Nội dung thứ hai của Hiệp định Sơ bộ ngày mừng 6 tháng 3 năm 1946 mà Chính phủ ta kí với Pháp là gì

Được đăng: Thứ năm, 15 Tháng 3 2018 09:03 Lượt xem: 3174

[TGAG]- Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, cùng một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta ngay từ những ngày đầu tiên đã xác định: “Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng. Cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn, nó chưa hoàn thành, vì nước chưa được hoàn toàn độc lập”; nhận diện một cách chính xác kẻ thù số một lúc bấy giờ vẫn “là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”. Bên cạnh giặc ngoại xâm, giặc “nội xâm” tiếp tục hoành hành, gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, trên nguyên tắc giữ vững chủ quyền và độc lập dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã có những sách lược khôn khéo, phân hóa cao độ kẻ thù, tạm thời hòa hoãn với quân Tưởng Giới Thạch để giữ vững chính quyền, tạo điều kiện đối phó với quân Pháp ở miền Nam.Sau hơn 6 tháng tích cực đấu tranh bảo vệ nền độc lập, tự do quý báu vừa mới giành được, đất nước lại đứng trước những thử thách và sự lựa chọn mới. Ngày 28/2/1946, Hiệp ước Pháp - Hoa được ký kết tại Trùng Khánh. Việc thực dân Pháp, chính quyền Tưởng mặc cả, mua bán với nhau về quyền lợi của Việt Nam, chà đạp thô bạo chủ quyền độc lập của Việt Nam đã làm cho lòng căm thù ngoại xâm và ý chí quyết tâm bảo vệ nền độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam lên đến cực điểm. Hiệp ước Pháp - Hoa cũng đặt ra cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sự lựa chọn “khắc nghiệt”, hoặc cầm vũ khí chiến đấu chống thực dân Pháp, không cho chúng đổ bộ lên miền Bắc, hoặc hòa hoãn, nhân nhượng với chúng để tránh tình trạng cùng một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù và tranh thủ được thời gian tiếp tục củng cố và phát triển lực lượng cách mạng. Ở thời điểm ấy, nếu cầm vũ khí chiến đấu chống lại quân Pháp, chúng ta có nguy cơ phải đối đầu với 20 vạn quân Tưởng còn hiện diện ở miền Bắc, trong khi thế và lực của ta còn non yếu. Đứng trước tình thế gay go, quyết liệt, đòi hỏi những hành động tỉnh táo, đúng đắn, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã ra quyết sách lịch sử, sáng suốt: Hòa để tiến, quyết định hòa với Pháp để đuổi Tưởng về nước. Sau những cuộc thương lượng và nhân nhượng có nguyên tắc, chiều ngày 6/3/1946, lễ ký kết Hiệp định Sơ bộ Pháp - Việt đã diễn ra tại nhà số 38, phố Lý Thái Tổ, thủ đô Hà Nội. Theo đó, nước Pháp phải công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do, có chính phủ, quốc hội, quân đội và tài chính riêng, nằm trong liên bang Đông Dương thuộc khối Liên hiệp Pháp và cam đoan thừa nhận kết quả trưng cầu dân ý về vấn đề thống nhất ba kỳ [Bắc, Trung, Nam]. Đổi lại, Việt Nam đồng ý để Pháp đưa 15.000 quân vào miền Bắc [thay thế quân Tưởng] và sẽ rút hết sau 5 năm. Lúc đó, hai bên đình chiến để mở cuộc đàm phán chính thức; trong khi đàm phán, quân đội hai bên giữ nguyên vị trí. Đây là quyết định về sách lược đúng đắn, sáng tạo theo phương châm “hòa để tiến” của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhằm