Trong Nho gia quan điểm triết học về bản chất con người của Mạnh Tử là gì

Mục lục bài viết

  • 1. Khái quát về tư tưởng Nho giáo
  • 2. Khái quát về bản chất con người theo tư tưởng Nho giáo
  • 3. “Tính” [tính người] với nghĩa là “bản tính” hay bản chất con người
  • 4. Quan niệm về “tính” vàvề “đức” của con người
  • 5. Thiệnvàbảntính thiệnhaybản chất con người là bản chất đạo đức

1. Khái quát về tư tưởng Nho giáo

Nho giáo [儒教], còn gọi là đạo Nho hay đạo Khổng là một hệ thống đạo đức, triết học xã hội, triết lý giáo dục và triết học chính trị do Khổng Tử đề xướng và được các môn đồ của ông phát triển với mục đích xây dựng một xã hội thịnh trị. Nho giáo rất có ảnh hưởng tại ở các nước châu Á là Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc và Việt Nam. Những người thực hành theo các tín điều của Nho giáo được gọi là các nhà Nho, Nho sĩ hay Nho sinh.

Trong lịch sử Trung Hoa cổ đại, Nho giáo, Nho gia [đạo Nho] là một thuật ngữ bắt đầu từ chữ Nho, theo Hán tự từ “Nho” gồm từ “Nhân” [người] đứng gần chữ “Nhu”. Nho gia còn được gọi là nhà Nho người đã học sách thánh hiền, có thể dạy bảo người đời ăn ở hợp luân thường, đạo lý…Nhìn chung “Nho” là một danh hiệu chỉ người có học thức, biết lễ nghĩa.

2. Khái quát về bản chất con người theo tư tưởng Nho giáo

Như chúng ta đã biết, Nho giáo là một trường phái triết học đã đưa ra học thuyết chính trị - đạo đức để giáo hoá con người nhằm củng cố, duy trì trật tự xã hội. Để làm được điều đó, giáo lý của Nho giáo thiên về việc xem xét, lý giải con người ở nhiều khía cạnh khác nhau. Trong đó có sự quan tâm xem xét vấn đề bản chất con người.

Khi xem xét vấn đề này, nhìn chung các nhà tư tưởng của trường phái triết học Nho giáo Trung Quốc cổ đại cũng chỉ mới quan tâm đến "tính người", "tâm người", "lý người", tức là chỉ mới bàn đến phẩm chất tinh thần, ý thức, tâm lý, tư tưởng mà chưa đi sâu vào bản chất đích thực của con người. Mặc dù, mỗi nhà triết học của trường phái Nho giáo xem xét bản chất con người ở mỗi khía cạnh khác nhau [Khổng Tử: Tính tương cận, tập tương viễn; Mạnh Tử: Tính thiện; Tuân Tử: Tính ác], song trong toàn bộ quá trình vận động của lịch sử tư tưởng thì ở họ, vẫn có sự kế thừa, phát triển và làm cho quan niệm về bản chất con người ngày càng trở nên hoàn thiện hơn.

Vào thời Chiến Quốc, do hoàn cảnh lịch sử có nhiều biến động, nên các nhà tư tưởng của trường phái triết học Nho giáo khi xem xét bản chất con người đã tuyệt đối hoá một mặt trong bản chất con người, hoặc là thiện hoặc là ác. Mặc dù, Mạnh Tử và Tuân Tử là môn đồ của trường phái triết học Nho giáo, nhưng khi bàn về bản chất con người, hai ông đã có sự đối lập nhau, thậm chí nhiều khi còn có sự trái ngược nhau trong quan điểm. Nhưng, dù ở họ có sự tuyệt đối hoá mặt này hay mặt kia, thì vẫn có sự kế thừa, bổ sung và phát triển tư tưởng của Khổng Tử với những góc độ khác nhau và chính ở họ, cũng có sự bổ sung cho nhau khi xem xét bản chất con người.Với Khổng Tử, ông chưa thật sự đi sâu nghiên cứu bản chất con người. Tuy vậy, khi bàn về bản chất con người, Khổng Tử đã cho rằng, bản tính của con người là thiện và nó gần giống nhau ở tất cả mọi người. Ông nói: "Tính tương cận giã; tập tương viễn giã". Nghĩa là, con người khi mới sinh ra đều có cái tính trời phú cho là gần giống nhau, nhưng do quá trình tiếp xúc, học hành mà làm cho họ có sự khác nhau, có kẻ trí, người ngu; phẩm chất của con người là chất phác, chân thực và đó là điều kiện thuận lợi để trau dồi đức nhân và tất cả các đức khác cũng từ đức nhân mà ra. Bản tính của con người là thiện nhưng vì con người quen thói đời, mê vật dục nên mới thấy điều nhân xa mình. Vì vậy, khi con người đã có nhân thì phải luôn giữ lấy điều nhân, đừng bao giờ xa rời nó, dù chỉ trong một khoảnh khắc thời gian.

