Ngân hàng kinh doanh sản phẩm dịch vụ nào năm 2024

(iii) Các dịch vụ tư vấn tự động hoặc tư vấn đầu tư tự động được các công ty Fintech cung ứng thông qua một ngân hàng như một phần của hoạt động liên doanh, hợp tác với ngân hàng.

Ngân hàng trực tuyến của Đức - N26 được thành lập vào năm 2013 bởi Valentin Stalf và Maximilian Tayenthal với mục tiêu hoạt động là thâm nhập và thiết kế lại hệ thống ngân hàng bán lẻ hiện tại ở châu Âu và các khu vực khác trên thế giới. Đến năm 2015, N26 chính thức hoạt động và cung ứng sản phẩm đầu tiên của mình là tài khoản ngân hàng miễn phí N26 và thẻ tín dụng MasterCard N26 tại Đức và Áo.

Mới bước vào hoạt động, N26 đã trở nên thu hút và gây được tiếng vang lớn nhờ sản phẩm đầu tiên của mình (mở tài khoản ngân hàng miễn phí trong vòng 10 phút và thẻ tín dụng áp dụng gần như bất kỳ đâu với phí 0 đồng). Cùng năm này, N26 cũng định hình lại chiến lược và hướng đến đối tượng khách hàng cá nhân ở mọi lứa tuổi với nhiều loại hình dịch vụ để cạnh tranh với các ngân hàng đang cung ứng dịch vụ Smartphone trên thị trường.

Ban đầu, doanh thu của N26 chỉ từ dịch vụ ngân hàng di động (Mobile Banking). Tiếp đó, đến năm 2016, khi có được giấp phép hoạt động ngân hàng (của châu Âu) thì bắt đầu cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng và phức tạp nhưng theo hướng nhu cầu khách hàng và ứng dụng công nghệ tiên tiến để đơn giản hóa quy trình giao dịch, cung ứng dịch vụ tức thì đến khách hàng.

Tính từ khi N26 bắt đầu đi vào hoạt động chính thức vào năm 2015 đến năm 2019, số lượng khách hàng đã tăng lên 2,5 triệu ở 24 quốc gia châu Âu nhờ sự đóng góp của 700 chuyên gia đến từ 50 quốc tịch và 3 văn phòng đại diện tại Berlin, New York và Barcelona (N26 GmbH 2019). Tầm nhìn của N26 lúc đó là cung ứng các dịch vụ ngân hàng hiện có với mục tiêu 5 triệu khách hàng vào năm 2020 (www.netguru.com, ngày 18/3/2019). Tính đến năm 2019, N26 đã huy động được 2,7 tỷ đô la từ các nhà đầu tư mạo hiểm khác nhau và các nhà đầu tư lớn (N26 GmbH 2019). Đến năm 2021, N26 đã có số lượng khách hàng vượt qua mốc 7 triệu trên 25 thị trường khác nhau, với đội ngũ hơn 80 quốc tịch tại các văn phòng đại diện ở Berlin, Barcelona, Madrid, Milan, Paris, Vienna, New York và São Paulo.

Có thể nói, N26 là ngân hàng kỹ thuật số hoàn toàn với khách hàng mục tiêu là khách hàng cá nhân thông qua ứng dụng di động của mình. N26 không có chi nhánh ngân hàng nhưng có thể rút tiền mặt từ bất kỳ cửa hàng bán lẻ nào và nhiều loại ATM.

Rõ ràng sự kết hợp hoạt động ngân hàng với Fintech đã giúp N26 cung cấp dịch vụ tài chính đa dạng theo những cách thức sáng tạo. Cũng chính nhờ sự kết hợp này, N26 đã ứng dụng nhiều công nghệ mới, nhiều chiến lược mới, cải thiện các kỹ thuật quản lý, hỗ trợ đổi mới quản lý chuỗi cung ứng, giúp N26 đạt được lợi thế cạnh tranh mà ít ngân hàng truyền thống có thể có.

