+ Dạy học theo hướng phân hóa các đối tượng học sinh. Ví dụ: Lớp học sinh đã biết nói tiếng Việt tốt, lớp chưa biết nói tiếng Việt. Tạo niềm đam mê trong học tập của các em, tạo môi trường thân thiện để các em tham gia, tạo động cơ “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui” để khuyến khích các em đến trường. Giáo viên nên biết cả tiếng dân tộc và tiếng Việt để kịp thời hỗ trợ học sinh.

+ Tăng cường dạy tiếng Việt cho trẻ em dân tộc thông qua các hình thức vui chơi. Vận dụng các phương pháp dạy học tiếng Việt với tư cách dạy học ngôn ngữ thứ hai; tăng thời gian luyện nói cho học sinh, tăng cường cho học sinh ra lớp để trẻ em được tham gia các hoạt động tập thể từ đó giúp các em tự tin, mạnh dạn hơn trong giao tiếp.

+ Tập trung theo hướng hình thành những kỹ năng: Nghe hiểu, nghe nói cho học sinh về những chủ đề đơn giản, gần gũi, cần thiết với trẻ. Khuyến khích trẻ hoạt động và nói tiếng Việt.

+ Tạo môi trường giao tiếp thuần tiếng Việt trong các hoạt động vui chơi, giáo dục ở trường Mầm non. Giờ ra chơi, để tránh tình trạng các em chơi theo nhóm dân tộc và nói tiếng mẹ đẻ cần có giáo viên tham gia hướng dẫn, yêu cầu các em nói với nhau bằng tiếng Việt và tổ chức vui chơi cho các em để các em tận dụng tối đa thời gian học và thực hành tiếng Việt.

+ Tạo môi trường và cơ hội giao lưu giúp các em tăng cường vốn tiếng Việt, sự tự tin trong giao tiếp. Thường xuyên tổ chức giao lưu cho học sinh như: Giao lưu tiếng Việt của chúng em, câu lạc bộ Tiếng Việt, các trò chơi dân gian, các bài hát tiếng Việt… Phải làm cho các em yêu tiếng Việt và thích nói tiếng Việt, tăng cường hứng thú học tập bằng những bài học phù hợp và sự động viên khuyến khích kịp thời.

+ Đối với giáo viên Mầm non, nên tự học thêm tiếng dân tộc để tích cực hỗ trợ các em trong việc phát triển ngôn ngữ. Nhà nước nên quan tâm đến việc cần thiết phải thêm chương trình đào tạo ngôn ngữ dân tộc đối với những giáo viên Mầm non dạy học sinh dân tộc thiểu số; đối với những giáo viên đang công tác ở địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa cần có những chương trình tập huấn về tiếng dân tộc. Tất nhiên kèm theo đó là những chế độ đãi ngộ đặc biệt đối với giáo viên vùng sâu, vùng xa để họ gắn bó với nghề và dồn tâm sức vào việc dạy học.

+ Để giúp trẻ học tốt môn Tiếng Việt ở lớp 1 thì giáo viên cần tổ chức cho trẻ các hoạt động nghe – nói như: Cho trẻ phát âm các chữ cái, nghe và hiểu nghĩa của từ, thể hiện cử chỉ, điệu bộ, nét mặt phù hợp với yêu cầu, hoàn cảnh giao tiếp. Bên cạnh đó chuẩn bị cho việc đọc – viết như cho trẻ tiếp xúc với chữ viết trong môi trường xung quanh, nhận dạng và phát âm các chữ cái, tô chữ cái, xem và nghe đọc các loại sách, các bài hát tiếng Việt… Cho trẻ làm quen với cách đọc và viết tiếng Việt: Hướng đọc, hướng viết của các nét chữ, “đọc” truyện qua các tranh vẽ, đọc phải diễn cảm, các tranh vẽ phải đẹp và to. Chữ viết rõ ràng, to, chữ sử dụng trong sách in là chữ in thường…

– Đối với công tác quản lí giáo dục:

Phòng Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo các trường Mầm non huy động tối đa trẻ 3, 4, 5 tuổi ra học lớp Mầm non. Thực hiện tốt công tác chỉ đạo, thanh tra, giám sát việc trông nom và dạy dỗ ở các trường Mầm non. Làm tốt công tác Phổ cập giáo dục trẻ 5 tuổi ở bậc học Mầm non.

– Về phía ngành Giáo dục:

Đối với chương trình, sách giáo khoa: Cần thiết phải thực hiện chương trình giáo dục và sách giáo khoa riêng dành cho học sinh vùng sâu vùng xa – đối tượng biết ít hoặc chưa biết tiếng Việt. Cần biên soạn nhiều tài liệu dạy nói tiếng Việt, các đồ dùng thiết bị dạy học chuyên biệt dành cho học sinh dân tộc thiểu số nhằm tăng cường hứng thú và hiệu quả học tập cho các em. Cần biên soạn tài liệu “Làm quen với tiếng Việt” cho giáo viên Mầm non, kết hợp sử dụng bộ tài liệu hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo về 60 bài làm quen tiếng Việt trước tuổi Tiểu học. Các trường Mầm non, mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số cần được hỗ trợ kịp thời và đầy đủ tài liệu “Hướng dẫn dạy nói tiếng Việt” cho trẻ trước khi vào lớp 1. Cùng với đó, phương án giãn chương trình lớp 1 cho học sinh dân tộc thiểu số chưa biết tiếng Việt từ 35 tuần thành 50 hoặc 70 tuần mà vụ Giáo dục Mầm non vừa đưa ra thời gian qua là giải pháp hữu hiệu. Ngoài ra chương trình giáo dục song ngữ dựa trên tiếng mẹ đẻ đang được thực hành ở một số tỉnh cũng có những kết quả khả quan và nên được nhân rộng.