3. “Tính” [tính người] với nghĩa là “bản tính” hay bản chất con người

Trong Tứ Thư, quan niệm về bản chất con người gắn liền với quan niệm về “tính” của con người hay tính người. Đây là quan niệm khá phổ biến, được thể hiện rõ trong toàn bộ nội dung của Tứ Thư. Việckhông tính đến quan niệm nàytrong nghiêncứu sẽ làmcho việc hiểu biết tư tưởng Nho giáo về bản chất con người trở nên phiến diện. Trong sách “Trung Dung” có nêu rõ nội dung quan niệm về “tính” như sau: “Trong thiên hạ chỉ có bậc chíthànhmớihiểu tường tận bản tính của mình.Hiểu rõbản tính củamình để hiểu rõ bản tính của người. Hiểu rõ bản tính của mình để hiểu rõ bản tính của vạn vật.

Hiểu rõ bản tính của vạn vật, để có thể giúp đỡ việc hóa dục trời đất. Có thể giúp đỡ việc hóa dục trời đất, ắt có thể sánh ngang trời đất vậy” [“Duy thiên hạ chí thành vi năng tận kỳ tính. Năng tận kỳ tính, tắc năng tận nhân chi tính. Năng tận nhân chi tính, tắc năng tận vật chi tính. Năng tận vật chi tính, tắc năng khả dĩ tán thiên địa chi hoá dục. Khả dĩ tán thiên địa chi hóa dục, tắc khả dĩ dữ thiên địa tham hĩ”]1.

Đoạn vừa dẫncho thấy,“tính”được hiểulà“bản tính”, nó cũng có nghĩa là “bản chất”, “bản chất con người”. Bởi vì, trong đoạn văn trên đã chỉ rõ con đường, mà nhờ đó bậc chí thành có thể thực hiện được sự nghiệp giáo hóa vĩ đại [“hóa dục trời đất”]. Rõ ràng, hiểu biết tường tận, đến cùng bản tính của mình, của người và của vật phải là hiểu biết về cái sâu sắc, cái căn bản nhất. Nói cách khác, đó là hiểu bản chất của sự vật [của mình, của người và vật]. Nhưng còn có thể thấy thêm là, đoạn văn nêu trên chứa đựng tư tưởng triết học giáo dục rất sâu sắc. Khổng Tử trong “Luận Ngữ” đã nêu: “Bản tính người ta gần giống nhau, thói quen khiến xa nhau”2. Cũng như ở đoạn trên, “tính” được nói đến là “bản tính”, cũng có nghĩa là bản chất con người. Nó là cái mà con người cần phải nhận thức đến cùng mới thấu được. Nhưng ở đây, bản tính hay bản chất còn có đặc trưng quan trọng. Đó là cái giống nhau căn bản, ổn định, không dễ thay đổi ở con người. Nó khác với thói quen vì thói quen là cái có thể khác nhau ở mỗi người và có thể thay đổi khi hoàn cảnh, điều kiện sống của họ thay đổi. Nhưng trong Nho giáo,“tính”cũng có thể được hiểu là “tính chất”, “tính cách” với nghĩa là những khía cạnh hoặc những biểu hiệncủa bản tính.Chẳng hạn, khi tranh luận với Cáo Tử, Mạnh Tử đã bác bỏ một cách rất thuyết phục quan điểm của Cáo Tử khi ông này có sự lầm lẫn trong lập luận.

