Substitution and Ellipsis là gì

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ------------------------- Ngô Thị Bảo Châu CẤU TRÚC, NGỮ NGHĨA, NGỮ DỤNG CỦA PHÉP NỐI TRONG TIẾNG VIỆT [SO SÁNH VỚI TIẾNG ANH] Chuyên ngành : Ngôn ngữ học Mã số : 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. TRỊNH SÂM Thành phố Hồ Chí Minh - 2009 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài So với các phân môn khác, ngữ pháp văn bản là một trong những phân môn xuất hiện khá muộn và có lịch sử chưa dày. Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa của phép liên kết nói chung, phép nối nói riêng, chúng tôi thiết nghĩ đây là một trong những vấn đề đáng quan tâm. Thật sự, phép nối đóng vai trò là thành tố tạo tính mạch lạc cho văn bản, là một trong những yếu tố trọng yếu của vấn đề tạo lập và tiếp nhận văn bản. Thế nhưng, thực tế là, nhiều nhà Việt ngữ học xem xét phép nối thông qua phát ngôn, mà chưa xem xét nó thông quan khái niệm cú [clause]. Chúng tôi, đứng trên quan điểm “cú”, sẽ phân tích những đặc điểm về cấu trúc, ngữ nghĩa, ngữ dụng của phép nối tiếng Việt. Đặc biệt, trong khi tiếp xúc với tiếng Anh, người viết thấy có những điểm tương đồng và khác biệt giữa phép nối của ngôn ngữ này với tiếng Việt; do đó, người viết tiến hành so sánh phép nối giữa hai ngôn ngữ. Chính những sự tương đồng phản ánh sự qui luật chung về tư duy, diễn đạt ý tưởng chung của nhân loại; còn sự dị biệt lại phản ánh sự khác biệt về loại hình ngôn ngữ cũng như sự nghiêng về mặt hình thức ngữ pháp – tiếng Anh hay ngữ nghĩa – tiếng Việt của hai ngôn ngữ. Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài này cũng phục vụ trực tiếp cho việc giảng dạy phân môn Ngữ pháp văn bản, Tiếng Việt thực hành cũng như việc rèn luyện ngoại ngữ của người viết. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Ngoài nước Năm 1976, nhà xuất bản Lodon và Nework đã cho ra đời quyển “Cohesion in English” –Phép Liên kết trong tiếng Anh của M.A.K Halliday và Ruqaiya Hassan [108]. Đây có thể xem là công trình đầu tiên đánh dấu lịch sử nghiên cứu về phép nối. Trong quyển sách, hai tác giả đã trình bày khá kỹ về các phép liên kết: Quy chiếu [Reference], Phép thế [Substitution], Phép tỉnh lược [Ellipsis], Phép liên kết từ vựng [Lexical cohesion] và trong đó có Phép nối [Conjunction]. Về phép nối, Halliday và Hassan nhấn mạnh rằng sự nối kết phải dựa trên mối quan hệ ngữ nghĩa của chúng. Nhưng đó không phải là mối quan hệ cố định, mà là “cái theo sau được kết nối một cách hệ thống với cái đã đi trước”. Đây là công trình nghiên cứu khá kỹ và đi vào chi tiết vào phép nối nói riêng, các phép liên kết khác nói chung. Sau đi đưa ra khái niệm về phép nối, Halliday và Hassan đã phân phép nối thành 4 loại chính theo quan hệ ngữ nghĩa của chúng: i.Bổ sung [Additive], ii.Đối lập [Adversative], iii.Nhân quả [Causal] và iv.Quan hệ thời gian. Đồng thời, tác giả cũng thống kê một số liên từ biểu hiện những quan hệ ngữ nghĩa trong phép nối, và phân tích một số liên từ tiêu biểu. Nhìn chung, đóng góp lớn của công trình là về lí thuyết văn bản nói chung, phép nối nói riêng cũng như những quan hệ ngữ nghĩa trong phép nối. Đến năm 1998, ấn bản lần 2 của M.K.Halliday về “An Introduction to Functional Grammer” - Dẫn luận ngữ pháp chức năng, [được tái bản lần 6] do Hoàng Văn Vân