Kịch bản 4: Ngân hàng thu hẹp hoạt động (Relegated Bank)

Trong kịch bản ngân hàng thu hẹp hoạt động, các ngân hàng truyền thống hiện hành trở thành các nhà cung ứng dịch vụ được thương mại hóa và chuyển giao các mối quan hệ khách hàng trực tiếp cho các nhà cung ứng dịch vụ tài chính khác như các công ty Fintech hoặc Big Tech.

Theo đó, các công ty Fintech hoặc Big Tech sử dụng nền tảng công nghệ để tiếp cận khách hàng nhằm cung ứng các loại dịch vụ tài chính khác nhau từ những nhóm nhà cung ứng dịch vụ khác nhau. Ngoài ra, các công ty Fintech và Big Tech có thể sử dụng các ngân hàng truyền thống để cung ứng các dịch vụ ngân hàng lõi như cho vay, nhận tiền gửi và những hoạt động ngân hàng khác (do các ngân hàng có giấy phép hoạt động ngân hàng). Ngân hàng thu hẹp có thể có hoặc không có rủi ro của các hoạt động này trên bảng cân đối tài sản, tùy theo mối quan hệ hợp đồng với công ty Fintech.

Một số ví dụ về các dịch vụ tài chính được chia thành nhiều phần, theo đó ngân hàng phải thu hẹp hoạt động của mình và chỉ cung ứng các dịch vụ chuyên biệt cho những người chơi khác đang sở hữu mối quan hệ khách hàng, cụ thể:

(i) Sự gia tăng các cổng thanh toán dẫn đến sự ra đời của các loại hình ngân hàng cung ứng các hoạt động ngân hàng nội bộ hỗ trợ. Theo đó, các công ty Fintech sẽ trực tiếp tham gia vào các mối quan hệ khách hàng và quản lý sản phẩm; các ngân hàng sẽ thực hiện xác thực khách hàng để cho phép hoặc không cho phép họ tiếp cận với tiền trong các thẻ thanh toán và tài khoản.

(ii) Các nhà vận hành cổng platform cho vay trực tuyến đã trở thành các nhà cung ứng dịch vụ tài chính thông dụng và có thể mở rộng phạm vi dịch vụ vượt ra ngoài việc cho vay thông thường để trở thành một trung gian tài chính mới giữa khách hàng và ngân hàng. Theo đó, cạnh tranh giữa các định chế tài chính gia tăng và khách hàng sẽ được hưởng lợi từ các sản phẩm có chất lượng được cung ứng với giá rẻ hơn. Các ngân hàng truyền thống sẽ rời bỏ thị trường để chỉ cung ứng cơ chế hoạt động và tài chính.

(iii) Các ngân hàng trở nên thuần túy là một trong các phương tiện tài chính mà ở đó các Robot tư vấn (Robo-advisor) hướng dẫn khách hàng đầu tư và giải quyết nhu cầu tài chính.

(iv) Tận dụng dữ liệu khách hàng của bên thứ ba để cung ứng các sản phẩm tài chính thiết kế phù hợp với các khách hàng (ngân hàng khi đó cũng sẽ là một khách hàng); ngân hàng khi đó thu hẹp phạm vi và chú trọng vào việc quản lý sản phẩm và rủi ro. Ví dụ như WeBank của Tập đoàn Talent là một nền tảng hoạt động ngân hàng được cấp phép kết nối với ứng dụng WeChat (chuyển tải thông điệp tức thời, tận dụng dữ liệu khách hàng của bên thứ ba để cung ứng sản phẩm tài chính) để cung ứng các sản phẩm, dịch vụ của bên thứ ba.

Kịch bản 5: Ngân hàng phi trung gian (Disintermediated Bank)

Các ngân hàng truyền thống không còn là người chơi quan trọng trong kịch bản này, bởi nhu cầu về một trung gian tài chính độc lập đáng tin cậy như ngân hàng không còn nữa. Các ngân hàng bị thay thế bởi các cổng platform và các công nghệ đảm bảo việc kết nối trực tiếp với khách hàng cuối cùng căn cứ trên nhu cầu tài chính của họ (như cho vay, thanh toán hoặc huy động vốn...).