Cáo Tử đã đồng nhất “tính” với nghĩa là bản chất với những tính chất, những cái biểu hiện của bản chất, khi ông ta nói: “Bản tính của mọi sinh vật đều gọi là tính cả”. Mạnh Tử cho rằng, nói như thế chẳng khácgìnói“tính của con chó cũng giống như tính của con bò, tính của con bò cũng như tính của người ta”3. Để thấy rõ hơn tư tưởng Nho giáo về bản chất con người được hiểu với nghĩa là “tính”, “bản tính” con người, nghĩa là nó bao gồm, “tóm quát” toàn bộ tồn tại, đời sống con người, thậm chí cả tự nhiên, vũ trụ, chúngta có thể xem nội dung đoạn đối thoại giữa Mạnh Tử vàCôngTônSửu về “tâm”, “sự động tâm”, “tâm chí”, về “khí hạo nhiên”, “khí lực”,“ý chí”4...

Theo Mạnh Tử, có một khả năng, năng lực bên trong, đó là “tâm” [tâm chí]. Tâm chí có thể chi phối những hoạt động của conngười kể cả thể lực, khí lực;đó là cái bậc nhất trong con người, của con người, mà liên quan đến nó còn là bản lĩnh, cái không tách rời ý chí. Có thể hiểu cái “tâm chí” ấy là biểu hiện rõ ràng bản tính hay bản chất con người. Song, có một điều rất đáng nói ở đây là, tư tưởng Nho giáo về bản chất con người có điểm chung rất rõ so với tư tưởng của C. Mác. Trong Bản thảo kinh tế-triết học năm 1844, Mác cũng nói đến bản chất con người với nghĩa là “tính” của con người, hơn nữa là “tính người” của con người. Mác viết: “Cái vốn có của súc vật trở thành chức phậncủa con người, còn cái có tính người thì biếnthànhcái vốncócủa súc vật”. “Cố nhiên là ăn, uống, sinh con đẻ cái v.v. cũng là những chức năng thực sự có tính người”, nhưng lao động bị tha hoá đã “biến chúng thànhnhững mụcđích cuối cùngvàduynhất”, cho nên “những chức năng ấymangtínhsúc vật”. Mác khẳng định rõ hơn rằng, cái tính người ấy của con người chính là bản chất con người và nó chính là “tính loài”, là “đời sống có tính loài”, là “bản chất có tínhloàicủa con người”5.

Cái cách hiểu bản chất con người thông qua phân biệt, đối lập con người với con vật như vậy cũngcó mặt trong tư tưởng Nho giáo. Cụ thể Mạnh Tử đã nói rằng, con ngườiphải “có lòng nhân nghĩa”, “có lương tâm”, nếu không thì nó “không khác loài cầm thú”6. Tuy nhiên, tư tưởng Nho giáo về bản chất, tức là về tính người của con người có nội dung còn rất thô sơ, nghèo nàn, trong khi ở Mác quan niệm về tính, tính người của con người có nội dung rộng, sâu sắc và chính xác hơn nhiều. Mác hiểurằng,tính người của con người là cái bao hàm cả mặt tự nhiên và xã hội, là cái xã hội với nghĩa baohàmtrongnócái tự nhiên, được tạo thành và thể hiện ra trước hết trong quá trình đối tượng [khách thể] hoá chủ thể và chủ thể hoá khách thể, tức là trong thực tiễn, lao động. Chính tư tưởng này cho phép hiểu chính xác và rõ ràng luận điểm nổi tiếng của Mác về “bản chất con người”, rằng chính bản chất con người, tức tínhngười [tính chủ thể, nhân văn, trung thực, thậm chí cả tính nô lệ, dối trá, hèn nhát...] của con người, tất cả đều là “tổng hoà của những quan hệ xã hội” của nó. Tuynhiên,cần phải nói rõ ngay ở đây là,khinóivề nguồn gốc của bản tính con người, một mặt, Nho giáo thừa nhận sự tu dưỡng, rèn luyện của con người, nhưng mặt khác,chủyếu hơn, Nho giáochorằng, “tính”làdotrời,mệnh trời banchocon người. Chẳng hạn, sách “Trung Dung” viết: “Mệnh trời ban cho gọi là tính, noi theo tính gọi là đạo, tu đạo gọi là giáo”7. Còn đây là lời Khổng Tử trong “Luận Ngữ”: “Đạo của ta có được thi hànhlàdomệnh trời, phải phế bỏ cũng là do mệnh trời”8.Cần nhấn mạnh rằng, tư tưởng Nho giáo về mệnh trời xem như nguồn gốc của mọi tính, đức tính con người là một tư tưởng phổ biến, thậm chí là chủ đạo trong Tứ Thư.

