Ngân hàng trung ương la ngân hàng của các ngân hàng vị

Ngân hàng trung ương [Central Bank] là thuật ngữ được sử dụng ngân hàng đầu não của mỗi quốc gia, là ngân hàng độc quyền phát và thực hiện các chức năng quản lí nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.

Hình minh họa. Nguồn: Vietnamfinance

Khái niệm

Ngân hàng trung ương trong tiếng Anh gọi là Central Bank.

Căn cứ theo hình thức pháp lí, qui định về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam:

"1.Ngân hàng Nhà nước Việt Nam [sau đây gọi là Ngân hàng Nhà nước] là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng trung ương của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

2. Ngân hàng Nhà nước là pháp nhân, có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước, có trụ sở chính tại Thủ đô Hà Nội.

3. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lí nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối [sau đây gọi là tiền tệ và ngân hàng]; thực hiện chức năng của Ngân hàng trung ương về phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ". [Theo Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 46/2010/QH12]

Chức năng của Ngân hàng trung ương

Chức năng phát hành tiền

Ngân hàng trung ương là cơ quan độc quyền phát hành tiền mặt [gồm tiền giấy và tiền kim loại]. Thông qua chức năng này, ngân hàng trung ương có thể tác động và ảnh hưởng đến tình hình tiền tệ quốc gia, từ đó ảnh hưởng đến các yếu tố vĩ mô của nền kinh tế.

Ngân hàng trung ương cung ứng tiền vào lưu thông qua bốn kênh:

- Kênh tín dụng đối với chính phủ

Phát hành tiền qua kênh tín dụng đối với chính phủ hay còn gọi là kênh ngân sách nhà nước. Thông thường, ngân sách nhà nước rơi vào trạng thái sau: ngân sách nhà nước cân bằng, ngân sách nhà [thặng dư], ngân sách nhà nước bội chi [thâm hụt].

Phát hành tiền qua kênh tín dụng đối với chính phủ không chỉ đáp ứng trong trường hợp để xử lý bội chi trong ngân sách nhà nước mà còn cung ứng vốn trong ngân sách nhà nước theo từng đợt phát hành trái phiếu chính phủ.

- Kênh tín dụng đối với hệ thống ngân hàng trung gian

Ngân hàng trung ương có thể cho vay đối với các ngân hàng trung gian với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng hoặc với tư cách là ngân hàng điều tiết.

Ngân hàng trung ương cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian dưới các hình thức: Cho vay tái cấp vốn và cho vay thanh toán.

- Kênh thị trường mở

Ngân hàng trung ương tổ chức và thực hiện mua bán ngắn hạn các giấy tờ có giá với các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng trên thị trường mở.

- Kênh thị trường ngoại hối:

Ngân hàng trung ương với tư cách là cơ quan quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước phải can thiệp vào thị trường ngoại hối khi cần thiết và không vì mục đích lợi nhuận. Khi cung cầu ngoại hối mất cân đối thì ngân hàng trung ương can thiệp với tư cách là người mua, người bán trên thị trường.

Chức năng ngân hàng của các ngân hàng

- Mở tài khoản, nhận tiền gửi và quản lí các khoản tiền gửi của các ngân hàng trung gian.

- Trung gian thanh toán giữa các ngân hàng trung gian.

- Cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian.

Chức năng ngân hàng của Nhà nước: Làm đại lí cho chính phủ trong việc phát hành trái phiếu chính phủ cũng như thanh toán các tiền gốc và lãi trái phiếu; mở tài khoản và giao dịch với hệ thống kho bạc Nhà nước; thực hiện thanh toán theo yêu cầu của chính phủ; cấp tín dụng cho chính phủ khi cần thiết,...

Chức năng quản lí nhà nước về tiền tệ và các hoạt động ngân hàng

- Quản lí hoạt động của toàn bộ hệ thống ngân hàng: Ngân hàng trung ương thực hiện quản lí nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng nhằm đảm bảo an toàn và hiệu quả cho hoạt động của hệ thống ngân hàng.

- Thực hiện quản lí vĩ mô đối với nền kinh tế trên lĩnh vực tiền tệ ngân hàng: Nhằm các mục tiêu ổn định tiền tệ, tăng trưởng kinh tế và hạn chế thất nghiệp.

[Tài liệu tham khảo: Giáo trình Thị trường tài chính và các đinh chế tài chính, NXB Kinh tế TP. Hồ Chí Minh].

Thanh Hoa

Loading Preview

Sorry, preview is currently unavailable. You can download the paper by clicking the button above.