Trong kịch bản này, các khách hàng có thể trực tiếp lựa chọn về dịch vụ và nhà cung ứng mà không phải tìm kiếm các dịch vụ như vậy thông qua ngân hàng nhưng đồng nghĩa với việc họ phải tự chịu trách nhiệm cao hơn về các rủi ro có thể xảy ra trong các giao dịch. Chẳng hạn như trong giao dịch cho vay ngang hàng (P2P Lending), mỗi khách hàng có thể được coi như một người cho vay (những người sẽ phải chịu rủi ro tín dụng) và là người đi vay (những người sẽ phải đối mặt với rủi ro gia tăng xuất phát từ những người cho vay nằm ngoài sự quản lý của cơ quan nhà nước và có thể không nhận được tư vấn tài chính hoặc hỗ trợ trong trường hợp gặp phải vấn đề).

Hiện tại, kịch bản này chưa thực tế nhưng đã có một số yếu tố có thể dự đoán về xu hướng này:

(i) Cổng platform P2P Lending có thể thu hút một số khá lớn các nhà đầu tư nhỏ lẻ tiềm tàng để đáp ứng nhu cầu về vốn đối với một số yêu cầu tín dụng nhất định. Hiện nay, thị phần của P2P Lending vẫn còn khá nhỏ và chưa có khuôn khổ pháp lý điều chỉnh. Theo đó, ở nhiều nơi, cổng platform P2P Lending có xu hướng chuyển sang, hoặc nhập vào các mô hình kinh doanh qua cổng platform lớn, với nhiều dịch vụ đa dạng từ các nhà đầu tư định chế và các quỹ thay vì chỉ dựa vào việc cấp vốn từ các nhà đầu tư nhỏ, lẻ.

(ii) Sự phát triển của tiền ảo sử dụng công nghệ DLT để thực hiện thanh toán hoặc chuyển nhượng mà không cần có sự tham gia của ngân hàng truyền thống. Tuy nhiên, việc chấp nhận rộng rãi tiền ảo cho các mục đích giao dịch chung vẫn bị hạn chế bởi nhiều yếu tố, trong đó có sự biến động lớn về giá cả, giao dịch ẩn danh, kéo theo sự gia tăng nguy cơ rửa tiền và tài trợ khủng bố.

3. Các xu hướng phát triển sản phẩm, dịch vụ ngân hàng

Dưới tác động của chuyển đổi số và những xu hướng công nghệ của CMCN 4.0, các ngân hàng sẽ có thể lựa chọn một trong 04 kịch bản được đề cập tại mục 2 của bài viết để thích ứng với bối cảnh mới; theo đó, hoạt động ngân hàng và các sản phẩm, dịch vụ cũng sẽ thay đổi theo 07 xu hướng chính như sau:

Một là, thay đổi mô hình kinh doanh

Xu hướng phát triển mô hình ngân hàng số ngày càng rõ nét. Sự cạnh tranh từ tổ chức tài chính phi ngân hàng và những người tham gia mới như các công ty Fintech, đặc biệt là áp lực từ các công ty tài chính công nghệ (Techfins) đã tạo nên những thách thức đối với mô hình kinh doanh ngân hàng truyền thống và đại dịch Covid-19 càng đẩy nhanh tốc độ phát triển của xu hướng này. Theo báo cáo của Công ty Exton Consulting (2020), tính đến cuối năm 2020, trên toàn thế giới có khoảng 256 ngân hàng số, tăng gấp 4 lần so với năm 20184.

Các ngân hàng truyền thống cũng đều nỗ lực đẩy mạnh hoạt động số hóa trong ngân hàng. Tuy nhiên, các ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng có quy mô trung bình sẽ bị ảnh hưởng vì họ không thể có đủ chi phí đầu tư công nghệ thông tin - là yếu tố quan trọng trong môi trường mới. Để đầu tư vào hệ thống công nghệ nhằm đáp ứng việc chuyển đổi từ mô hình ngân hàng truyền thống sang mô hình ngân hàng số, các ngân hàng sẽ phải bỏ ra những khoản chi phí khổng lồ. Đặc biệt là hệ thống công nghệ ngân hàng vốn là một hệ thống phức tạp, cấu trúc lớn và đòi hỏi tính an toàn cao. Điều này có thể thúc đẩy các ngân hàng có quy mô nhỏ và trung bình thực hiện sáp nhập để đạt được quy mô lớn hơn.