Rõ ràng, quan niệm Nho giáo về “tính” [tính người] với nghĩa là về bản tính, hay bản chất con người, có nội dung rộng, “khái quát” toàn bộ tồn tại người. Tính người được nói đến ở đây mang nội dung và ý nghĩa chỉ bản tính, bản chất con người nói chung. Bản tínhlà cái gì đó rất sâu xa, làcáikhởi thuỷ, gốc gác của mọi hànhvi, hoạt độngcủa con người,màcon người phải xuất phát từ đó, chỉ xuất phát từ đó, mới có thể có “đạo”, rồi sau đó mới có thể có“giáo”. Cái bản chất này, một mặt, tồn tạibêntrongcon người,mặt khác, biểu hiệnra bênngoài,tronghànhvi,phong cách, hoạt động, cả hình thể của con người, rất đa dạng.

4. Quan niệm về “tính” vàvề “đức” của con người

Tư tưởng Nho giáo về bản chất con người còn gắn liền với quan niệm về “đức”. Quan niệm này có mối liên hệ chặt chẽ với quan niệm về “tính” [tính người]. TheoNho giáo, “tính” và “đức” có thể được hiểu đồng nhất với nhau, đó là “đức” và “tính”của trời, đất vàvạn vật. Chẳng hạn, một đoạn trong sách “TrungDung” viết rằng, đức của Trọng Ni “cũng ví như trời đất, mang vác mọi vật, che kín khắp nơi, cũng ví như bốn mùa vận hành, như mặt trời,mặt trăng thay nhausoisáng”. “Đức nhỏcủa trời đất tỉ như sông chảy không ngừng, còn đức lớn làm chuyển hoá muônloài. Vì thế mà trời đất là lớn lao vậy”9. Tuy nhiên, ở đây chúng ta chỉ nói đếnquanniệm về “tính” và “đức” với nghĩa là “tính” và “đức” của con người. Theo đó, “tính” còn được hiểu với nghĩa rộng hơn so với “đức”. “Tính” một mặt có thể được hiểu làmột tồn tại chỉnh thể đặc trưng cho nhân cách, phẩm chất con người.

Trong trườnghợpnày“tính” là toàn bộ những tính hoặc tính cách của con người, trong đó bao gồm cả những tính, tính cách tốt đẹp và những tính, tính cách xấu xa. Mặt khác, “tính” còn được hiểu đồng nghĩa với từng tính, tính cách cụ thể. Với những nghĩa nói trên,“tính”làcáithuộc về con người, ở trong con người. Mô tả hình ảnh đẹp đẽ của người quân tử, sách “Kinh Thi”đã chỉ ra một loạt tính cách hoặc biểu hiện của tính cách:“như cắt, như đánh bóng”, “như mài, như rũa”, “cứng cáp thay, mạnh mẽ thay”, “rực rỡ thay, sáng sủa thay”, “cao nhã, mãi mãi không ai quên được”10. Có thể xem đó là những tính hay tính cách,như chuyên cần,saysưa, cẩn trọng, trang nghiêm, cương nghị, quang minh, chính đại, chân thành, lịch thiệp, thanh nhã,v.v..Những tính, tính cách tiêu biểu, tốt đẹp này được biểu hiện ra thật rạng rỡ cả ở phong thái, cử chỉ, hình thể, dáng vẻ, xem như ở người quân tử “thịnh đức đã tới chỗ chí thiện”. Đem đối lập kẻ tiểu nhân với người quân tử, sách “Đại Học” đã cho thấy rõ rằng theo nghĩa rộng, tính, tính cách của con người bao gồm cả những tính,tính cách tốt đẹp và xấu xa. Những tính và tính cách của kẻ tiểu nhân đượcchỉ ra, như “nhàn rỗi thường làm điều bất thiện”, “chỗ nào cũng dám tới”, “lấm la lấm lét”, “che giấu” cái bấtthiện, phô bày “điều thiện”11, “ngay ngáy lo âu”...Cònnhững tính, tính cáchtốt[củangườiquân tử]như“bình thản lâng lâng”, “ôn hoà mà trang nghiêm, uy nghi mà không dữ tợn, cung kính mà an nhàn”12.