– Về phía Đảng, Nhà nước:

Với chủ trương “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, Nhà nước nên tăng cường đầu tư, hỗ trợ kinh phí cho giáo dục Mầm non vùng sâu vùng xa để khuyến khích phụ huynh đưa con đến lớp, thúc đẩy phong trào học tập ở vùng sâu vùng xa. Thực hiện các chương trình tuyên truyền quốc gia, hỗ trợ học sinh vùng sâu vùng xa tiếp cận với những dịch vụ giáo dục.

3.2.4. Chuẩn bị tốt về kỹ năng sống và cách thích ứng với môi trường học tập mới

3.2.4.1. Nội dung biện pháp

Để có được kết quả học tập tốt nhất khi vào học lớp 1, học sinh cần được chuẩn bị những kỹ năng sống như kỹ năng giao tiếp xã hội, kỹ năng hoạt động, kỹ năng học tập, kỹ năng tự phục vụ bản thân, kỹ năng giải quyết vấn đề,…

Giáo viên tích hợp kỹ năng sống vào trong nội dung dạy học của từng môn học như môn Toán, Tiếng Việt, Đạo đức, Tự nhiên và Xã hội,… Bên cạnh đó phụ hụnh cần phải trang bị cho con một số kỹ năng sống cơ bản trước khi đến trường như kỹ năng phòng tránh đuối nước, nhận biết được mối nguy hiểm, phòng tránh bắt cóc,…

3.2.4.2. Cách thực hiện

– Đối với hoạt động học tập:

+ Để trẻ thích ứng với các “tiết học” ở lớp 1, giáo viên cần chuẩn bị về cách học: Từng bước tập cho trẻ quen dần với một số kỹ năng học tập, cụ thể là các kỹ năng: Nghe, hiểu yêu cầu nhiệm vụ học tập; Định hướng thực hiện nhiệm vụ học tập; Biết tự lập kế hoạch học tập, chuẩn bị cho học tập; Biết làm việc theo nhiệm vụ chung và nhịp độ chung của lớp; biết hợp tác thi đua học tập, biết tự kiểm tra, đánh giá…

+ Tích hợp nội dung phòng cháy chữa cháy trong phân môn Kể chuyện của môn Tiếng Việt lớp 1 bộ sách giáo khoa Kết nối tri thức với cuộc sống thông qua bài 65: Ôn tập và kể chuyện, dạy cho học sinh kỹ năng dập lửa, tìm chổ trú khi trời mưa. Trong môn Tự nhiên và Xã hội thì giáo viên tích hợp kỹ năng giải quyết vấn đề trong bài 16: Chăm sóc và bảo vệ cây trồng, bộ sách giáo khoa Kết nối tri thức với cuộc sống. Sau khi học sinh học xong bài học thì các em sẽ biết cách chăm sóc cây khi cây bị vàng lá, úng nước,…

+ Tổ chức cho trẻ các trò chơi luyện ngón tay nhằm rèn luyện vận động của các cơ nhỏ và sự khéo léo của các ngón tay, sự phối hợp tay, mắt như: Chơi buộc dây, xếp hạt đậu, chơi lăn bóng, chuyền bóng, ném trúng đích…

+ Tổ chức các hoạt động tạo hình như vẽ tranh, nặn, xé dán, đồ theo hình, vò giấy… đặc biệt các hoạt động có sử dụng bút, giấy như làm sách, hoàn thiện bức tranh.

– Thích ứng đối với hoạt động xã hội:

+ Giáo dục cho trẻ ý thức về bản thân như đặt các câu hỏi để kích thích trẻ biểu lộ những suy nghĩ, cảm xúc của mình thông qua tranh ảnh, hình vẽ, thơ, truyện. Khuyến khích trẻ tự tổ chức các trò chơi đặc biệt là các trò chơi phân vai theo chủ điểm. Giáo dục trẻ có thói quen tự phục vụ bản thân.

+ Giúp trẻ tự lựa chọn và tham gia các hoạt động chơi nhằm phát triển tính tự tin, tự lực, sáng tạo và phát huy tối đa mọi khả năng của trẻ.

+ Giúp trẻ ham học bằng cách thiết kế những hoạt động thú vị vui nhộn, vừa sức cho trẻ như chơi xếp hình, nấu ăn, gieo hạt…

+ Giáo dục trẻ ý thức chấp hành nội quy, quy định ở trường, lớp học, những nơi công cộng, chấp hành luật an toàn giao thông.