Bên cạnh đó, sự phát triển của thế hệ người tiêu dùng 4.0 đòi hỏi các doanh nghiệp nói chung và các ngân hàng nói riêng phải chuyển đổi mô hình hoạt động của mình từ mô hình hướng nội (bán thứ mình có) sang mô hình hướng ngoại (bán thứ khách hàng cần), lấy khách hàng làm trung tâm cho các hoạt động của ngân hàng. Thế hệ người tiêu dùng 4.0 muốn có nhiều đầu mối tương tác trong khi vẫn đảm bảo tính nhất quán và dễ dàng khi sử dụng dịch vụ. Khảo sát của McKinsey & Company tại khu vực châu Á (2020) cho thấy 83% khách hàng sử dụng ít nhất 05 kênh khác nhau để nghiên cứu về sản phẩm/dịch vụ ngân hàng mới và khoảng 1,8 kênh để sử dụng sản phẩm/dịch vụ đã mua, khách hàng trẻ tuổi (từ 20 - 35) sử dụng nhiều kênh hơn khách hàng lớn tuổi (trên 55); khách hàng sử dụng nhiều kênh có xu hướng sử dụng nhiều sản phẩm dịch vụ hơn khách hàng sử dụng ít kênh. Do đó, các ngân hàng cần nghiên cứu và phát triển được các mô hình cung cấp dịch vụ kết hợp đa kênh, kết hợp cả kênh truyền thống và kênh hiện đại.

Hai là, thay đổi phương thức cạnh tranh

Việc giao dịch trực tuyến phổ biến qua ngân hàng đã khiến cho thị trường mục tiêu của ngân hàng cùng những lợi thế cạnh tranh không còn được xác định bởi sự hiện diện vật chất dưới hình thức chi nhánh hay phòng giao dịch, mà bằng sức mạnh công nghệ, giá thành và sự đa dạng, linh hoạt của các sản phẩm, dịch vụ. Đặc biệt, sự xuất hiện ngày càng nhiều mô hình cung ứng dịch vụ phi truyền thống (Fintech, Big Tech, công ty viễn thông...) với lợi thế công nghệ, ít bị kiểm soát, giám sát bởi các quy định an toàn hoạt động khiến áp lực cạnh tranh của các ngân hàng trong việc giữ chân khách hàng là không hề nhỏ.

Theo đó, các ngân hàng có thể thay đổi phương thức cạnh tranh theo 03 hướng chính: (i) Tăng cường đầu tư, ứng dụng công nghệ để tiết giảm chi phí, nâng cao năng suất; (ii) Khai thác tốt nền tảng khách hàng hiện có, tìm kiếm cơ hội tăng trưởng từ việc bán chéo sản phẩm; (iii) Phát triển và mở rộng tệp khách hàng mới thông qua các kênh cung ứng dịch vụ hiện đại...

Đặc biệt, trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng sâu sắc và giữa một hệ sinh thái dịch vụ bao quanh người dùng, các ngân hàng cần tạo lập cho mình “điểm khác biệt, không thể thay thế”. Chẳng hạn như ưu thế trong việc hiểu và duy trì niềm tin với khách hàng thông qua hệ thống cơ sở dữ liệu và các mô hình phân tích đã được xây dựng và hoàn chỉnh trong nhiều năm. Lợi thế về dữ liệu khách hàng cần được tận dụng một cách triệt để trên cơ sở các ngân hàng ý thức sâu sắc về tầm quan trọng của dữ liệu và nâng cao chất lượng của hoạt động quản trị quan hệ khách hàng dựa trên các giải pháp mới về dữ liệu lớn. Các ngân hàng cũng thường được xem là nhóm các doanh nghiệp có quy mô lớn nhất trong nền kinh tế, với nhiều đóng góp cho môi trường và xã hội trong nhiều năm, từ đó hình thành nên mối quan hệ bền chặt giữa ngân hàng và cộng đồng. Đặc biệt là các thế hệ tiêu dùng hiện nay, họ không ngừng nâng cao trách nhiệm xã hội, có nhu cầu khẳng định bản thân thông qua sự đóng góp và hỗ trợ cho sự phát triển của cộng đồng, bảo vệ môi trường sống. Những khách hàng này cũng có nhu cầu lựa chọn những nhà cung cấp dịch vụ có cùng tâm ý giống họ.

