Soạn văn 7 bài ca dao dân ca năm 2024
(Ngã ba Chanh: nơi sông Hóa tách ra từ sông Luộc, tạo thành ngã ba tiếp giáp giữa Hải Dương, Hải Phòng, Thái Bình. Ở đó có đền Tranh (huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương) thờ Quan Lớn Tuần Tranh rất thiêng)
Hồng Châu, Nam Sách nhiều dòng thi thơ.
(Phương ngôn huyện Thanh Hà)
Mùa nào thức ấy đượm màu thú quê. (Ca dao Thanh Hà)
Như giáo đâm vào ruột.
(Chuông làng Châu, trống làng Ủng, mõ làng Đầu, ba làng ở gần nhau)
Có về tổng Giám với anh thì về Tổng Giám có ruộng tứ bề Có ao tắm mát, có nghề quay tơ. (Tổng Giám nay thuộc huyện Cẩm Giàng)
(Bốn địa phương thuộc thành phố Hải Dương. Côi Đông gồng gánh hàng xáo nên thâm vai, Côi Đoài cả ngày ngồi đan thúng nên thâm đít, Tự Đông, Phượng Cáo chuyên mò cua bắt ếch nên hít bờ, rờ ao)
Áo quần Thủ Pháp, cửa nhà Châu Quan. (Phương ngôn xã Đoàn Kết, Thanh Miện)
(Những món ngon ở các làng thuộc Cẩm Giàng, Nam Sách)
(Đầu là làng Trắm, đuôi là khu vực Mè, Tam Lạng là ba làng Lạng (Bình Lãng): làng Đông, làng Thượng, làng Khổng Lý. Đều thuộc huyện Tứ Kỳ)
Vân Đồn vang dội, giặc Nguyên rụng rời. (Ca dao về đền Gốm ở Chí Linh, thờ tướng Trần Khánh Dư)
(Làng Dầu nay thuộc Cẩm Giàng)
Đường về Kiếp Bạc có cây đa bồ đề Có yêu anh cắp nón ra về Giàu ăn khó chịu, chớ hề thở than.
Càng nhìn càng thấy vẻ sinh tuyệt vời Dưới sông thuyền chạy ngược xuôi Trên bờ phố Gốm hết lời ngợi ca Đêm đèn đốt tựa sao sa Đền thờ Nhân Huệ nguy nga lẫy lừng Nhân dân nô nức tưng bừng Đón rằm tháng Tám hội mừng đua chen.
Cân Bái Dương giữ mực trung bình Làng Cao thợ thiếc lọc tinh Kim hoàn La Tỉnh nghề lành càng ghê. (Các làng nghề kim hoàn, kim khí ở Bình Giang, Cẩm Giàng, Chí Linh, Tứ Kỳ)
Làng Quao có đất sơn son nặn nồi. (Làng Hóp, làng Quao thuộc huyện Nam Sách)
Thanh Lâm, Đồng Sớm cũng đôi ba người Nói ra sợ chị em cười Lấy chồng tháng chín, tháng mười có con.
Long đao cứu nước, anh hùng là ai? Sông Tranh đáp tiếng trả lời Có Quan đệ ngũ, chính người Ninh Giang.
(Phương ngôn làng Giám, Cẩm Giàng)
(Đời chúa Trịnh Tráng, làng Mộ Trạch có tới 17 người đỗ đạt làm quan trong triều)
Lấy chồng làng Bói cho gần chợ Hôm. (Bói, Hôm thuộc huyện Ninh Giang)
Thì sinh ở đất Thanh Hà xứ Đông.
Lòng em khao khát mà nào thấy mưa. (Lý, Rào thuộc thị trấn Nam Sách) N[sửa]
(Thời Nguyễn, có bốn huyện được coi là trù phú nhất: xứ Sơn Nam có huyện Chân Định, xứ Kinh Bắc có huyện Yên Dũng, xứ Hải Dương có huyện Tứ Kỳ, xứ Sơn Tây có huyện Yên Lạc)
(Người làng thuộc năm giáp ở làng Châu Khê (Bình Giang) di cư ra Thăng Long làm nghề đúc bạc, lập ra phố Hàng Bạc. Hai ngôi đình là Trương đình và Kim Ngân đình là nơi nộp thành phẩm cho nhà nước)
(Xưa kia Thanh Mai ở Chí Linh là vùng rừng thiêng nước độc) Q[sửa]
(Làng Thượng Cốc ở Gia Lộc có nhiều người làm quan, làng Cờ ở Tứ Kỳ ruộng trũng có nhiều ốc) R[sửa]
T[sửa]
Châu Khê, Hàng Bạc đi về ngược xuôi Như hương tỏa khắp mọi nơi Kim hoàn trang sức cho đời đẹp xinh.
(Hội đền Kiếp Bạc mở vào tháng tám để tưởng nhớ Đức Thánh Trần; hội Phủ Dầy ở Nam Định mở vào tháng ba để tưởng nhớ Mẫu Liễu Hạnh)
Em về em để mối sầu cho ai.
Thứ nhì Bủi Lạng, thứ ba Thạch Sùng. (Những người giàu có nhất ở Việt Nam thời xưa. Bà Bủi ở thôn Đông, xã Bình Lãng, huyện Tứ Kỳ)
(Làng Đọc giàu có, làng Nhữ ruộng tốt, nhiều thóc lúa, làng Chằm (Mộ Trạch) nổi tiếng học giỏi. Ba làng thuộc huyện Bình Giang)
Sứ Yên thua cuộc rút xe về thành. (Tiến sĩ Vũ Huyên người làng Mộ Trạch dùng mẹo mách nước cờ cho vua Lê Dụ Tông khi vua đánh cờ với sứ Trung Hoa) |