Ngân hàng trung ương – trong tiếng Anh được biểu thị bằng thuật ngữ “central bank” – là một tổ chức tài chính được trao cho đặc quyền kiểm soát việc phát hành và phân phối dòng tiền cũng như tín dụng cho một quốc gia hoặc một nhóm quốc gia. Trong các nền kinh tế hiện đại, ngân hàng trung ương thường chịu trách nhiệm hoạch định chính sách tiền tệ và điều tiết các ngân hàng thành viên.

Tìm hiểu về ngân hàng trung ương

Các ngân hàng trung ương xét về bản chất đều là các tổ chức phi thị trường hoặc thậm chí có thể liệt kê vào nhóm tổ chức chống cạnh tranh. Mặc dù một số ngân hàng đã được quốc hữu hóa, tuy nhiên vẫn có rất nhiều ngân hàng trung ương không phải là cơ quan chính phủ, và vì vậy thường được biết đến là có sự độc lập về mặt chính trị. Tuy nhiên, ngay cả khi một ngân hàng trung ương không thuộc sở hữu hợp pháp của chính phủ, thì các đặc quyền của ngân hàng đó vẫn được pháp luật thiết lập và bảo vệ.

Đặc điểm quan trọng của ngân hàng trung ương – đặc điểm này giúp phân biệt ngân hàng trung ương với các ngân hàng khác – đó là tư cách độc quyền hợp pháp, cho phép ngân hàng trung ương có đặc quyền phát hành tiền mặt. Các ngân hàng thương mại tư nhân chỉ được phép phát hành các khoản nợ không kỳ hạn, chẳng hạn như tiền gửi hay chi phiếu.

1.2. Trách nhiệm của các ngân hàng trung ương

Có thể nói trách nhiệm của các ngân hàng trung ương rất đa dạng, tùy thuộc vào thể chế và tình hình kinh tế – tài chính của mỗi quốc gia. Tuy nhiên nhìn chung thì ngân hàng trung ương thường thực hiện các nhiệm vụ chính sau đây.

Trách nhiệm của các ngân hàng trung ương

Ngân hàng trung ương thực hiện việc kiểm soát và điều phối nguồn cung tiền tệ của một quốc gia thông qua cách phát hành tiền tệ và ấn định lãi suất cho các khoản vay và trái phiếu. Điển hình là các ngân hàng trung ương tăng lãi suất để làm chậm tốc độ tăng trưởng và phòng ngừa lạm phát; hay họ hạ thấp lãi suất để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, các hoạt động công nghiệp và chi tiêu của người tiêu dùng. Bằng cách này, họ quản lý chính sách tiền tệ để định hướng nền kinh tế đất nước và đạt được các mục tiêu kinh tế.

1.2.2. Quản lý các ngân hàng tư nhân

Các ngân hàng trung ương thực hiện công tác quản lý các ngân hàng thành viên thông qua các quy định hay yêu cầu về vốn, yêu cầu nguồn tiền dự trữ [cụ thể hơn là quy định ngân hàng có thể cho khách hàng vay bao nhiêu và họ phải giữ bao nhiêu tiền mặt], và giám sát những vấn đề xoay quanh tiền gửi cùng các công cụ khác.

Ngân hàng trung ương quản lý các ngân hàng tư nhân khác

Ngân hàng trung ương cũng đóng vai trò là “người chủ” cho vay khẩn cấp đối với các ngân hàng thương mại đang gặp khó khăn và các tổ chức khác, và đôi khi là cả chính phủ.

Các nguyên mẫu đầu tiên cho các ngân hàng trung ương hiện đại là Ngân hàng Anh và Ngân hàng Risks của Thụy Điển. Những ngân hàng này đã xuất hiện từ thế kỷ 17.

Ngân hàng Trung ương Anh là đơn vị đầu tiên chính thức thừa nhận sẽ cung cấp các khoản vay như là phương án cứu cánh cuối cùng cho các ngân hàng tư nhân nhỏ hơn và kể cả chính phủ. Các ngân hàng trung ương ban đầu khác, đặc biệt là Ngân hàng Napoleon của Pháp và Ngân hàng Reichsbank của Đức, lại được thành lập với mục đích tài trợ cho các hoạt động quân sự tốn kém của chính phủ.

Với mục đích ban đầu được thành lập là để tạo điều kiện dễ dàng hơn cho các chính phủ liên bang phát triển, gây chiến và phục vụ chi những lợi ích ích kỷ của họ, mô hình ngân hàng trung ương đã được thực sự được đón nhận ở các quốc gia khác, đặc biệt là Hoa Kỳ. Tuy vậy không thể phủ nhận được vai trò quan trọng và sự cần thiết của các ngân hàng trung ương.