+ Giáo dục trẻ ý thức và thái độ cư xử phù hợp đối với người thân trong gia đình như ông bà, cha, mẹ, anh, chị, em…

+ Giáo dục trẻ tạo dựng mối quan hệ tốt đẹp với bạn bè, cô giáo và những người lớn khác đồng thời giúp trẻ có những biểu tượng chính xác về trường phổ thông, các mối quan hệ giữa bạn bè, thầy cô giáo từ đó kích thích được lòng mong muốn, háo hức đến trường học tập của trẻ.

Xây dựng chương trình hành trang vào lớp 1 cho các con với các chủ điểm cơ bản như sau:

Chủ điểm Kỹ năng sống:

Mục tiêu: Sau khóa học, các con sẽ:

+ Các con tự tin giao tiếp với bạn bè và thầy cô giáo;

+ Biết vận dụng một số nội quy cơ bản ở trường Tiểu học vào trong học tập và đời sống;

+ Thực hiện tốt một số kỹ năng cơ bản về tự bảo vệ và chăm sóc bản thân;

+ Xây dựng thời gian biểu và kế hoạch cá nhân;

+ Tinh thần hợp tác trong môi trường học tập ở Tiểu học.

Chủ điểm Tiếng Việt:

Mục tiêu: Sau khóa học 2 tháng, các con sẽ phát triển tốt khả năng ngôn ngữ:

+ Đọc thành thạo các chữ cái đơn và chữ cái ghép;

+ Bắt đầu học cách ghép chữ thành từ, đánh vần và đọc trơn được các từ đơn giản;

+ Tạo lập câu và đọc được câu đơn giản;

+ Viết được các nét cơ bản

Chủ điểm Toán học

Mục tiêu: Sau khóa học, các con sẽ:

+ Thành thạo cộng trừ trong phạm vi 10;

+ Hiểu cách cấu tạo, cách đọc các số có 2 chữ số;

+ Thực hiện cộng 2 số hạng, 3 số hạng.

3.2.5. Tạo mọi điều kiện, động viên và giúp trẻ có hứng thú với việc đến trường

3.2.5.1. Nội dung biện pháp

Nhà trường cần tạo điều kiện để học sinh tham quan trường, tuyên truyền về trường, tổ chức các buổi ngoại khóa vui chơi để tăng hứng thú của học sinh khi đến trường.

Phụ huynh học sinh cần trang bị cho trẻ đầy đủ về đồ dùng và tài liệu học tập, trang bị cho trẻ tâm thế sẵn sàng để bước vào năm học mới.

Nhà trường, gia đình, địa phương cần phối hợp chặt chẽ tạo mọi điều kiện tốt nhất để kích thích hứng thú đến trường của các em.

3.2.5.2. Cách thực hiện

Hình thành cho trẻ lòng mong muốn được đến trường thông qua việc:

+ Giúp trẻ làm quen trước với môi trường mới: Hãy đưa trẻ đến trường vài lần trước khi khai giảng và giới thiệu cho trẻ đâu là phòng học, sân chơi… Để trẻ cảm thấy tự tin hơn khi một mình đến trường.

+ Chuẩn bị những đồ dùng cần thiết: Trẻ thường thích tưởng tượng mình là các nhân vật trong các câu chuyện mang tính giáo dục. Phụ huynh nên mua cho trẻ các cuốn sách viết về các hoạt động ở nhà trường và nhất là lễ khai giảng. Chuẩn bị cặp sách mới, quần áo mới, các đồ dùng học tập… Những đồ vật mới tạo cho trẻ hào hứng và một tâm trạng yên tâm khi vào lớp 1.

+ Chuẩn bị tâm thế trước ngày khai giảng: Vào ngày lễ khai giảng phụ huynh hãy nói với trẻ về năm học mới, giải thích cho trẻ hiểu tại sao lại cần phải đến trường và đến trường thì có lợi ích gì. Phụ huynh là người xây dựng những viễn cảnh mà trẻ cảm thấy thích thú và hào hứng khi chuẩn bị nhập học. Phụ huynh phải luôn luôn động viên và tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ học tập, xây dựng bầu không khí gia đình luôn vui vẻ, ấm cúng, đừng đặt quá nhiều áp lực và kì vọng vào trẻ.

+ Phụ huynh nên tự đưa trẻ đến trường: Đừng để trẻ tự đến trường một mình vào ngày khai giảng hoặc nhờ một người quen nào đó đưa trẻ đến trường. Nếu có thể những ngày đầu tiên các bậc phụ huynh đưa trẻ đến tận cửa lớp. Tối về hãy lắng nghe trẻ kể lại những gì đã diễn ra vào những buổi học đầu tiên, chia sẻ những lo lắng, suy nghĩ của trẻ.

+ Tăng cường sự phối hợp giữa gia đình và nhà trường, tôn trọng nhân cách của trẻ, luôn động viên các em trong quá trình học tập… Là con đường ngắn nhất để cùng trẻ khắc phục những khó tâm lý trong quá trình học tập ở năm học đầu bậc Tiểu học.

Tóm lại, việc chuẩn bị cho trẻ đi học lớp 1 ở trường phổ thông là chuẩn bị những tiền đề cần thiết, tạo cơ hội giúp trẻ đạt trình độ chín muồi đến trường về mọi phương diện: Thể lực, trí tuệ, ngôn ngữ, kỹ năng, xã hội, giao tiếp…Để trẻ thích nghi với hoạt động học tập và cuộc sống ở trường phổ thông. Muốn vậy phải có sự phối hợp rất chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội.