dịch [31]. Trên cơ sở công trình thứ nhất năm 1976, Halliday tiến hành bổ sung và sữa chữa những vấn đề có liên quan, đặc biệt về liên kết. Công trình trình bày và phân tích khá kỹ về khái niệm Cú [Clause] và xem cú là khái niệm cơ sở để soi sáng các góc độ của văn bản. Đây là công trình được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá cao và được xem là công trình không thể không biết đến khi nghiên cứu ngữ pháp văn bản nói chung, phép nối nói riêng. Đầu tiên, tác giả làm rõ khái niệm cú đứng trên ba kiểu ý nghĩa khu biệt hàm chứa trong cấu trúc của một cú: i.Cú như là một thông điệp – “clause as a masage” [cấu trúc Đề - Thuyết, ], ii. Cú như là một sự trao đổi – “clause as an exchange” [hệ thống ngữ pháp và hệ thống thức [mood], Chủ – Vị [chủ ngữ ngữ pháp] và iii.Cú như là sự thể hiện – “clause as a representation” [chủ ngữ logic: hành thể, cú được xem như chứa đựng một nguyên tắc cơ bản để mô hình hóa kinh nghiệm, tức là cú được xem xét như là một quá trình - process]. Sau đó, M.K.Halliday mở rộng khái niệm Cú - dưới cú [những tổ hợp nhỏ hơn cú] và trên cú [những tổ hợp lớn hơn cú]. Công trình cũng đưa ra sự biện luận khá kỹ về việc chọn cú làm đơn vị cơ bản đề nghiên cứu ngữ pháp chức năng. Từ những kiến thức nền tảng về “cú”, tác giả soi sáng vào khái niệm: Liên kết và Ngôn bản [mục 9] - đây là nội dung trọng tâm mà chúng ta cần nghiên cứu. Ở mục này, tác giả cũng trình bày những phép liên kết cơ bản, nhưng sự phân chia có khác trước. M.K.Halliday nhập tỉnh lược và thay thế làm một; như vậy, từ năm phép liên kết, trong công trình này chỉ còn bốn. Tác giả phân chia tỉ mỉ Phép nối theo ba lĩnh vực: i.Chi tiết hóa [Elaboration], ii.Bành trướng [Expantion] và iii.Tăng cường [Enhancement]. Theo chúng tôi, cách nhìn nhận liên kết dựa trên khái niệm “cú” của M.K.Halliday có nhiều ưu điểm, nó mang tính khái quát cao. Và chúng tôi, trong luận văn này, phần lớn theo quan điểm của M.K.Halliday để nghiên cứu phép nối của tiếng Việt. Đồng thời, trong công trình này, Halliday cũng trình bày khá kỹ về các quan hệ ngữ nghĩa của phép nối. Trên cơ sở kế thừa, chúng tôi soi sáng vào phép nối tiếng Việt; đồng thời phân chia lại, thay đổi một số thuật ngữ để phù hợp với một ngôn ngữ đơn lập như tiếng Việt. Tóm lại, Halliday là một trong những người đặt những viên gạch đầu tiên để xây dựng nền móng cho việc tìm hiểu phép nối nói riêng, liên kết nói chung. Đến năm 1992, nhà xuất bản Philadelphia ở Amsterdam cho ra mắt bạn đọc công trình của J.R.Martin [120] về “English Text – System and Structure” [Văn bản tiếng Anh - Hệ thống và Cấu trúc]. Đây có thể xem là công trình nghiên cứu khá kỹ về các phép liên kết, trong đó có phép nối. Chính tác giả này đưa đến bạn đọc khái niệm Nối bên trong [Internal relations] và Nối bên ngoài [External relations] - điểm mới của tác giả so với Halliday. Và Martine đã đưa ra những tiêu chí phân biệt hai loại quan hệ nối này. Đặc biệt, tác giả đã dựa vào ngữ cảnh cụ thể [Circumtaintial identifying relationals] để phân biệt Nối bên ngoài [External relations], và dựa vào khái niệm Phóng chiếu [Projection] để nhận dạng kiểu Nối bên trong [Internal relations]. Tác giả cũng chia từng loại nối bên trong và bên ngoài theo các loại quan hệ: i.Bổ sung [Addictive relations], ii.Nhân quả [Consiquential relations], iii.So sánh [Comparative relations], iv.Thời gian [Temporal] và v.