phân hóa, loại bỏ bớt kẻ thù để tập trung vào đối tượng chủ yếu trong tình thế tương quan lực lượng không có lợi cho ta.Hiệp định Sơ bộ đã tạo cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh ngoại giao của Nhà nước Việt Nam trên trường quốc tế. Bên cạnh đó, Hiệp định Sơ bộ Việt - Pháp đã biến thỏa thuận tay đôi Pháp - Hoa thành thỏa thuận tay ba Việt - Pháp - Hoa, kết thúc vai trò của lực lượng Tưởng Giới Thạch về mặt pháp lý theo quyết định của các nước lớn Đồng minh tại Hội nghị Potsdam. Việc đẩy quân đội Tưởng ra khỏi Việt Nam đã làm thay đổi tương quan lực lượng có lợi cho cách mạng nước ta. Có thể nói rằng, mềm dẻo trong sách lược, cứng rắn trên nguyên tắc, Hiệp định Sơ bộ là bước đi cần thiết, hy sinh không gian để tranh thủ thời gian củng cố thực lực một cách toàn diện để đối phó với kẻ thù chính là thực dân Pháp. Trên thực tế, khi Hiệp định Sơ bộ được ký kết, trong Đảng và trong nhân dân cũng có rất nhiều thắc mắc, “cho đó là chính sách quá hữu”, song thực tiễn đã chứng minh rằng, chúng ta cần hòa bình để xây dựng nước nhà, cho nên chúng ta đã ép lòng mà nhân nhượng để giữ hòa bình. Dù thực dân Pháp đã bội ước, đã gây chiến tranh, nhưng gần một năm tạm hòa bình đã cho chúng ta thời gian để xây dựng lực lượng căn bản, chuẩn bị sẵn sàng mọi mặt cho cuộc kháng chiến. Hiệp định Sơ bộ là một mẫu mực về sự thỏa hiệp có nguyên tắc để phá thế bế tắc, vượt qua khó khăn, lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước lớn với nhau, cũng như mâu thuẫn nội bộ của mỗi lực lượng có mặt tại Việt Nam; từ đó, tạo điều kiện đạt tới mục tiêu đã định, hướng tới độc lập, tự do, thống nhất. Trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, linh hoạt trong đấu tranh, chủ động kiên quyết và khôn khéo, nhân nhượng có nguyên tắc thể hiện sinh động qua Hiệp định Sơ bộ đã cho phép chúng ta trong những thời điểm nguy nan của đất nước biến nghịch thành thuận, biến những khả năng mỏng manh thành hiện thực có lợi cho cách mạng. Cùng với những giá trị về lịch sử, Hiệp định Sơ bộ cũng để lại những giá trị hiện thực sâu sắc. Đó chính là quan điểm giữ vững nguyên tắc chiến lược, linh hoạt về sách lược trong đấu tranh, đã và đang được Đảng ta vận dụng có hiệu quả trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hiện nay, với chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, Đảng ta xác định rõ nguyên tắc chiến lược mang tính bao trùm là giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong một thế giới đang biến đổi sâu sắc, đặt ra nhiều vấn đề cấp bách, phức tạp, Đảng đã chủ động điều chỉnh sách lược cho phù hợp với mục tiêu và yêu cầu hội nhập; nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế, tận dụng thời cơ, thúc đẩy hợp tác kết hợp với đấu tranh một cách hài hòa, linh hoạt để bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; đồng thời, tránh đối đầu và rơi vào thế cô lập. Giữ vững độc lập, tự chủ, thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại... góp phần nâng tầm vị thế quốc gia trên trường quốc tế. Đó cũng chính là sự vận dụng sâu sắc bài học kinh nghiệm từ việc ký kết Hiệp định Sơ bộ của 72 năm về trước.