Ba là, phát triển kênh phân phối hiện đại, giảm mạng lưới vật lý

Sự xuất hiện của Smartphone đã thay đổi hoàn toàn cách con người giao tiếp và tương tác, kéo theo sự thay đổi trong kênh phân phối, mạng lưới bán hàng và cách thiết kế sản phẩm, dịch vụ của các ngân hàng. Kênh bán hàng qua Internet, Mobile Banking, Tablet Banking, mạng xã hội (Social media), phát triển ngân hàng số và giao dịch không giấy tờ đã, đang và sẽ tiếp tục là xu thế phát triển mạnh5.

Việc duy trì chi nhánh với chi phí cố định cao sẽ không còn phù hợp và các ngân hàng buộc phải nhanh chóng tái cơ cấu lại mạng lưới của mình, giảm số lượng chi nhánh và chỉ giữ lại những chi nhánh hiệu quả nhất với chi phí ít tốn kém nhất, đồng thời thử nghiệm những hình thức hiện diện mới. Hình thức chi nhánh sẽ được thay thế bằng các trung tâm thông tin, tư vấn, chuyên cung cấp dịch vụ giáo dục, tư vấn tài chính, nâng cao năng lực tự phục vụ cùng các dịch vụ cộng đồng khác, hoặc các ki-ốt thông minh cung cấp dịch vụ, bán hàng, dịch vụ tiền mặt và có thể kết nối qua video với các chuyên gia tư vấn. Nghiên cứu của Pricewaterhouse Coopers (PwC) năm 2020 thống kê cho thấy, ít nhất 20% các chi nhánh bị cắt giảm ở các thị trường dịch vụ ngân hàng đã phát triển rộng khắp như Mỹ và xu hướng này sẽ tiếp tục tăng.

Bốn là, phát triển sản phẩm, dịch vụ sáng tạo, tùy biến theo nhu cầu của khách hàng

Thế hệ người tiêu dùng 4.0 sẽ chiếm gần 40% dân số toàn cầu và đóng góp hơn 50% tổng mức tiêu dùng hằng năm trên toàn thế giới. Họ có những đặc tính khác biệt so với các thế hệ trước như: Thành thạo sử dụng các thiết bị công nghệ; coi trọng “trải nghiệm”; dựa nhiều vào những đánh giá từ cộng đồng trước khi mua sản phẩm; ưa thích mua sắm đa kênh; đề cao tính cá nhân hóa và lòng trung thành với thương hiệu thường không bền vững. Theo khảo sát của PwC (2020), 1/3 số người thế hệ Y tại Mỹ có thể thay đổi ngân hàng trong vòng 90 ngày và một tỷ lệ tương tự tin rằng họ thậm chí sẽ không cần ngân hàng trong tương lai.

Vì vậy, các ngân hàng cần cung ứng, thiết kế các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng với mức độ cá nhân hóa cao hơn, thông minh hơn, đem lại những trải nghiệm lớn hơn cho khách hàng.

Trên thực tế, các công nghệ như AI, ML, phân tích khách hàng... đang được các ngân hàng và định chế tài chính sử dụng nhiều hơn trong thiết kế sản phẩm, dịch vụ, đặc biệt là với các sản phẩm, dịch vụ cần tính cá nhân hóa cao. Nhiều ngân hàng tại Mỹ thử nghiệm tư vấn khách hàng dựa trên AI và công nghệ này đảm nhiệm hoàn toàn từ khâu hướng dẫn sản phẩm, lịch sử cuộc gọi, hướng dẫn chính sách và quy trình, hơn nữa còn cung cấp dịch vụ dựa trên hoàn cảnh, đặc điểm cụ thể của từng khách hàng. Theo đó, các ngân hàng nhanh nhạy ngoài việc đảm bảo duy trì tính liên tục, tức thời của các giao dịch, sản phẩm, dịch vụ, cần phát triển những hình thức tương tác mới có khả năng hòa nhập với cuộc sống của khách hàng. Thông tin sẽ được thu thập một cách thông minh từ dữ liệu về thói quen, lựa chọn và sở thích của khách hàng.