Định vị [Locative relations]. Ở mục thứ 6 của quyển sách, tác giả có đề cập đến: Conhesion and register [Liên kết và ngữ vực] và Cohesive harmony analysis [Phân tích tính hài hòa liên kết]. Ở phần thứ nhất [Conhesion and register], tác giả chủ yếu tóm tắt và trích dẫn lại một số nhận định của M.K.Halliday và Ruaqaiya Hassan về vấn đề có liên quan đến liên kết và ngữ vực. Phần còn lại – Cohesive harmony analysis [Phân tích tính hài hòa trong liên kết], J.R.Martin đề cập đến kỹ năng [hay thủ thuật – Procedure] khảo sát sự tương tác của chuỗi sở chỉ, chuỗi từ vựng và ngữ pháp kinh nghiệm. Thủ pháp Cohesive harmony analysis chủ yếu để xem xét sự liên kết trong đơn vị văn bản; do đó, nó chú ý đến môi trường tồn tại của phép liên kết. Tuy nhiên, công trình chỉ là những bước phát thảo sơ bộ về phép nối. Năm 2000, quyển “English Grammer - An Introduction” của Peter Collins và Carmella Hollo [93] được tái bản [lần 2]. Quyển sách gồm hai phần A.Grammatical Decription [Mô tả ngữ pháp] và B.Looking at language in context [Xem xét ngôn ngữ trong ngữ cảnh]. Ở phần thứ 2, mục Cohesion – Liên kết và Analysis of Cohesion in sample texts – Phân tích phép liên kết trong những văn bản tiêu biểu - đã đề cập đến vấn đề liên kết và phép nối. Theo hai tác giả, ở cấp độ vĩ mô, có các loại phép liên kết: 1].Deictic [Trực chỉ], 2].Generic [Loại Thể] và 3].Logical signposts [Dấu hiệu logíc]. Ở cấp độ vi mô, liên kết có các loại: 1].Đồng sở chỉ [Co-reference], 2].Thay thế [Substitution] và 3].Tỉnh lược [Ellipsis]. Theo hai tác giả này, 1].trực chỉ [deictic] là những đơn vị định vị các nhân vật tham gia giao tiếp, định vị không gian, thời gian [ngữ cảnh hội thoại và thời gian hội thoại]. Cụ thể đó là: i.Participant identification [Nhận ra người tham gia giao tiếp], ii.Place and time indicators [yếu tố chỉ không gian, thời gian], iii.Temporal ordering expressions [Sự diễn đạt theo trật tự thời gian] và iv.Tense and aspect [Thì và Thể - cũng là một yếu tố xác định thời gian của hành động]. Về 2].Loại thể [Generic], đó là những yếu tố làm cho bố cục của văn bản trở nên rõ ràng, theo một mẫu thức xác định: “in set patterned ways”, chẳng hạn như phân chia văn bản thành từng chapter [chương], paragraphs [đoạn]…Về 3].Dấu hiệu logic [Logical signposts], đó là những dấu hiệu trình bày ngữ liệu theo một chuỗi logic, chuỗi trật tự thời gian như: first [đầu tiên], then [sau đó]…, on one hand [một mặt], on the other hand [mặt khác]…Tóm lại, ba ý nghĩa ở cấp độ vĩ mô trên chính là những quan hệ ý nghĩa chỉ thời gian, không gian và trật tự diễn đạt. Và hai tác giả đi sâu vào từng khía cạnh: i.Text Orientation [Định hướng văn bản], ii.Grammatical cohesion [Liên kết ngữ pháp], iii.Logical connectors [Những yếu tố liên kết logíc] và iv.Lexical Cohesion [Liên kết từ vựng]. Trong mỗi phần vừa nêu, Peter Collins và Carmella Hollo đều có đề cập ít nhiều đến phép nối. Chẳng hạn, trong phần Text Orientation [Định hướng văn bản], hai tác giả có kể đến: Temporal ordering expression – Diễn đạt trật từ thời gian [Tr164] và liệt kê liên từ như: First, second, next... Đến mục Logical connectors, tức những yếu tố liên kết logic, tác giả lại đưa ra bốn loại liên kết logíc: i.Addictive [Bổ sung], ii.Adversative [Tương phản], iii.Causal [Nhân-quả] và iv.Temporal [Thời gian] [tr171-172]. Bốn kiểu này là những loại phép nối mà M.K.Halliday và các tác giả khác đã nêu. Do đó, trên cơ sở kế thừa, chúng tôi sẽ tiến hành bổ sung và điều chỉnh những vấn đề trùng lắp. Ngoài ra, lấy cú làm đơn vị phân tích cơ bản, Peter Collins và Carmella Hollo còn đề cập đến những loại cú [clause types] và những mối quan hệ giữa các cú hay câu như: Đẳng lập [coordination] và Chính phụ [subordination]. Nhìn chung, có đề cập đến lí thuyết, nhưng công trình chủ yếu đi vào các khía cạnh ứng dụng của phép nối. Năm 2008, công trình bằng tiếng Anh của David Nunan [64] “Introduction Discourse Analysis” - “Dẫn nhập phân tích diễn ngôn” được hai dịch giả Hồ Mỹ Huyền và Trúc Thanh dịch sang tiếng Việt. Sau khi đề cập đến khái niệm diễn ngôn cũng như phân biệt khái niệm diễn ngôn và văn bản, Nunan đề cập đến liên kết, trong đó có phép nối. Ngoài việc đề cập đến khái niệm phép nối, tác giả còn đề cập đến bốn loại quan hệ ngữ nghĩa chủ yếu trong phép nối, đó là: i.Nghich đối, ii.Bổ sung, iii.Thời gian và iv.Nguyên nhân. Ngoài ra, công trình còn đề cập đến khái niệm và phân tích một vài cấu trúc đề thuyết trong diễn ngôn. Do vậy, những lí thuyết của công trình có thể được xem là cơ sở lí thuyết để nghiên cứu ngữ nghĩa, ngữ dụng của phép nối trong tiếng Việt. Như vậy, trong khả năng bao quát tư liệu có thể chưa đầy đủ của chúng tôi, phép nối đã được nhiều nhà Anh ngữ học chú ý đến; và những thành tựu của nó, nhất là về mặt lí thuyết cũng đạt được những nền móng cơ bản. 2.2. Trong nước Phạm vi trong nước, cũng có khá nhiều công trình đề cập đến văn bản, liên kết và cấu trúc, ngữ nghĩa, ngữ dụng của phép nối. Năm 1980, Nhà xuất bản Đại học và trung học chuyên nghiệp Hà Nội đã giới thiệu với bạn đọc công trình “Ngữ pháp tiếng Việt” của Hoàng Trong Phiến [66]. Trong công trình này, điểm đóng góp nổi bật của tác giả chính là đưa ra các mô hình của câu ghép ứng với từng loại quan hệ trong câu ghép - mà theo quan niệm của chúng tôi là phép nối như: i.câu nhân quả, ii.câu điều kiện, iii.câu nhân nhượng, iv.câu mục đích, v.câu so sánh, vi.câu đồng loại, vii.câu tương phản, viii.câu lựa chọn và ix.câu gộp. Chính những mô hình này là tài liệu vô cùng quí báu để chúng tôi xem xét các quan hệ ngữ nghĩa cơ bản của phép nối cũng như bổ sung thêm vào phép nối một hệ thống liên từ thể hiện sự nối kết giữa các cú hay phát ngôn. Năm 1985 [tái bản vào 05/04/1999], công trình của Trần Ngọc Thêm [76] về “Hệ thống liên kết và văn bản Tiếng Việt” đã được công bố. Đây là công trình có giá trị và đánh dấu một bước phát triển mới của ngữ pháp văn bản nói chung, phép nối nói riêng. Công trình nghiên cứu sâu rộng các khía cạnh của văn bản; khái quát cả ba bình diện ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng của phép nối. Công trình trình bày ba phần chính. Phần 1 gồm ba chương, đề cập về các khái niệm và cái nhìn khái quát về “Liên kết văn bản”. Ở phần 2, tác giả bắt đầu đi vào “Các phương thức liên kết giữa các phát ngôn”. Đây là chương đề cập đến các phương thức [phép] liên kết ở mặt hình thức, trong đó có phép nối. Trần Ngọc Thêm dựa trên các loại phát ngôn, chia phép liên kết thành hai loại cơ bản: Phép nối lỏng [dựa trên phương thức liên kết hợp nghĩa và phát ngôn hợp nghĩa] và Phép nối chặt [dựa trên