LÊ HOÀI TRƯỜNG

12:28, 06/04/2011

Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời. Nhà nước cộng hòa non trẻ còn trong trứng nước đã lập tức phải đối mặt với bao khó khăn, gian lao thử thách. Tưởng Giới Thạch đã hoàn thành kế hoạch “Hoa quân nhập Việt”. Quân đội Tưởng rất ô hợp [kéo theo cả gia đình vì đói] thường cướp bóc, gây rối, bày mưu cho bọn tay sai chống phá chính quyền ta. Bên cạnh đó, thực dân Pháp cũng chuẩn bị tiến ra Bắc nhưng với lực lượng hiện có, trong khi chưa bình định xong Nam Bộ, nếu đưa quân ra Bắc, chúng không thể đạt mục đích và sẽ vấp phải lực lượng kháng chiến lớn mạnh gấp bội. Pháp đã dùng thủ đoạn chính trị: điều đình với Tưởng để thay thế Tưởng chiếm đóng miền Bắc. Tưởng và Pháp đã thỏa hiệp, ký kết bản hiệp ước Hoa - Pháp để trao đổi quyền lợi. Hiệp ước Hoa - Pháp buộc ta phải chọn một trong hai con đường: hoặc là chống Pháp ngay khi chúng ra Bắc; hoặc chủ động đàm phán với Pháp, tạm hòa với chúng để nhanh chóng gạt Tưởng về nuớc và tranh thủ thời gian chuẩn bị lực lượng. Ta đã chọn giải pháp thứ hai. Đó là lí do của sự ra đời Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946.

Hiệp định Sơ bộ 6-3 có nội dung chính như sau: Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa là một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng, nằm trong khối Liên hiệp Pháp. Còn Chính phủ Việt Nam thỏa thuận cho 15.000 quân Pháp vào miền Bắc thay Tưởng, rút dần trong 5 năm. Hai bên ngừng bắn ở Nam Bộ, tạo không khí thuận lợi để đàm phán chính thức tại Pari. Phát biểu tại buổi ký kết Hiệp định, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Chúng tôi không thỏa mãn vì chưa giành được hoàn toàn độc lập, nhưng chúng tôi sẽ giành được độc lập hoàn toàn”.  Có thể nói, Hiệp định Sơ bộ 6-3 có một ý nghĩa chính trị hết sức to lớn đúng như lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nước ta đã độc lập thực sự từ tháng Tám năm 1945. Nhưng tới nay chưa một cường quốc nào công nhận nền độc lập của ta. Cuộc điều đình với nước Pháp sẽ mở ra con đường làm cho quốc tế thừa nhận ta. Nó sẽ dẫn ta đến một vị trí ngày càng chắc chắn trên trường quốc tế. Đó là một thắng lợi về mặt chính trị…”. Tối ngày 6-3-1946, Bác cùng Bộ trưởng Võ Nguyên Giáp báo cáo với Chính phủ Liên hiệp về việc ký Hiệp định Sơ bộ và chiều 7-3, ta tổ chức lễ mít tinh rầm rộ tại Quảng trường Nhà hát Thành phố Hà Nội. Tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định trước quốc dân đồng bào: “Mục tiêu cuối cùng của chúng ta là độc lập, thống nhất, cuộc đấu tranh còn gian khổ, kéo dài... Chúng ta phải tin vào Chính phủ, phải đoàn kết tiếp tục chiến đấu. Riêng tôi, tôi hứa với đồng bào, Hồ Chí Minh nhất định không bao giờ bán nước”.

