Đỗ mười là ai

TÓM TẮT TIỂU SỬ ĐỒNG CHÍ ĐỖ MƯỜI
Nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương  Đảng Cộng sản Việt Nam; nguyên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng  [nay là Thủ tướng Chính phủ] nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; nguyên Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam

-----

Đồng chí Đỗ Mười [tên khai sinh là Nguyễn Duy Cống], sinh ngày 02/02/1917; quê quán: Xã Đông Mỹ, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Thường trú tại số nhà 11, phố Phạm Đình Hổ, phường Phạm Đình Hổ, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Tham gia hoạt động cách mạng năm 1936; vào Đảng tháng 6/1939.

Năm 1936, đồng chí tham gia phong trào Mặt trận Bình dân.

Năm 1937, đồng chí tham gia Tổ chức Ái hữu thợ mỏ Hòn Gai.

Năm 1938, đồng chí về quê hoạt động, vào Công hội, vận động phong trào ủng hộ Liên Xô; tháng 6/1939, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương [nay là Đảng Cộng sản Việt Nam].

Năm 1941, đồng chí bị thực dân Pháp bắt, kết án 10 năm tù, giam ở Nhà tù Hà Đông và Nhà tù Hoả Lò, Hà Nội.

Năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, đồng chí vượt ngục Hoả Lò, bắt liên lạc với Đảng và tiếp tục hoạt động, được phân công về tham gia Ban khởi nghĩa Tỉnh uỷ Hà Đông, phụ trách phong trào cách mạng huyện Ứng Hoà và Mỹ Đức, tham gia lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Hà Đông.

Lễ đón Tổng Bí thư Đỗ Mười thăm chính thức New Zealand [Tháng 7/1995]. [Ảnh: Xuân Lâm/TTXVN]

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đồng chí làm Bí thư Tỉnh uỷ Hà Đông.

Đầu năm 1946, đồng chí làm Bí thư Tỉnh uỷ Hà Nam. Cuối năm 1946, làm Bí thư Tỉnh uỷ kiêm Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến tỉnh Nam Định.

Năm 1947 - 1949, đồng chí làm Khu uỷ viên Khu III, Bí thư Tỉnh uỷ Ninh Bình, Bí thư Tỉnh uỷ Hoà Bình.

Năm 1950, đồng chí làm Phó Bí thư Liên Khu uỷ, kiêm Phó Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến Hành chính Liên khu III, Chính uỷ kiêm Tư lệnh Liên khu III.

Năm 1951 - 1954, đồng chí làm Bí thư Khu uỷ khu Tả Ngạn Sông Hồng, kiêm Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến Hành chính và Chính uỷ Quân khu Tả Ngạn Sông Hồng.

Năm 1955, đồng chí chỉ đạo tiếp quản Khu 300 ngày, Bí thư Thành uỷ kiêm Chủ tịch Uỷ ban Quân chính thành phố Hải Phòng. Tháng 3/1955, đồng chí được bầu bổ sung Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Năm 1956, đồng chí làm Thứ trưởng Bộ Thương nghiệp.

Năm 1958, đồng chí làm Bộ trưởng Bộ Nội thương.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng [tháng 9/1960], đồng chí được bầu làm Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng; giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội thương.

Năm 1967 - 1968, đồng chí làm Chủ nhiệm Uỷ ban Vật giá Nhà nước, Trưởng phái đoàn Thanh tra Chính phủ.

Năm 1969 - 1973, đồng chí làm Phó Thủ tướng kiêm Chủ nhiệm Uỷ ban Kiến thiết cơ bản Nhà nước. Năm 1973, đồng chí làm Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Phó Chủ tịch Hội đồng chi viện tiền tuyến Trung ương và chống phong toả Cảng Hải Phòng.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng [tháng 12/1976], đồng chí được bầu lại làm Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, và được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu làm Uỷ viên dự khuyết Bộ Chính trị, giữ chức vụ Phó Thủ tướng Chính phủ, phụ trách các khối: Xây dựng cơ bản, Công nghiệp, Vật tư, Cải tạo công thương nghiệp và phân phối lưu thông.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng [tháng 3/1982], đồng chí tiếp tục được bầu lại làm Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu vào Bộ Chính trị, giữ chức vụ Phó Thủ tướng Chính phủ, phụ trách các khối: Xây dựng cơ bản, Công nghiệp, Vật tư.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng [tháng 12/1986], đồng chí tiếp tục được bầu lại làm Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu vào Bộ Chính trị, được phân công làm Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng.

Tháng 6/1988, đồng chí được Quốc hội bầu làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng [nay là Thủ tướng Chính phủ].

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng [tháng 6/1991], đồng chí tiếp tục được bầu làm Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu vào Bộ Chính trị và giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng; Bí thư Quân uỷ Trung ương.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng [tháng 6/1996], đồng chí tiếp tục được bầu làm Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu vào Bộ Chính trị và giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng; Bí thư Quân uỷ Trung ương.