Ngân hàng HDFC của Ấn Độ thuê ngoài toàn bộ cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin ngân hàng của mình (toàn bộ hệ thống phần mềm quản lý điều hành (hệ điều hành, software), Core Banking, hệ thống máy chủ (servers), hệ thống thiết bị ngoại vi (desktop devices), hệ thống lưu trữ dữ liệu, hệ thống hạ tầng mạng lưới viễn thông). Các hoạt động nâng cấp cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin ngân hàng và phát triển các phần mềm tương thích, phù hợp với hoạt động ngân hàng của HDFC cũng được thuê ngoài. Vì vậy, khác với các ngân hàng khác, HDFC không có bất kỳ nhân viên nào liên quan đến hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin ngân hàng. Việc lựa chọn thuê công ty công nghệ ngân hàng chuyên biệt (Aegis BPO) đã giúp HDFC không chỉ cung ứng những dịch vụ/sản phẩm ngân hàng tốt hơn đến khách hàng mà còn giảm chi phí quản lý, đầu tư vào công nghệ, giúp tăng cường hiệu quả quản lý chi phí hoạt động.

Năm là, ứng dụng rộng rãi sinh trắc học (vân tay, nhận diện giọng nói) trong phê chuẩn và xác thực giao dịch

Công nghệ sinh trắc học sẽ trở nên phổ biến trong việc xác thực khách hàng, nhưng chúng vẫn sẽ được sử dụng kèm theo một thiết bị vật lý khác cầm tay Smartphone. Dữ liệu sinh trắc vốn là duy nhất và không thay đổi nhưng vẫn có thể được chụp và sao chép lại. Do đó, để đảm bảo tính bảo mật, vẫn sẽ có thêm yếu tố hỗ trợ bổ sung (như vân tay và điện thoại của cá nhân) để nhận diện cùng với sinh trắc học khi thực hiện việc phê duyệt hoặc cấp phép thanh toán.

Sáu là, xây dựng hệ sinh thái kết nối với các liên minh và đối tác trong hoàn thiện cơ sở hạ tầng công nghệ và phát triển sản phẩm, dịch vụ

Một số ngân hàng với quy mô lớn sẽ có xu hướng thuê ngoài toàn bộ hoặc một phần việc vận hành hệ thống công nghệ của mình và trở thành nhà cung cấp dịch vụ cho các ngân hàng khác. Từng nhóm ngân hàng có thể hợp tác với nhau để tận dụng lợi thế kinh tế nhờ quy mô, đồng thời tìm ra các phương thức tốt nhất liên kết các cơ sở hạ tầng của họ dưới hình thức liên doanh (như việc tận dụng mạng lưới ATM và POS sẵn có của các ngân hàng trong cùng hệ thống thay vì lắp mới). Một số ngân hàng cũng có xu hướng gia tăng thiết lập hoặc tham gia vào một mạng lưới các công ty đối tác để hình thành một hệ sinh thái dịch vụ. Rõ nét nhất là sự kết hợp của các NHTM với các công ty Fintech, hệ thống các tập đoàn bán lẻ. Các nhà cung cấp dịch vụ hạ tầng công nghệ sẽ tiếp tục mở rộng đáng kể phạm vi dịch vụ mà họ cung cấp bao gồm cả việc xác thực khách hàng, kiểm tra gian lận, xử lý thanh toán, tài khoản và định danh khách hàng (KYC)...