Ngày 6-3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh chụp ảnh cùng các thành viên Việt - Pháp tham gia ký Hiệp định Sơ bộ. [Ảnh: T.L]
Có thể nói, vào thời điểm đó, sẽ không có một giải pháp nào thích hợp hơn. Ngoài ý nghĩa chính trị về mặt lâu dài thì với Hiệp định Sơ bộ này, trước mắt ta đã loại bỏ được gần 20 vạn quân Tưởng ra khỏi miền Bắc, kéo theo đó là bè lũ “theo đóm ăn tàn”, bọn tay sai bán nước để chúng ta rảnh tay đối phó với thực dân Pháp. Sau ba ngày ký Hiệp định, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra chỉ thị “Hòa để tiến”, nêu rõ lý do cần hòa với Pháp, phê phán những khuynh hướng sai lầm có thể nảy sinh, đề phòng thực dân Pháp bội ước, và nhấn mạnh: Phải triệt để lợi dụng thời gian hòa hoãn để đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, tổ chức quần chúng, củng cố phong trào, đào tạo cán bộ, đưa cán bộ vào gây cơ sở ở các thành phố bị chiếm đóng, tiếp tục chuẩn bị kháng chiến lâu dài… Hiệp định cũng đã thể hiện được phẩm chất, trí tuệ và bản lĩnh của Đảng ta và của Bác Hồ kính yêu. Nó minh chứng cho tài ngoại giao xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một con người “đại nhân, đại trí, đại dũng”. Trước và sau Hiệp định Sơ bộ 6-3, Bác đã làm tất cả những gì có thể để nhằm tránh một cuộc chiến tranh. Đảng và Bác đã chủ trương đẩy mạnh hoạt động ngoại giao, bằng sách lược hòa hoãn với Tưởng, đàm phán với Chính phủ Pháp nhằm phá vỡ thế bao vây uy hiếp của kẻ thù, ngăn chặn chiến tranh, kéo dài thời gian hòa hoãn để xây dựng lực lượng. Từ tháng 9-1945 đến tháng 3-1946, Đảng ta đã thực hiện chính sách tạm thời hòa hoãn với Tưởng trên miền Bắc để tập trung sức chống thực dân Pháp ở miền Nam. Nội dung nhân nhượng chủ yếu là: cung cấp lương thực cho quân đội Tưởng và tay sai của chúng; mở rộng 70 ghế trong Quốc hội cho Việt quốc và Việt cách không qua bầu cử và đưa một số đại diện của các đảng này vào Chính phủ Liên hiệp lâm thời; các lực lượng vũ trang được lệnh tránh xung đột với quân Tưởng, không để mắc vào cạm bẫy khiêu khích, kiếm cớ lật đổ chính quyền cách mạng của chúng. Với sách lược ngoại giao sáng suốt này, chúng ta đã làm thất bại âm mưu của Tưởng và thế lực phản động, giữ vững và củng cố chính quyền cách mạng, tạo điều kiện thuận lợi cho quân và dân cả nước tập trung lực lượng chống thực dân Pháp ở miền Nam. Việc ký Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946 đã giúp chúng ta “tránh bất lợi phải cô lập chiến đấu cùng một lúc với nhiều lực lượng phản động..., bảo toàn thực lực, giành lấy giải pháp nghỉ ngơi và củng cố vị trí đã chiếm được, chấn chỉnh đội ngũ cách mạng bổ sung cán bộ, bồi dưỡng và củng cố phong trào...”. Đó quả là một chủ trương đúng đắn, sáng tạo, là “mẫu mực tuyệt vời của sách lược Lê-nin-nít về lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch và về sự nhân nhượng có nguyên tắc”. Thực tế, Hiệp định Sơ bộ tạo thời gian hòa hoãn để nhân dân ta củng cố thành quả cách mạng mới giành được, chuẩn bị điều kiện đưa sự nghiệp kháng chiến kiến quốc tiến lên một bước phát triển mới. Đối với nhân dân miền Nam, Hiệp định Sơ bộ tạo điều kiện cho lực lượng kháng chiến trở lại bám trụ ở thôn, xã, tạo sức mạnh để cùng cả nước bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc với tư thế và sức mạnh mới.

65 năm trôi qua, nhưng thắng lợi hết sức to lớn của Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946 mãi là một dấu mốc son trong lịch sử dân tộc Việt Nam, cũng là mốc son chói lọi của nền ngoại giao Việt Nam. Bởi từ đây cái tên gọi Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã bắt đầu gây sự chú ý cho các nước trong khu vực và trên thế giới. Sau đó không lâu rất nhiều nước trên thế giới đã đặt quan hệ ngoại giao với nước ta…

Nguyễn Viết Chính

Video liên quan

Chủ Đề