phương thức liên kết trực thuộc và phát ngôn trực thuộc [mà tác giả gọi là ngữ trực thuộc]. Trong phép nối lỏng, Trần Ngọc Thêm còn trình bày mô hình của các yếu tố từ vựng làm thành phần chuyển tiếp hay các từ làm phụ tố có ý nghĩa so sánh [mà chúng tôi gọi chung là liên từ] như: cũng, lại, vẫn, càng, còn, cứ…Tác giả cũng đề cập đến cấu trúc khái quát của phép nối: ArB cũng như trình bày những quan hệ ngữ nghĩa cơ bản của phép nối. Dựa trên quan hệ ngữ nghĩa, tác giả chia phép nối theo ba quan hệ cơ bản, mỗi quan hệ lại có những tiểu loại cơ bản: i.Quan hệ định vị [thời gian, không gian]; ii.Quan hệ logic diễn đạt [bao gồm: Trình tự diễn đạt, Thuyết minh- bổ sung và Xác minh – nhấn mạnh]; và iii.Quan hệ logic sự vật [bao gồm: Nhân quả, và Tương phản – đối lập]. Còn phần 3, tác giả đề cập đến khái niệm liên kết ở mặt nội dung. Tóm lại, đứng trên quan điểm phát ngôn, Trần Ngọc Thêm đã mô tả những đặc điểm cơ bản của một phép nối nói chung. Từ mô hình lí thuyết chung này, chúng tôi kế thừa có điều chỉnh để khảo sát mô hình của một số tiểu loại phép nối. Có thể nói, đây là một trong những công trình nghiên cứu sâu và kỹ về phép nối của tiếng Việt. Năm 2001, Nhà xuất bản Giáo Dục đã ra mắt bạn đọc công trình của Nguyễn Thị Việt Thanh [74] về “Hệ thống kiên kết lời nói tiếng Việt”. Đối tượng nghiên cứu là ngôn bản, đề cập khá sâu về những vấn đề khái quát chung liên quan đến liên kết lời nói, tác giả chia liên kết lời nói thành hai phương thức i.“Bằng phương thức ngữ kết học” và ii.“Bằng phương thức ngữ dụng học”. Trong phương thức liên kết ngữ kết học lại được chia thành ba tiểu loại: Liên kết duy trì chủ đề, Liên kết phát triển chủ đề và Liên kết logic. Trong đó, phép nối thuộc phương thức liên kết logic. Tác giả cũng đã đề cập đến phép nối không có liên từ: “mặc dù từ nối không được sử dụng nhưng quan hệ ngữ nghĩa vẫn được xác lập” [74;50]. Nhưng chung qui lại, đóng góp chủ yếu của công trình là nghiên cứu các phương tiện liên kết trên ngữ liệu lời nói. Năm 2006, quyển “Văn bản và liên kết trong tiếng Việt: Văn bản, Mạch lạc, liên kết, đoạn văn” của Diệp Quang Ban [6] được tái bản [lần thứ ba]. Trong công trình, tác giả trình bày thành từng bài mục rõ ràng về bốn nội dung đã nêu trong nhan đề sách, rất tiện cho việc tham khảo. Ở phần 2, tác giả đã đề cập đến phép liên kết, trong đó có Phép nối [từ tr132-134]. Lấy phát ngôn làm cơ sở nghiên cứu như Trần Ngọc Thêm, Diệp Quang Ban cũng chia phép nối thành hai loại cơ bản: Phép nối lỏng và Phép nối chặt. Đặc biệt, ở phần một, tác giả đã đưa ra khoảng 15 cách hiểu về khái niệm về văn bản, phân biệt khái niệm văn bản và diễn ngôn, ngôn ngữ nói và viết và nêu lên những đặc trưng của một văn bản nói chung. Trần Ngọc Thêm cũng đã đề cập đến cấu trúc đề thuyết – cấu trúc mang ý nghĩa thông báo trong văn bản. Năm 2007, nhà xuất bản Đại học Sư phạm đã cho ra mắt bạn đọc quyển “Văn bản” của tác giả Diệp Quang Ban [7] theo dự án đào tạo giáo viên THPT cuả Bộ Giáo dục và Đào Tạo. Phải công nhận đây là công trình viết khá bao quát về các khía cạnh của văn bản; công trình đề cập hầu hết các phép liên kết, trong đó có phép nối. Trong bài viết của mình, Diệp Quang Ban đã đề cập đến phép nối và các phương tiện nối; và các quan hệ ý nghĩa thường gặp trong phép nối. Về phương tiện nối, ông chia làm hai