3.3. Đánh giá tính khả thi và tính hiệu quả của các biện pháp mà đề tài xây dựng

3.3.1. Mục tiêu đánh giá

Đánh giá sự phù hợp, hiệu quả của một số biện pháp. Từ đó, có những thay đổi hoàn thiện biện pháp và áp dụng vào trong dạy học một cách phù hợp.

3.3.2. Đối tượng đánh giá

06 Giáo viên đã có kinh nghiệm giảng dạy lớp 1 tại 2 trường Tiểu học Sơn Điền và trường Tiểu học – Trung học cơ sở Gia Bắc.

3.3.3. Nội dung đánh giá

Đánh giá 5 biện pháp mà đề tài đã đưa ra: Chuẩn bị tốt cho trẻ về mặt tâm, sinh lí; Chuẩn bị về mặt tri thức cho trẻ; Chuẩn bị về mặt ngôn ngữ cách giao tiếp cho trẻ; Chuẩn bị về kỹ năng sống và cách thích ứng với môi trường học tập mới; Tạo mọi điều kiện, động viên và giúp trẻ có hứng thú với việc đến trường.

3.3.4. Phương pháp đánh giá

Lập bảng khảo sát tính hiệu quả, tính khả thi của các biện pháp đưa ra.

3.3.5. Kết quả đánh giá

Bảng 3.1. Kết quả khảo sát tính khả thi của 5 biện pháp khắc phục khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh lớp 1

Biện pháp Tính khả thi
Rất khả thi khả thi Bình thường Không khả thi
SL % SL % SL % SL %
Chuẩn bị tốt cho trẻ về mặt tâm, sinh lí 1 16,7 4 66,6 1 16,7 0 0
Chuẩn bị về mặt tri thức cho trẻ 1 16,7 3 50 2 33,3 0 0
Chuẩn bị về mặt ngôn ngữ, cách giao tiếp cho trẻ 3 50 2 33,3 1 16,7 0 0
Chuẩn bị tốt về kỹ năng sống và cách thích ứng với môi trường học tập mới 1 16,7 4 66,6 1 16,7 0 0
Tạo mọi điều kiện, động viên và giúp trẻ có hứng thú với việc đến trường 1 16,7 2 33,3 3 50 0 0

Trên đây là bảng số liệu về kết quả khảo sát mức độ khả thi của 5 biện pháp mà đề tài đã đề ra. Dựa vào bảng số liệu, đề tài nhận thấy cả 5 biện pháp đều khả thi, chúng tôi đưa ra được các thầy cô đánh giá khả thi rất cao với 50% cho biện pháp chuẩn bị về mặt tri thức cho trẻ, 66,6% cho biện pháp chuẩn bị tốt cho trẻ về mặt tâm, sinh lí, 33,3% cho biện pháp chuẩn bị về mặt ngôn ngữ, cách giao tiếp cho trẻ và tạo mọi điều kiện, động viên và giúp trẻ có hứng thú với việc đến trường, 66,6% cho biện pháp chuẩn bị tốt về kỹ năng sống và cách thích ứng với môi trường học tập mới. Tất cả các biện pháp đều có 0% đánh giá không khả thi. Điều này cho thấy các biện pháp đều có thể vận dụng được trong quá trình dạy học lớp 1 ở học sinh dân tộc thiểu số và giúp nâng cao hứng thú học tập của học sinh.

Bảng 3.2. Kết quả khảo sát tính hiệu quả của 5 biện pháp khắc phục khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh lớp 1

Biện pháp Tính hiệu quả
Rất hiệu quả Hiệu quả Bình thường Không hiệu quả
SL % SL % SL % SL %
Chuẩn bị tốt cho trẻ về mặt tâm, sinh lí 0 0 4 66,7 2 33,3 0 0
Chuẩn bị về mặt tri thức cho trẻ 0 0 4 66,7 2 33,3 0 0
Chuẩn bị về mặt ngôn ngữ, cách giao tiếp cho trẻ 3 50 2 33,3 1 16,7 0 0
Chuẩn bị tốt về kỹ năng sống và cách thích ứng với môi trường học tập mới 1 16,7 4 66,6 1 16,7 0 0
Tạo mọi điều kiện, động viên và giúp trẻ có hứng thú với việc đến trường 2 33,3 3 50 1 16,7 0 0