Bảy là, tăng cường an ninh, an toàn bảo mật

Sự phát triển ngày càng sâu rộng của công nghệ số kéo theo sự gia tăng lỗ hổng bảo mật, tạo điều kiện cho sự gia tăng tội phạm công nghệ cao và tin tặc (hackers). Theo hãng Kaspersky Lab (2020), Việt Nam đứng thứ 2 trong nhóm đối tượng nhận thư rác mang tính độc hại với tỷ lệ 6%, trong đó, ngành Ngân hàng đang là mục tiêu số một của tội phạm công nghệ. Đặc biệt, khi hệ thống máy tính ứng dụng nghiệp vụ và thiết bị di động người dùng ngày càng kết nối, tăng tương tác theo thời gian thực thì mức độ, quy mô rủi ro ngày càng lớn. Bên cạnh đó, việc ứng dụng các giải pháp công nghệ mới như Open API, định danh khách hàng điện tử (eKYC), Cloud Computing... hay hợp tác giữa ngân hàng và Fintech tạo ra nhiều rủi ro về an ninh thông tin liên quan đến bí mật, tính riêng tư của thông tin cá nhân khách hàng, các nguy cơ truy cập bất hợp pháp. Theo đó, khi ứng dụng các giải pháp công nghệ vào hoạt động, các ngân hàng cần đảm bảo xây dựng môi trường kiểm soát và áp dụng các quy trình quản lý rủi ro đầy đủ và toàn diện. Sự an toàn, lành mạnh và ổn định của ngân hàng có thể được tăng cường bằng cách thực hiện các chương trình giám sát để đảm bảo rằng ngân hàng có cơ cấu quản trị hiệu quả, cùng các quy trình quản lý rủi ro rõ ràng, qua đó quản lý và giám sát một cách thích hợp những rủi ro phát sinh liên quan đến ứng dụng công nghệ.

Liên quan đến rủi ro bên thứ ba, các ngân hàng cần áp dụng những thông lệ quản lý rủi ro phù hợp và xử lý mọi hoạt động được thuê ngoài hoặc hỗ trợ bởi bên thứ ba, bao gồm cả các công ty Fintech, và các biện pháp kiểm soát đối với các dịch vụ thuê ngoài được duy trì theo cùng tiêu chuẩn như các hoạt động mà ngân hàng tự tiến hành. Các quy trình và thực tiễn liên quan bao gồm thẩm định, quản lý rủi ro hoạt động, giám sát liên tục việc thực hiện hợp đồng của các nhà cung cấp dịch vụ bên thứ ba và quyền kiểm toán.

4. Kết luận

Sự phát triển, quá trình chuyển đổi số và những tiến bộ của công nghệ từ cuộc CMCN 4.0 đã và đang có những tác động không nhỏ tới lĩnh vực tài chính, ngân hàng, đặc biệt là sự phát triển sản phẩm, dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam. Nhờ sự hỗ trợ của công nghệ, cách thức tiếp cận các nguồn vốn tín dụng trở nên đơn giản hơn với chi phí thấp hơn; dòng vốn dịch chuyển giữa các khu vực địa lý từ phạm vi trong một quốc gia tới giữa các quốc gia, giữa các châu lục dễ dàng hơn. Đối với hoạt động thanh toán, các giải pháp sáng tạo đang thay đổi nhanh chóng giữa người tiêu dùng tham gia vào các giao dịch tài chính, giúp giao dịch giữa các cá nhân (đôi khi là giữa các nền kinh tế) trở nên dễ dàng hơn, nhanh hơn và rẻ hơn so với trước đây. Xuất hiện thêm những hình thức cho vay và huy động vốn mới như P2P Lending, gọi vốn cộng đồng (crowdfunding). Các hoạt động tài chính, ngân hàng khác như đầu tư, tư vấn cũng được tự động hóa và ứng dụng phân tích Big Data để phân tích hành vi khách hàng, đưa ra quyết định nhanh và hiệu quả.