loại lớn: Quan hệ từ [bình đẳng / phụ thuộc] và Từ ngữ nối kết [đại từ thay thế/những tổ hợp từ ngữ có ý nghĩa quan hệ và có tác dụng liên kết]. Còn về các quan hệ thường gặp trong phép nối, ngoài 4 quan hệ mà Halliday đã nêu: i.bổ sung, ii.tương phản, iii.thời gian, iv.nhân quả; Diệp Quang Ban còn đề cập thêm hai loại quan hệ nữa: mục đích và điều kiện. Nhìn chung, các công trình là một sự tổng hợp từ các công trình đi trước nên sự đóng góp của nó là không đáng kể. Năm 2002, [tái bản 2005] công trình của Hoàng Văn Vân [31] ra đời “Ngữ pháp kinh nghiệm của cú tiếng Việt: Mô tả theo quan điểm chức năng hệ thống”. Đây là công trình mà tác giả viết dựa chủ yếu vào luận án tiến sĩ được tiến hành tại Khoa Ngôn ngữ học, đại học Macquarie, Australia với nhan đề tiếng Anh “An Experiential Grammer of the Vietmam clause: A functional Description”. Công trình dựa trên lý thuyết của M.K.Halliday về cú [clause] trong công trình “An Introduction to Functional Grammer” [Dẫn luận ngữ pháp chức năng] để soi sáng vào tiếng việt. Thật sự, công trình có một ý nghĩa đột phá, đem đến một cách hiểu mới về ngữ pháp văn bản, bên cạnh cách hiểu cũ – dựa vào phát ngôn. Nhìn chung, công trình là sự vận dụng của ngữ pháp Châu Âu vào tiếng Việt. Dù chưa nghiên cứu sâu về phép nối, nhưng công trình ít nhiều đã khẳng định vai trò, ý nghĩa của cú trong việc biểu thị kinh nghiệm [cú như là một sự thể hiện “clause as a representation” để mô hình hóa kinh nghiệm theo quan điểm chức năng hệ thống; do đó, nó có ý nghĩa về mặt lí thuyết cho việc chọn cú làm đơn vị cơ sở của phép liên kết nói chung, phép nối nói riêng. Nhìn chung, những công trình trên đã đề cập khá toàn diện về những vấn đề chung về văn bản, liên kết và phép nối. Năm 1995, Đỗ Thị Kim Liên [56] đã đề cập đến “Quan hệ ngữ nghĩa trong câu ghép không liên từ” - Ngôn ngữ số 2/1995. Trong công trình này, tác giả đã trình bày khá kỹ về quan niệm của các nhà ngữ pháp đi trước: một là không đề cập đến loại câu ghép không liên từ, hai là không tách câu ghép không liên từ thành một đối tượng nghiên cứu riêng. Tác giả cũng đề cập đến “những nhân tố tạo nghĩa trong câu ghép không liên từ”. Đó chính là cấu trúc chuyền tải ý nghĩa; các phương tiện liên kết như phụ từ tình thái, trật tự trước sau…; hay ý nghĩa của các thành tố trong loại câu ghép này. Về quan hệ ngữ nghĩa, vì đánh giá cao vai trò của vị ngữ trong việc thể hiện quan hệ ngữ nghĩa trong câu ghép không liên từ, nên tác giả xem xét các kiểu quan hệ ngữ nghĩa chính của loại câu ghép này trên hai phương diện cơ bản: i.Các kiểu quan hệ ngữ nghĩa giữa các vị ngữ và ii.Số lượng các thành tố trong vị ngữ. Đồng thời, tác giả cũng nêu lên một số quan hệ ngữ nghĩa trong câu ghép không có liên từ như: i.Quan hệ ngữ nghĩa đẳng kết, ii.Quan hệ đối sánh [so sánh đồng nhất, so sánh đối lập - khác biệt, so sánh đối ứng]; và iii.Quan hệ ngữ nghĩa tiếp liên [bao gồm 7 nhóm: nhóm ý nghĩa thời gian – hành động, nhóm quan hệ nguyên nhân – kết quả, nhóm quan hệ điều kiện – kết quả, quan hệ luận chứng – thuyết minh, quan hệ ngữ nghĩa bao hàm, quan hệ giải thích, và quan hệ kết quả, nguyên nhân]. Bên cạnh đó, Đỗ Thị Kim Liên còn đề cập đến “giá trị của các cú trong chỉnh thể của câu ghép”, phần này có liên quan ít nhiều đến tiêu điểm thông báo cũng như quan hệ ngữ nghĩa giữa