Trên đây là bảng số liệu về kết quả khảo sát mức độ hiệu quả của 5 biện pháp khắc phục khó khăn tâm lý ở học sinh lớp 1 mà đề tài đã đề ra. Dựa vào bảng số liệu, đề tài nhận thấy cả 5 biện pháp khắc phục khó khăn tâm lý đều có tính hiệu quả, chúng tôi đưa ra được các thầy cô đánh giá tính hiệu quả của các biện pháp khá cao.Thứ nhất là biện pháp chuẩn bị về mặt ngôn ngữ, cách giao tiếp cho trẻ chiếm tỉ lệ 50% rất hiệu quả và chiếm 33,3% hiệu quả; Thứ 2 là biện pháp tạo mọi điều kiện, động viên và giúp trẻ có hứng thú với việc đến trường chiếm 33,3% rất hiệu quả và 50% hiệu quả; Thứ 3 là biện pháp chuẩn bị tốt về kỹ năng sống và cách thích ứng với môi trường học tập mới chiếm tỉ lệ rất hiệu quả là 16,7%, hiệu quả chiếm tỉ lệ lần lượt là 66,6% và 76,7%; Thứ 4 là biện pháp chuẩn bị tốt cho trẻ về mặt tâm, sinh lí và biện pháp chuẩn bị về mặt tri thức cho trẻ cả hai biện pháp này đều chiếm 66,7% tỉ lệ hiệu quả. Tất cả 5 biện pháp đều có 0% đánh giá không hiệu quả. Điều này cho thấy các biện pháp khi áp dụng vào trong dạy học sẽ mang lại hiệu quả cao và giảm bớt được khó khăn tâm lý ở học sinh khi đi học.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Việc xây dựng các biện pháp trước hết cần đảm bảo phù hợp với cơ sở pháp lý, lý luận và thực tiễn giáo dục. Cần phải phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của học sinh lớp 1.

Khi thực hiện các biện pháp cần phải xác định rõ nguyên tắc xây dựng như: Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn, đảm bảo tính khoa học sư phạm, đảm bảo tính khách quan, đảm bảo tính phát triển, đảm bảo tính hệ thống, đảm bảo phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ em vùng sâu vùng xa, đảm bảo tính khả thi,… Nhằm nâng cao hoạt động học tập của học sinh lớp 1.

Sau khi khảo sát các biện pháp khắc phục khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh lớp 1 ở hai trường Tiểu học Sơn Điền và trường Tiểu học – Trung học cơ sở Gia Bắc, nhận thấy được các biện pháp khá khả thi và hiệu quả, sử dụng được trong quá trình dạy học giúp các em tự tin, thoải mái và dễ hòa nhập với môi trường học tập.

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Kết luận

Trên cơ sở nghiên cứu về lý luận, phân tích thực trạng vấn đề khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh lớp 1 ở một số trường Tiểu học ở vùng sâu vùng xa huyện Di Linh – tỉnh Lâm Đồng, chúng tôi có thể rút ra được một số kết luận như sau:

Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập là một dạng khó khăn mà đa số các em học sinh khi bước vào một môi trường học tập mới đều gặp phải. Mỗi vùng miền những khó khăn này bộc lộ khác nhau. Ở địa bàn khách thể mà chúng tôi tiến hành nghiên cứu học sinh gặp trở ngại rất lớn trong việc chuẩn bị tâm thế vào lớp 1.

Đề xuất một số giải pháp để khắc phục những khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh lớp 1 ở vùng sâu vùng xa góp phần giúp trẻ tự tin, mạnh dạn hơn khi đến lớp, không còn rụt rè, lo sợ làm ảnh hưởng đến kết quả học tập của các em.

Kết quả khảo sát thực trạng cho thấy, học sinh lớp 1 phần lớn chưa được chuẩn bị tâm thế sẵn sàng vào lớp 1, các em gặp trở ngại lớn nhất là việc sử dụng tiếng phổ thông trong giao tiếp hằng ngày chính từ điều đó làm cho trẻ cảm thấy tự ti, ngại giao tiếp, ngại học hỏi với mọi người xung quanh dẫn đến trẻ sợ đi học, “thèm” được chơi… Nguyên nhân gây ra chủ yếu là do trẻ chưa thật sự được sự quan tâm từ phía phụ huynh, gia đình và xã hội.

Từ kết quả nghiên cứu về lý luận và thực tiễn, tôi đã đưa ra một số giải pháp khắc phục khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh lớp 1 ở một số trường Tiểu học vùng sâu vùng xa huyện Di Linh gồm 5 giải pháp: Chuẩn bị tốt cho trẻ về mặt tâm, sinh lí; Chuẩn bị về mặt trí tuệ cho trẻ; Chuẩn bị về mặt ngôn ngữ, cách giao tiếp cho trẻ; Chuẩn bị tốt về kỹ năng sống và cách thích ứng với môi trường học tập mới; Tạo mọi điều kiện, động viên và giúp trẻ có hứng thú với việc đến trường.

Để kiểm nghiệm kết quả của các giải pháp chúng tôi đưa ra, tôi đã tiến hành thử nghiệm trên 40 học sinh lớp 1 ở hai trường Tiểu học trường Tiểu học Sơn Điền và trường Tiểu học – Trung học cơ sở Gia Bắc. Kết quả cho thấy: Nếu được sự chuẩn bị và quan tâm tốt từ phía gia đình, nhà trường, xã hội như: Chuẩn bị tâm thế sẵn sàng vào lớp 1, khuyến khích trẻ sử dụng tiếng phổ thông thường xuyên, tạo môi trường học tập vui vẻ, thân thiện, động viên trẻ đến trường… Thì từ đó sẽ giúp trẻ không còn cảm thấy lo sợ, rụt rè khi đến trường.