Tháng 12/1997, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tư khoá VIII, đồng chí xin thôi tham gia Ban Chấp hành Trung ương Đảng, thôi giữ chức Tổng Bí thư; được Ban Chấp hành Trung ương Đảng suy tôn làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng đến năm 2000.

Đồng chí là Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá II; Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khoá III, IV, V, VI, VII, VIII; Uỷ viên Bộ Chính trị dự khuyết khoá IV; Uỷ viên Bộ Chính trị các khoá V, VI, VII, VIII; Thường trực Ban Bí thư khoá VI; Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng [nay là Thủ tướng Chính phủ] nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam [từ tháng 6/1988 đến tháng 6/1991]; Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng [từ tháng 6/1991 đến tháng 12/1997]. Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng [từ năm 1997 đến năm 2000]. Đại biểu Quốc hội các khoá II, IV, V, VI, VII, VIII và IX.

Do có nhiều công lao to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, đồng chí được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng; Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế./.

.

Họ và tên:Nguyễn Duy Cống

Tên gọi khác:Đỗ Mười

Ngày sinh: 02/02/1917

Ngày mất: 01/10/2018

Quê quán: Xã Đông Mỹ, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội

TÓM TẮT QUÁ TRÌNH CÔNG TÁC

Là một thanh niên yêu nước sớm giác ngộ cách mạng, năm 19 tuổi, đông chí đã tham gia hoạt động trong phong trào Mặt trận bình dân. Năm 1939, đồng chí gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.

Năm 1941, đồng chí bị thực dân Pháp bắt và kết án 10 năm tù giam tại Hoả Lò - Hà Nội. Tháng 3/1945, đồng chí vượt ngục và tiếp tục hoạt động cách mạng, tham gia Tỉnh uỷ Hà Đông, trực tiếp lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Đông. Sau tháng Tám 1945 đồng chí giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ Hà Đông. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng chí Đỗ Mười lần lượt đảm nhận các công tác khác nhau tại các tỉnh đồng bằng Bắc bộ và Liên khu III; Bí thư Tỉnh uỷ Hà Nam; Bí thư kiêm Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh Nam Định; Khu uỷ viên Khu III kiêm Bí thư Tỉnh uỷ Ninh Bình; Phó Bí thư liên Khu uỷ III kiêm Phó Chủ tlch Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu III; chính uỷ Bộ Tư lệnh Liên khu III; Bí thư Khu uỷ tả ngạn Sông Hồng kiêm Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến hành chính và Chính uỷ Bộ Tư lệnh Khu tả ngạn Sông Hồng.

Năm 1955, đồng chí là Bí thư Thành uỷ kiêm Chủ tịch Uỷ ban quân chính thành phố Hải Phòng.

Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 7 [tháng 3/1955], đồng chí được bầu bổ sung làm Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá II.

Năm 1956, đồng chí được cử giữ chức Thứ trưởng Bộ Nội thương.

Năm 1958, đồng chí được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội thương. Đồng chí là đại biểu Quốc hội khoá II nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Tháng 9/1960, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam, đồng chí Đỗ Mười được bầu là Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Từ năm 1961 đến 1969, đồng chí lần lượt đảm nhiệm các chức vụ: Chủ nhiệm Ủy ban Vật giá Nhà nước, Trưởng phái đoàn thanh tra của Chính phủ.

Từ 1969 đến 1971, đồng chí được cử giữ chức Phó Thủ tướng, Chủ nhiệm Văn phòng Kinh tế Phủ Thủ tướng.

Năm 1971, đồng chí được bầu là đại biểu Quốc hội khoá IV, được Quốc hội bầu giữ chức Phó Thủ tướng, Chủ nhiệm Uỷ ban kiến thiết cơ bản. Từ tháng 6/1973 đến tháng 11/1977, đồng chí được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Xây dựng, đại biểu Quốc hội khoá V, VI.

Tháng 12/1976, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, đồng chí Đỗ Mười được bầu vào Ban Chấp Chấp hành Trung ương và Uỷ viên dự khuyết Bộ Chính trị tiếp tục giữ chức Phó Thủ tướng Chính phủ nhiệm kỳ 1976 - 1981.

Tháng 7/1981, đồng chí là đại biểu Quốc hội khoá VII và được bầu giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Tháng 3/1982, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, Uỷ viên Bộ Chính trị tiếp tục giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.

Tháng 12/1986, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trưng ương, Uỷ viên Bộ Chính trị và Thường trực Ban Bí thư. Đồng chí là đại biểu Quốc hội khoá VIII.

Tháng 6/1988, Quốc hội khoá VIII bầu đồng chí giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII và VIII đồng chí Đỗ Mười được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị, giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng [6/1991 - 12/1997]. Đồng chí là đại biểu Quốc hội khoá IX.

Tháng 12/1997, đồng chí Đỗ Mười được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 4 [khoá VIII] được cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Đồng chí Đỗ Mười qua đời ngày 01/10/2018 tại Hà Nội./.

Video liên quan

Chủ Đề