các cú. Nhìn chung, công trình là tài liệu vô cùng quí giá để chúng tôi nghiên cứu phép nối không có liên từ, các quan hệ ngữ nghĩa trong phép nối và một số cách diễn đạt mang tiêu điểm thông tin khác nhau trong phép nối, tức ngữ dụng. Cũng trong năm 2006, công trình “Các phương tiện tổ chức và liên kết văn bản tiếng Việt” của Nguyễn Chí Hòa [45] ra đời. Công trình đánh dấu một bước ngoặt lớn về khái niệm “câu ghép không có quan hệ từ” – đứng trên quan điểm phát ngôn. Trước đó, một số bài viết của tác giả về vấn đề này đã được công bố trên tạp chí Ngôn ngữ, chẳng hạn như bài “Về khái niệm ngữ pháp hóa và câu ghép không có liên từ” [43]. Căn cứ vào kết quả công trình nghiên cứu của Nguyễn Chí Hòa, cộng với những cứ liệu thống kê được¸ chúng tôi trình bày về phép nối không có liên từ - đứng trên quan điểm cú [clause]. Bên cạnh đó, công trình “Các phương tiện tổ chức và liên kết văn bản tiếng Việt” của Nguyễn Chí Hòa cũng đi sâu vào tìm hiểu các khía cạnh ngữ dụng của các liên từ tiếng Việt. Vấn đề này được chúng tôi vận dụng một cách có bổ sung, điều chỉnh vào phần ngữ dụng ở chương 2. Năm 1999, Nguyễn Hữu Tiến [80] cũng đã giới thiệu với đọc giả bài nghiên cứu của mình về “Quan hệ liên câu trong văn bản tiếng Việt” trong tạp chí Ngôn ngữ Số 1. Công trình đã trình bày tóm lược sơ bộ những khái niệm của Trần Ngọc Thêm về phép nối như khái niệm, phép nối đẳng lập và chính phụ, cũng như chức năng thực hiện liên kết hồi qui và liên kết dự báo của phép nối. Ngoài ra, tác giả cũng đề cập đến “vai trò, ngữ nghĩa, ngữ dụng của các từ ngữ chuyển tiếp chỉ quan hệ nghịch đối”. Đó là tính kết nối, thông qua việc “phá vỡ tính hoàn chỉnh vốn có của nó”. Có mâu thuẫn nhưng mức độ không cao nên câu nghịch đối vừa “tạo lập quan hệ, vừa là dấu hiệu chỉ dẫn hay xác nhận quan hệ”; và đây là quan hệ thực hiện liên kết “hướng ngoại, gián tiếp, hồi chỉ”. Tóm lại, trên định hướng phân loại của Trần Ngọc Thêm, công trình đã cụ thể hóa tương đối tỉ mỉ chi tiết, đồng thời phân chia thêm những tiểu loại mới về các loại quan hệ ý nghĩa trong phép nối tiếng Việt. Đồng thời, tác giả cũng đi vào một quan hệ cụ thể - quan hệ nghịch đối để phân tích giá trị về mặt ngữ dụng của loại quan hệ này. Do đó, công trình có giá trị tham khảo về phương diện ngữ nghĩa, ngữ dụng của luận văn. Cũng năm 2004, Tạp chí Ngôn ngữ số 4 đã đăng bài viết của Võ Văn Chương [16] về “Liên kết hồi qui trong ngôn ngữ học văn bản – Vài kiến nghị về cách xác định và phân loại”. Đóng góp đầu tiên của tác giả là đi vào phân biệt phép tỉnh lược và phép hồi quy. Sau đó, tác giả đi vào miêu tả các dạng thức của liên kết hồi qui, dựa trên hai cơ sở chủ yếu sau: 1].dựa vào từ loại của kết tố và 2].dựa vào quan hệ ngữ nghĩa giữa chủ tố và kết tố. Trên tiêu chí phân loại thứ nhất, tác giả chia liên kết hồi qui thành hai dạng chủ yếu: i..kết tố hồi qui là một đại từ - và ii.kết tố hồi qui là một ngữ danh từ. Hai loại này chủ yếu gặp trong phép thế. Theo tiêu chí phân loại thứ hai, tác giả chia liên kết hồi qui thành ba tiểu loại: i.kết tố hồi qui là sự lặp lại từ vựng của chủ tố, ii.kết tố hồi qui là một ngữ danh từ đồng nghĩa với ngữ danh từ làm chủ tố, và iii.kết tố hồi qui là một ngữ danh từ có khả năng tóm lược nội dung [resomptif] hoặc khái niệm hóa [conceptual] chủ tố và kết tố liên kết với