Những tính cách này vừa với tư cách là những tính, tính cách riêng biệt, cụ thể, vừa với tưcách là một tồn tại chỉnh thể, tổng thể của chúng. Rõ ràng, có thể xem kẻ tiểu nhân với tính cách riêng xấu xa, bất thiện như “lấm la lấm lét”..., nhưng cũng có thể hiểu một kẻ được coi là “bất thiện”,thì cái bất thiện ở đây là một tổng thể tính cách xấu của nó; còn với người thiện [người quân tử], thì đức hay tính cách là một tổng thể tính cách tốt đẹp.Tuy nhiên, trong Tứ Thư quan niệm về “tính”,“tính cách”baohàm quan niệm về “đức”.Nhưng nếu như quan niệm về “tính” và “tính cách” nói đến cả tính, tính cáchtốt đẹp và xấu xa, thì quan niệm về “đức” chỉ nói về tính, tính cách tốt đẹp. Chẳng hạn, nói về những đức [đức tính] tiêu biểu của Khổng Tử,TửCốngcho rằng: “Thầytacócácđứctính:ônhoà, ngay thẳng, cungkính,dèdặtvà khiêm nhượng”13. Đây chính là những tính, tính cách, cũng có nghĩa là những đức rất tiêu biểucủa người quân tử, của Khổng Tử. Nhưng cũng có thể xem đây là những đức, haynhững tính, tính cách hoặc những nét tính cách, phẩm chất của con người nói chung. Chúng ta hoàn toàn có thể nói rằng, người này hay người kia có tính tình,tính cáchhoặc có các đức ôn hoà, nhu thuận, tôn trọng, nhường nhịn,v.v..Đương nhiên, những tính cách nói trên là những tính cách tốt đẹp và chúng tồn tại như một chỉnh thể trongnhâncách,làmthànhnhân cách của Khổng Tử, của con người nói chung. Nhưng điều đặc biệt là, khi hiểu “tính”, “tính cách” với nghĩa là “đức”, Nho giáo còn cho thấy “đức” có nội dung và ý nghĩa rất lớn lao. Thuộc về con người, ở trong con người và là cái biểu hiện ra của conngười, đương nhiên “đức” được nói đến là cái tốt đẹp, không thể là cái xấu xa, tội lỗi, nhưngnócòn như là cái gốc gác, căn nguyên của mọi hànhvi,tồn tại của con người. Sách “Đại Học” viết về vai trò ấy của đức đối với người quân tử, với việc cai trị như sau: “Có đức ắt có người, có người ắt có đất, có đất ắt có của cải, có của cải ắt có chỗ sử dụng”. Và “đức là gốc, của cải là ngọn vậy.

Phần gốc đem gạt ra ngoài để ôm lấy phần ngọn, là tranh giành với dân, xúi người ta cướp giật”14. Còn sách “Luận Ngữ” viết: “Lấy đức để làm việc chính trị cũng ví như ngôi sao Bắc thần, ở yên vị mà các ngôi sao khác đều chầu về”15. Những luận điểm này chứng tỏ vị trí, vai trò hết sức quan trọng của “đức” trong mọi hoạt động sống của người quân tử. Với nghĩa như thế, “đức” không chỉ tồn tại như cái căn nguyên sâu xa, mà còn được biểu hiện ra một cách sinh động trong mọi hành vi, cả dáng vẻ của người quân tử. Đức tồn tại vừa như là cái tổng thể, vừa với nghĩa là những đức cụ thể, như “đức nhân”, “đức trí”, “đức dũng”, “đức nghĩa”,v.v.., trong đó “đức nhân” là yếu tố căn bản, đặc trưng cho các đức và đức nói chung. Điều này được thể hiện rất rõ trong toàn bộ nội dung của Tứ Thư, nhất là trong sách “Luận Ngữ” và “Mạnh Tử”. Như thế, quan niệm Nho giáo về “tính”, “tính cách” và về “đức” hoàn toàn không có nghĩa chỉ là về đạo đức, khi nó nói đến cả những tính, tính cách tốt và xấu của con người. Theo Nho giáo,“tính” và “đức” được hiểu không chỉ là toàn bộ phẩm chất, tính cách, mà còn là mỗi tính cách, thậm chítừng néttínhcách,nétđức cụ thể; chúngvừa làcáicấu thành bên trong, vừa được biểu hiện ra một cách hết sức đa dạng, sinh động. Những tính, tính cách và đức ấy chính là sự biểu hiện ra một cách phong phú, sinh động “tính” [bản tính, bản chất] con người. Tuy nhiên, dường như tư tưởng Nho giáo về bản chất, về tính cách con người chủ yếu hướng vào chỗ cho rằng bản chất con người là cái tốt đẹp,nghĩa là cái tính người được hiểu theo nghĩa hoàn toàn tốt đẹp, tích cực, nhất là khi nó được hiểu gắn liền, thậm chí là đồng nghĩa với “đức”. Vậy, nếu muốn đi đến kết luận về vấn đề Nho giáo có phải là một học thuyết chủ trương đức trị hay không, thì rất cần phải chỉ ra, chứng tỏ nội dung chủ yếucủa tư tưởng Nho giáo về bản chất con người.