Kiến nghị

Bước qua lớp 1 là trẻ thực hiện xong “Bước quá độ vĩ đại nhất trong đời trẻ”. Trong khi thực hiện “Bước quá độ” này, trẻ gặp rất nhiều khó khăn nếu không được tháo gỡ, những khó khăn này sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến trẻ, có khi ám ảnh trong suốt cuộc đời học sinh. Bởi vậy gia đình, nhà trường và xã hội cần phải phối hợp chặt chẽ, tạo điều kiện giúp trẻ vượt qua cửa ải này.

– Về phía nhà trường:

Thứ nhất là, giáo viên và nhà trường cần hiểu rõ và tôn trọng những đặc điểm tâm sinh lí của trẻ lớp 1. Từ đó tổ chức các hoạt động phù hợp với nhu cầu, khả năng của các em.

Thứ hai là, trong khi giao tiếp với học sinh, giáo viên cần tạo ra một tình cảm gần gũi, thân thiện, thương yêu học sinh.

Thứ ba là, trong giờ học giáo viên cần sử dụng các phương pháp dạy học phù hợp, sử dụng phối hợp các hoạt động trong giờ học để học sinh thấy là mỗi giờ học đều đem đến cho các em một niềm vui mới, một sự hứng thú mới.

Thứ tư là, giáo viên cần tạo cơ hội kết bạn cho học sinh như: Xếp các em ở gần nhà, những em học chung mẫu giáo ngồi cạnh nhau… Trong giờ học, cần tạo điều kiện cho các em được trao đổi, giúp đỡ, kiểm tra lẫn nhau.

Thứ năm là, giáo viên nên cùng trẻ tham gia vào một số hoạt động để gắn kết sợi dây tình cảm giữa giáo viên và học sinh như hoạt động vui chơi, hoạt động giao tiếp…

Thứ sáu là, thăm hỏi, động viên các em học sinh đến trường đúng độ tuổi quy định.

– Về phía gia đình:

Thứ nhất là, cần cho trẻ được đến trường đúng với độ tuổi quy định.

Thứ hai là, cần chuẩn bị cho trẻ một tâm lý sẵn sàng đi học. Tạo dựng và duy trì ở trẻ hứng thú đến trường.

Thứ ba là, thường xuyên kiểm tra, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ học sinh ở trẻ. Tuy nhiên, việc đánh giá cần tiến hành theo hướng khen ngợi khi trẻ thực hiện tốt và động viên, khuyến khích khi trẻ chưa thực hiện được.

Thứ tư là, quan tâm đúng mức đến việc vui chơi của trẻ, thỏa mãn hài hòa nhu cầu vui chơi và nhu cầu học tập ở trẻ.

Thứ năm là, cần tạo một không khí gia đình thuận lợi hoặc tỏ ra thuận lợi để trẻ cảm thấy vui vẻ, thoải mái trong chính ngôi nhà của mình.

– Về phía xã hội:

Thứ nhất là, cần xây dựng thêm và nâng cao chất lượng các khu vui chơi, giải trí cho trẻ.

Thứ hai là, cần thường xuyên thăm hỏi, động viên trẻ đến trường, đặc biệt là các gia đình học sinh có hoàn cảnh khó khăn.

Thứ ba là, xây dựng các chính sách hỗ trợ học sinh vùng sâu vùng xa, vùng có hoàn cảnh khó khăn để tất cả các em được đến trường đúng độ tuổi quy định.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Hoàng Anh [Chủ biên]. Đỗ Thị Châu, Nguyễn Thạc. [2007]. Hoạt động – Giao tiếp – Nhân cách. Nhà xuất bản Đại học Sư phạm.
  2. Nguyễn Thị Thanh Bình. [1996]. Nghiên cứu một số trở ngại tâm lý trong giao tiếp của sinh viên với học sinh khi thực tập tốt nghiệp. Luận án phó tiến sĩ.
  3. Vũ Cao Đàm. [1999]. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học. Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật Hà Nội.
  4. Vũ Ngọc Hà. [2003]. Một số trở ngại tâm lý của trẻ khi vào học lớp 1. Tạp chí Tâm lý học số 4.
  5. Vũ Ngọc Hà, Nguyễn Thị Thư. [11-2005]. Khó khăn tâm lý trong học tập của học sinh lớp 1. Tạp chí tâm lý học số 11.
  6. Vũ Ngọc Hà. [6-2008]. Biểu hiện khó khăn tâm lý trong thực hiện nội quy, nề nếp học tập của học sinh đầu lớp 1. Tạp chí tâm lý học số 6.
  7. Vũ Ngọc Hà. [10-2008]. Tương quan giữa tâm thế sẵn sàng đi học với khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1. Tạp chí tâm lý học số 10.
  8. Nguyễn Minh Hải. [số 4/1995]. Những khó khăn tâm lý trong quá trình giải toán của học sinh Tiểu học. Tạp chí nghiên cứu giáo dục.
  9. Bùi Văn Huệ. [1997]. Tâm lý học tiểu học. Nhà xuất bản giáo dục.
  10. Nguyễn Thị Nhất. [1992]. 6 tuổi vào lớp 1. Nhà xuất bản Kim Đồng. Trung tâm nghiên cứu trẻ em.
  11. Phan Trọng Ngọ [Chủ biên]. Nguyễn Đức Hưởng [2003]. Các lý thuyết phát triển tâm lý người. Nhà xuất bản Đại học Sư Phạm.
  12. Trịnh Quốc Thái. [số 12/1994]. Nhu cầu của học sinh lớp 1 những ngày đầu đi học. Tạp chí nghiên cứu giáo dục.
  13. Trần Trọng Thủy. [số 7/1992]. Về nguyên nhân của hiện tượng lưu ban ở học sinh lớp 1. Tạp chí nghiên cứu giáo dục.
  14. Nguyễn Quang Uẩn [Chủ biên]. Nguyễn Văn Lũy, Đinh Văn Vang [2006]. Tâm lý học đại cương. Nhà xuất bản Đại học Sư Phạm Hà Nội.
  15. BS Nguyễn Khắc Viện. [3-2008]. Tâm lý lâm sàng trẻ em Việt Nam. Nhà xuất bản y học.
  16. BS Nguyễn Khắc Viện. [1997]. Nỗi khổ của con em chúng ta. Nhà xuất bản trẻ.
  17. Nguyễn Quốc thái [số 12/1994] nhu cầu của học sinh những ngày đầu đi học, tạp chí NCGD.
  18. A.V.Petrovxki [1982], Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm, Nhà xuất bản giáo dục.
  19. Maurice Debesse [1971], Tâm lý nhi đồng, Nhà xuất bản trẻ.
  20. Binaka Zazzo [1990], Bước chuyển từ mẫu giáo lên lớp 1, 2 tập, Trung tâm nghiên cứu tâm lý trẻ em biên soạn.
  21. Website:

htpp://tamlygiaoduc.org.vn

//thuatngu.org.vn

PHỤ LỤC 1

Nhằm giúp những nhà quản lý giáo dục, những thầy cô giáo có được các phương pháp dạy và học phù hợp với những học sinh khó khăn ở vùng sâu vùng xa huyện Di Linh chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh lớp 1 ở một số trường Tiểu học vùng sâu vùng xa huyện Di Linh – tỉnh Lâm Đồng”.

Các ý kiến của các em học sinh sẽ giúp chúng tôi rất nhiều trong việc hoàn thành nghiên cứu của mình. Các em vui lòng cho biết ý kiến của mình bằng cách đánh dấu [X] vào ô vuông phù hợp với ý kiến của các em nhất hoặc đưa ra các ý kiến chủ quan của mình cho các câu hỏi sau.

Xin chân thành cảm ơn!

Câu 1. Mức độ biểu hiện những khó khăn trong hoạt động nhận thức học tập của em là gì?

  1. Thường xuyên, [2] Thỉnh thoảng, [3] Ít khi, [4] Không bao giờ
TT Nội dung [1] [2] [3] [4]
1 Đọc bảng chữ cái
2 Đọc bảng chữ cái to rõ ràng
3 Nhận biết và thuộc các mặt chữ
4 Ghép, đọc các chữ cái đã học thành tiếng, thành từ
5 Viết đúng và đẹp các chữ cái
6 Nhận diện các chữ cái và thanh điệu
7 Làm quen với các con số
8 Đếm, viết các số trong phạm vi 100
9 Thực hiện các phép tính +, –
10 Sử dụng tiếng phổ thông thường xuyên

Câu 2: Tâm thế vào lớp 1 của em được bố mẹ chuẩn bị như thế nào?

  1. Thường xuyên, [2] Thỉnh thoảng, [3] Ít khi, [4] Không bao giờ
TT Nội dung [1] [2] [3] [4]
1 Bố mẹ khuyến khích các em sử dụng tiếng phổ thông trong giao tiếp hằng ngày
2 Đưa các em đi tham quan trường Tiểu học mình sắp học
3 Chuẩn bị sách vở, đồ dùng học tập
4 Đưa em đến các khu vui chơi để làm quen với nhiều bạn mới, các bạn cùng trang lứa
5 Tập cho các em kiên trì làm một công việc nào đó tập trung trong thời gian lâu
6 Động viên, tạo nhiều hứng thú để các em cảm thấy muốn đến trường, không còn sợ sệt
7 Giới thiệu cô giáo mới, bạn bè mới, lớp học mới cho các em
8 Được rèn kỹ năng tự tin, thuyết trình…
9 Được làm quen với môi trường học tập mới: lớp học, sân trường, nhà vệ sinh; hiệu lệnh tiếng trống trường…
10 Được làm quen với lớp học mới: cô giáo mới, nội quy lớp học, chỗ ngồi, tủ sách cá nhân, phấn và bảng…
11 Hướng dẫn thời gian biểu
12 Rèn một số kỹ năng tự phục vụ và bảo vệ bản thân
13 Tư thế và tác phong khi học lớp 1

Câu 3. Những khó khăn mà em gặp phải trong hoạt động học tập ở lớp 1 được thể hiện như thế nào?