Ngân hàng trung ương ban đầu ra đời vì mục đích chiến tranh

Đạo luật Ngân hàng Quốc gia năm 1863 đã tạo điều kiện để thành lập một mạng lưới các ngân hàng quốc gia và một đơn vị tiền tệ thống nhất. Ở thời kỳ đó New York được chọn là thành phố dự trữ trung tâm. Hoa Kỳ sau đó đã trải qua một loạt các cuộc khủng hoảng ngân hàng vào các năm 1873, 1884, 1893 và 1907. Để đối phó với những cơn khủng hoảng này, vào năm 1913, Quốc hội Hoa Kỳ đã thành lập Hệ thống Dự trữ Liên bang và 12 Ngân hàng Dự trữ Liên bang khu vực trên khắp đất nước để ổn định hoạt động tài chính và hoạt động ngân hàng.

Trong khoảng thời gian từ năm 1870 đến năm 1914, khi tiền tệ thế giới được gắn với chế độ bản vị vàng, việc duy trì sự ổn định giá cả dễ dàng hơn rất nhiều vì số lượng vàng sẵn có là có hạn. Do đó, việc phát hành thêm tiền tệ không thể được quyết định một cách đơn giản bởi một quyết định chính trị. Vì vậy mà vấn đề lạm phát đã trở nên dễ kiểm soát hơn. Ngân hàng trung ương vào thời điểm đó chịu trách nhiệm chính trong việc duy trì khả năng chuyển đổi vàng thành tiền tệ và phát hành tiền mặt dựa trên nguồn dự trữ vàng của quốc gia.

Ngân hàng trung ương giúp bình ổn lạm phát

Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, chế độ bản vị vàng đã bị loại bỏ, và rõ ràng là trong thời kỳ khủng hoảng, chính phủ các nước phải đối mặt với vấn đề thâm hụt ngân sách [do tốn kém tiền bạc để tiến hành chiến tranh] và cần nhiều nguồn lực hơn. Bởi vậy họ sẽ ra lệnh in nhiều tiền hơn. Khi chính phủ các nước làm như vậy, hệ quả tất yếu mà họ gặp phải đó là lạm phát. Sau chiến tranh, nhiều chính phủ đã lựa chọn quay trở lại chế độ bản vị vàng để cố gắng ổn định nền kinh tế của họ. Chính điều này đã nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của sự độc lập của ngân hàng trung ương khỏi bất kỳ đảng phái chính trị hoặc cơ quan quản lý nào.

Trong cuộc Đại suy thoái vào những năm 1930 và hậu quả của Thế chiến thứ hai, chính phủ nhiều nước trên thế giới chủ yếu ủng hộ việc đưa ngân hàng trung ương quay trở lại phụ thuộc vào chính phủ. Quan điểm này chủ yếu xuất phát từ nhu cầu thiết lập quyền kiểm soát đối với các nền kinh tế bị tàn phá bởi chiến tranh; hơn nữa, các quốc gia mới độc lập đã chọn giữ quyền kiểm soát đối với tất cả các khía cạnh của quốc gia họ.

Ngân hàng trung ương cần độc lập khỏi mọi vấn đề chính trị

Sự trỗi dậy của các nền kinh tế các quốc gia “được quản lý” ở phương Đông cũng là một nguyên nhân làm gia tăng tham vọng can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, cuối cùng, sự độc lập của ngân hàng trung ương khỏi chính phủ đã trở đạt được địa vị vững chắc ở các nền kinh tế phương Tây và đã trở thành cách tối ưu nhất để đạt được một chế độ kinh tế tự do và ổn định.

Như vậy bạn đã hiểu được khái niệm ngân hàng trung ương là gì và những vai trò quan trọng của ngân hàng trung ương đối với nền kinh tế của một đất nước. Ngân hàng trung ương có thể được ví như “ngân hàng của các ngân hàng”. Đối với nền kinh tế của một đất nước, ngân hàng trung ương luôn đóng một vai trò rất quan trọng, đặc biệt là trong quá trình tăng trưởng kinh tế.

Tài trợ thương mại là hoạt động được các ngân hàng triển khai với mục đích ổn định tài chính trong quốc gia, làm an lòng hệ thống ngân hàng thương mại quốc tế. Dịch vụ tài trợ thương mại không quá nổi trội như các dịch vụ thẻ, tài khoản nhưng doanh thu từ dịch vụ này vẫn chiếm tỷ trọng đáng kể trong các hoạt động của các ngân hàng hiện nay. Cùng tìm hiểu thêm về tài trợ thương mại qua bài viết sau đây nhé!

Tài trợ thương mại là gì

Video liên quan

Chủ Đề