5. Thiệnvàbảntính thiệnhaybản chất con người là bản chất đạo đức

Trong Nho giáo,quan niệm về “đức” liên quan chặt chẽ với quan niệm về “thiện”. Do đó, cần làm rõ thêm quan niệm của Nho giáo về “thiện”. Trước hết, theo tư tưởng Nho giáo [và cả tư tưởng phương Tây] không phải mọi cái thiện đều là đức, tính với nghĩa là cái bên trong, hoặc hoàn toàn thuộc về con người16. Khi giải thích lời trong “Thiên Khang Cáo”: “Mệnh trời ban cho không ở mãi với một người”, sách “Đại Học” cho rằng,câu này có nghĩa là “người thiện ắt nhận được,người bất thiện ắt để mất”17.

Về cơ bản ở đây “thiện” được hiểu đồng nghĩa với đức hạnh, tức là những tính, tính cách tốt của con người, là cái thuộc về hoặc ở trong con người, cho phép người này hay người kia được gọi là “người thiện”. Có thể hiểu rõ hơn điều này, khi Khổng Tử nói: “Thấy người thiện [nên cố gắng bắt chước] như sợ rằngchẳngtheokịp, thấyngười bất thiện [nên tránh xa]như mó phải nước sôi”18. Theo lời Khổng Tử, “thiện” và cả “ác” được hiểu lànhững đức, phẩm chất hoặc tính cách của con người, vìchúng ở ngay trong những con người cụ thể, những ngườiđược coi là “người thiện” hoặc “người bất thiện”.

Ở người thiện, thìthiện là những gì tốt đẹp, có ích, thậm chí còn là cái tốt đẹp lớn, khiến người ta “theo chẳng kịp”, còn ở người bất thiện, thì bất thiện là cái ác, cái xấu, thậm chí là gây nguy hiểm, mà gặp nó giống như “mó phải nước sôi”. Tuy nhiên, thiện không hoàn toàn chỉ có nghĩa là cái thuộc về con người, ở trong con người. Ngay đối với “người thiện” cũng thế, cụ thể là khi anh ta hướng theo, làm theo những chuẩn mực tốt đẹp ở bên ngoài mình. Nói với Phàn Trì về việc tu dưỡng đức tính, tu sửa lỗi lầm, Khổng Tử cho rằng: “Phải gắng làm điều thiện mới mong được điều thiện”19. Còn nói về đạo tu dưỡng của người quân tử, Mạnh Tử cho rằng: “Vua Hạ Vũ nghe ai nói một câu tốt lành, liền bái tạ. Vua Đại Thuấn sẵn sàng gạt bỏ ý mình để nghe theo người khácvàvui thích được bắt chước người để làm việc thiện. Từ khi làm ruộng, nung gốm, đánh cá, cho tới khi lên ngôi hoàng đế, lúc nào ngài cũng bắt chước người khác”. “Bắt chước người để làm việc thiện là khuyến khích người cùng làm việc thiện với mình”20.

Trong các đoạn này “điều thiện” [“cái thiện”] được nói ở đây có hai hìnhthức tồn tại rất rõ.

Thứ nhất, thiện là cái ở bên ngoài mỗi người, là những cái mà con người có thể nhận được, tạo ra, hướng theo.

Thứ hai, thiện là cái ở trong mỗi người, nó là cái tốt, cái hay, cái đẹp trong ta,khiến ta hành động.

Trong hình thức này,thiện chính là đức thiện, là đức hạnh. Tuy nhiên, hai hình thức của thiện liên hệ hữu cơ với nhau, có thể nói không cóhànhvihướngthiệnchỉvới nghĩa là hướng theo cái thiện bên ngoài. Nhưng cũng đồng thời không phủ nhận được thực tế là,thiện vừa là đức, đức hạnh, vừa không phải là đức hạnh, mà cònlàcái tốt đẹp ở bên ngoài con người. Sự phân tích nội dung vàý nghĩa của quan niệm về thiệnnóitrên chophép chúngtahiểu cụ thể hơn quan niệm của Nho giáo về bản chất con người thông qua những luận điểm của Mạnh Tử. Trước hết, Mạnh Tử quan niệm bản chất hay bản tính con người là cái vững chắc, vốn có, không thể tuỳ ý thay đổi được. Bác bỏ quan điểm của Cáo Tử: “Bản tính con người cũng giống như gỗ cây kỷ, cây liễu, điều nghĩa cũng giống như chiếc chén, chiếc bát vậy.