  1. Thường xuyên, [2] Thỉnh thoảng, [3] Ít khi, [4] Không bao giờ
TT Nội dung [1] [2] [3] [4]
1 Khó thích ứng với nề nếp sinh hoạt của nhà trường
2 Khả năng điều khiển các hoạt động tâm lý của bản thân còn kém
3 Chuyển dạng hoạt động chủ đạo từ vui chơi là chính qua học tập
4 Phải tiếp thu những kiến thức mới trừu tượng
5 Liều lượng kiến thức trong sách giáo khoa mới nhiều hơn, khó hơn
6 Phải làm những công việc đòi hỏi sự khéo léo, tập trung cao
7 Có tâm lý lo lắng, sợ hãi khi đến trường
8 Cảm thấy chán học, “thèm” được chơi nhiều hơn
9 Khó làm quen với bạn mới
10 Gặp khó khăn trong giao tiếp với cô giáo
11 Phải đóng một vai mới trong gia đình
12 Khả năng ngôn ngữ còn hạn chế
13 Khó khăn khi tham gia các hoạt động vui chơi tập thể và lao động
14 Chưa tự tin, chưa dám thể hiện
15 Mạnh dạn, năng động và tự tin
16 Nhiệt tình, hăng hái phát biểu bài
17 Vui và hạnh phúc khi được tới lớp

Câu 4: Những nguyên nhân nào dẫn đến khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của các em?

  1. Rất nhiều, [2] Nhiều, [3] Ít, [4] Không có
TT Nguyên nhân [1] [2] [3] [4]
1 Chưa hiểu rõ nội quy, quy định của nhà trường
2 Hạn chế về tiếng phổ thông
3 Không được chuẩn bị tâm lý sẵn sàng vào lớp 1
4 Do tính cách của trẻ
5 Phụ huynh thờ ơ, không quan tâm đến việc học của trẻ
6 Môi trường gia đình không thuận lợi
7 Phụ huynh luôn tạo áp lực bắt buộc trẻ phải đi học
8 Do đường đến trường quá xa
9 Nội dung học tập nhiều, khô khan
10 Giáo viên luôn kiểm tra, đánh giá mọi công việc của trẻ
11 Ít được trò chuyện, vui chơi cùng giáo viên
12 Ít được động viên, thăm hỏi về việc đến trường
13 Không được bộc lộ hết khả năng của mình trong các hoạt động
14 Ít được tham gia các hoạt động ngoại khóa
15 Ít được tạo cơ hội làm quen với bạn mới
16 Điều kiện của nhà trường chưa đáp ứng đủ chỗ chơi cho trẻ

Nguyên nhân khác [nếu có]:

………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

Em vui lòng điền một số thông tin cần thiết:

Họ và tên:………………………………………………………………………………………………………

Lớp:………………………………………………………………………………………………………………

Dân tộc:…………………………………………………………………………………………………………

PHỤ LỤC 2: PHIẾU KHẢO SÁT THẦY/ CÔ

Chúng tôi đang tiến hành nghiên cứu đề tài: “Khó khăn tâm lí trong hoạt động học tập của học sinh lớp 1 ở một số trường Tiểu học vùng sâu vùng xa huyện Di Linh tỉnh Lâm Đồng” nhằm xây dựng các biện pháp khắc phục khó khăn tâm lí cho học sinh cho học sinh lớp 1. Kính mong quý Thầy/ cô vui lòng dành thời gian giúp chúng tôi trả lời một số câu hỏi dưới đây. Những ý kiến của Thầy/ cô sẽ là nguồn thông tin quý báu giúp chúng tôi hoàn thành đề tài trên. Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác từ quý Thầy/ cô.

Thầy/ cô quan sát các biện pháp dưới đây và đánh dấu X vào mức độ khả thi và mức độ hiệu quả phù hợp của các biện pháp.

[1] Rất khả thi

[2] Khả thi

[3] Bình thường

[4] Không khả thi

[5] Rất hiệu quả

[6] Hiệu quả

[7] Bình thường

[8] Không hiệu quả

Các biện pháp Tính khả thi Tính hiệu quả
[1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8]
Chuẩn bị tốt cho trẻ về mặt tâm, sinh lí
Chuẩn bị về mặt tri thức cho trẻ
Chuẩn bị về mặt ngôn ngữ, cách giao tiếp cho trẻ
Chuẩn bị tốt về kỹ năng sống và cách thích ứng với môi trường học tập mới

Tạo mọi điều kiện, động viên và giúp trẻ có hứng thú với việc đến trường

PHỤ LỤC 3: MỘT SỐ HÌNH ẢNH HỌC TẬP VÀ VUI CHƠI CỦA

CÁC EM HỌC SINH TRƯỜNG TIỂU HOC SƠN ĐIỀN VÀ TRƯỜNG TIỂU HỌC – TRUNG HỌC CƠ SỞ GIA BẮC, HUYỆN DI LINH, TỈNH LÂM ĐỒNG

Hình 1: Cổng trường Tiểu học Sơn Điền phân hiệu Lang Bang

Hình 1: Giờ học Tiếng Việt của các em trường Tiểu học Sơn Điền

Hình 4 : Giờ ra chơi của các em học sinh trường Tiểu học Sơn Điền

Hình 3: Các em học sinh đang tập thể dục

Hình 6 : Các em học sinh trường Tiểu học – Trung học cơ sở Gia Bắc dự Lễ khai mạc tuần lễ hưởng ứng học tập suốt đời

Hình 5: Sân trường Tiểu học – Trung học cơ sở Gia Bắc

Hình 3: Các em học sinh trường Tiểu học – Trung học cơ sở Gia Bắc đang vẽ tranh bảo vệ môi trường

Post Views: 1.077

Chủ Đề