Trong những làn sóng công nghệ tràn qua ngành Ngân hàng, làn sóng công nghệ đầu tiên tập trung vào việc tối ưu hóa các sản phẩm và dịch vụ hiện hành; làn sóng tiếp theo chú trọng tới việc tăng cường thu thập và phân tích dữ liệu để cải thiện dịch vụ khách hàng hiện có. Những tiến bộ trong bảo mật và xác thực cho phép thực hiện hiệu quả tất cả các phương thức bán hàng, giao hàng có thể tiến hành trực tuyến. Công nghệ giúp khách hàng dễ dàng hơn trong việc rời bỏ ngân hàng này để chuyển sang ngân hàng khác, khiến cho mối quan hệ gắn bó giữa khách hàng và ngân hàng trở nên lỏng lẻo hơn. Điều này sẽ thúc đẩy làn sóng thứ ba: Các ngân hàng và đối tác của họ sẽ cùng tạo lập và phát triển những hồ sơ chi tiết về mỗi khách hàng của mình dựa trên Big Data. Sự đổi mới sẽ còn tiếp tục tăng tốc và các ngân hàng đi đầu sẽ là ngân hàng tận dụng được tối đa sự đổi mới này để có được lợi thế cạnh tranh trong công cuộc chuyển đổi số, bứt phá thành công trên thị trường dịch vụ tài chính, ngân hàng đầy sôi động.

1 Klaus Schwab (2016), The Fourth Industrial Revolution, World Economic Forum.

2 Theo Diễn đàn Kinh tế thế giới 2016, 09 lĩnh vực này bao gồm: (i) Bán lẻ; (ii) Các nhà máy sản xuất; (iii) Ngành công nghiệp sản xuất phương tiện vận chuyển; (iv) Nhà ở; (v) Văn phòng; (vi) Nơi làm việc; (vii) Các thành phố; (viii) Môi trường sống; (ix) Yêu cầu về năng lực của nguồn nhân lực - một yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. 3 Phần mềm dịch vụ SaaS (Software-as-a-Service) là một dạng phần mềm chạy trên nền Web có thể truy cập từ xa (như máy tính, Smartphone...), cho phép người dùng mua dịch vụ và sử dụng mà không cần phải duy trì một bộ phận công nghệ thông tin. Thường gặp nhất là Hệ thống quản lý quan hệ khách hàng (Customer Relationship Management, CRM), hệ thống Email Marketing, hệ thống quản trị nội dung (Content Management System, CMS), hệ thống HelpDesk,... Thông thường những dịch vụ này sẽ được “nằm trên mây” (on the Cloud), tức là đưa vận hành và lưu trữ tập trung một cách trực tiếp từ Cloud Computing. 4 Exton Consulting (2021), Neobanks 2021 - Shifting from Growth to Profitability?, https://extonconsulting.com/wp-content/uploads/2021/01/Report-Neobanks-2021.pdf 5 Theo báo cáo, Mobile Banking được thực hiện bởi KPMG tháng 7/2021, Mobile Banking đang là xu thế bùng nổ nhất và là kênh lớn nhất, chiếm khối lượng giao dịch nhiều nhất. Ngày càng có nhiều khách hàng chuyển sang sử dụng máy tính, máy tính bảng, điện thoại thông minh để tiến hàng các giao dịch ngân hàng. Internet và Cloud Computing là xu hướng để giao dịch dễ dàng.

1. Klaus Schwab 2016: The Fourth Industrial Revolution, 2016.

2. Larry Hatheway, Mastering the Fourth Industrial Revolution, Project Syndicate, 2016.

3. Hermann, Pentek, Otto, 2015: Design Principles for Industrie 4.0 Scenarios, 2015.

4. Mike Gault, Forget Bitcoin - What Is the Blockchain and Why Should You Care?, 2015.

5. Deloitte, Industry 4.0 - Only One-Tenth of Germany’s High-Tech Strategy, 2015.

6. Roland Berger, Think Act Industry 4.0, 2014.

7. Bill Lydon, Industry 4.0 - Only One-Tenth of Germany’s High-Tech Strategy, 2014.

8. Brett King: Bank 3.0, 2014.

9. PwC 2016, Blurred lines: How Fintech is shaping financial services, Global Fintech Report.

10. Zetzsche, Dirk A., Ross P. Buckley, Douglas W. Arner and Janos Nathan Barberis. 2017. “Regulating a Revolution: From Regulatory Sandboxes to Smart Regulation”. Fordham Journal of Corporate and Financial Law, Forthcoming; European Banking Institute Working Paper Series 2017 - No. 11.