Dựa vào bản tính con người để làm việc nhân nghĩa cũng giống như lấy gỗ kỷ, gỗ liễu mà chế tạo ra chén bát vậy”, Mạnh Tử nói, nếu “thuận theo tính chất của gỗ kỷ, gỗ liễu mà chế tạo ra chén bát”, tất phải “đẽo gọt gỗ kỷ, gỗ liễu”. Như thế cũng có nghĩa là “phải đẽo gọt conngười để làm việc nhân nghĩa”21. Từ đó, ông khẳng định rõ, “bản tính người ta vốn thiện, cũng như nước phải chảy xuống thấp; người ta chẳng aibất thiện, như nướcluônluônchảy xuống thấp” và “conngười có thể khiến làmviệcbất thiện”chẳng qua là bị ép buộc22.

Mạnh Tử khẳng định rõ hơn rằng, “nếu xét bản tính phát động ra ở mặt tình cảm,thìthấymọingườiđều có thểlàm điều thiện,nêntamớinóibảntínhvốn lành. Ôi,nếu có kẻ làm điều bất thiện, có phải lỗi ở bản chất của tính đâu”23. Như thế, khi đặt “thiện” [cái thiện, điều thiện] trong mối liên hệ với “tính” và với “đức”, MạnhTửcũngnhư các nhà Nho giáo nói chung đã quan niệm bản tính, bản chất con người là thiện, vốn thiện vànó trước hết là cái bên trongcủa con người. Do đó, tư tưởng Nho giáo về bản chất con người chính là về bản chất đạo đức của con người. Về điểm này, các nhà Nho cũng giống như các nhà tư tưởng phương Tây cổ đại có xu hướng tập trung vào phương diện đức hạnh.Cho nên, cóthể hiểu bản chất đạo đức được Nho giáo quan niệm chủ yếu là bản chất đức hạnh. Tuy vậy, so với đạo đức học phương Tây đương thời, quan niệm Nho giáo về đức hạnh chưacó sự khái quát chínhdiện, rõràng về lý luận, trong khi đó Arixtôt đã có “định nghĩa”, bàn luận rất rõ, sâu sắc về đức hạnh24. Bên cạnh đó, Nho giáo có sự phân biệt khá rõ cáithiệnbên trong,tứcđứchạnh,phẩm chất tốt đẹp của con người với cái thiện bên ngoài. Vì vậy, cần tránh việc chỉ khẳng định tư tưởng Nho giáo về bản chất con ngườilàthiện,làbảnchất đạođứcmột cáchchungchung,trong khi không chú ý đến nội dung quan niệm Nho giáo về thiện.

Ghi chú:

1. Nguyễn Đức Lân [dịch và chú giải],1998.Tứ Thư tập chú, Nxb.Văn hoá -Thông tin,Hà Nội, tr.144-145.

2. Sđd, tr.614.

5. C. Mác,2000.Bản thảo kinh tế-triết học năm 1844, C. Mác và Ph. Ăngghen,Toàn tập, tập 42, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, tr.133, 134-138.

6.Sđd, tr.1213-1214.

7.Sđd, tr.85.

8.Sđd, tr.553.

9.Sđd, tr.169.

10.Sđd, tr.27-30.

11.Sđd, tr.36.

12. Sđd, tr.372.

13. Sđd, tr.205.

14. Sđd, tr.56.

15.Sđd, tr.214.

16.Phạm Văn Chung, 2012.Tập bài giảng Đạo đức học, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, tr.177-183.

17.Sđd, tr.58.

18.Sđd, tr.607.

19. Sđd, tr.491-492.

20.Sđd, tr.866.

21.Sđd, tr.1191-1192.

22.Sđd, tr.1192-1194.

23.Sđd, tr.1205.

24.Xem Arixtôt,1974. Đạo đức học của Nicomaque, Đức Hinh dịch, tr.67,69,72.

Video liên quan

Chủ Đề