chủ tố thông qua phép liên tưởng. Tuy đề cập chủ yếu đến phép thế, đôi chỗ có nhắc đến phép tỉnh lược, phép liên tưởng mà chưa đi sâu vào chức năng thực hiện liên kết hồi qui của phép nối; nhưng đề cập khá kỹ đến liên kết hồi qui nên công trình đã đưa ra nhiều hướng gợi mở cho việc tìm hiểu cách thức liên kết này trong phép nối nói chung. Chính liên kết hồi qui phục vụ đắc lực cho việc tìm hiểu cấu trúc phép nối ở chương 2. Đến năm 2007, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội cho xuất bản quyển “Dụng học Việt ngữ” của Nguyễn Thiện Giáp [30]. Tác giả dành gần 50 trang để đề cập đến khái niệm “Diễn ngôn” và “Văn bản”, và từ trang 176 đến 178, Nguyễn Thiện Giáp đề cập đến Phép nối. Tác giả chia phép nối thành bốn loại theo quan hệ ngữ nghĩa của chúng: i.Đồng hướng, ii.Ngược hướng, iii.Nhân quả và iv.Thời gian – trình tự. Thực chất của quan hệ đồng hướng là quan hệ bổ sung, của quan hệ ngược hướng là quan hệ tương phản. Ngoài ra, tác giả có đề cập đến liên kết hồi chỉ và khứ chỉ. Theo Nguyễn Thiện Giáp, liên kết hồi chỉ và khứ chỉ là một phương thức liên kết độc lập với phép nối [và cả phép tỉnh lược, phép thế]. Nhưng trong phần ví dụ, tác giả đã dẫn ra một ví dụ về phép liên kết hồi chỉ và khứ chỉ, mà đó chính là phép nối: “Chiều nay được nghỉ học. Thế thì ta đi xem phim nhé.” [30;174]. Liên từ thế thì biểu hiện kết quả trong quan hệ điều kiện nhân quả. Bốn ví dụ còn lại cũng là dạng phép nối không có liên từ [mà theo một số tác giả là phép tuyến tính] – xem thêm trang 174. Nhìn chung, bên cạnh việc đưa ra cách định danh mới về những quan hệ ý nghĩa cơ bản của phép nối; đóng góp của công trình chủ yếu là ở chỗ gợi mở về chức năng thể hiện liên kết hồi chỉ, khứ chỉ của phép nối nói chung. Năm 2004, Lê Thị Minh Hằng [39] đã đóng góp bài viết về “Một đề nghị phân loại câu điều kiện tiếng Việt” cho tạp chí Ngôn ngữ [số 2]. Sau khi thống kê một số cách phân loại câu điều kiện của một số nhà ngữ pháp Tiếng Việt như Hoàng Tuệ, Hoàng Trọng Phiến…; tác giả đã đưa ra kiến nghị về một hướng phân loại riêng. Đứng trên quan điểm ngữ nghĩa, Lê Thị Minh Hằng phân loại câu điều kiện theo hai tiêu chí cơ bản: i.Quan hệ nhân – quả và ii.Tính hiện thực. Theo tiêu chí “quan hệ nhân quả”, tác giả chia câu điều kiện thành hai bộ phận: Bộ phận nêu quan hệ nhân quả và Bộ phận nêu quan hệ tiền đề - kết luận. Theo tiêu chí “tính hiện thực”, tác giả chia câu điều kiện thành hai loại: Điều kiện giả định và phi giả định [hiện thực]. Hệ thống phân loại của tác giả được cụ thể hóa như sau: 1].Điều kiện kết quả: i.Giả định [bao gồm: Giả thuyết, và Phản sự thật] và ii.Phi giả định [bao gồm: Tất yếu và Tập quán. 2].Tiền đề - kết luận [gồm ba tiểu loại: i.Suy đoán, ii.Sóng đôi và iii.Dẫn nhập tình huống]. Ngoài ra, công trình còn cung cấp một số liên từ [mà tác giả gọi là “chỉ tố đánh dấu về mặt hình thức”] thể hiện những loại câu điều kiện trên. Nhìn chung, công trình xoáy sâu vào một quan hệ ngữ nghĩa cơ bản của phép nối - cung cấp một tiêu chí mới đồng thời đưa ra một kết quả phân định mới về loại quan hệ này. Ngoài ra, có một số công trình đánh dấu về việc nghiên cứu về ngữ dụng trong phép nối. Năm 2002, Tạp chí Ngôn ngữ số 5, đã giới thiệu bài báo của Nguyễn Thị Thìn [77] về “Các từ thì, mà, nhưng ở đầu câu trong chức năng liên kết nghĩa học”. Bảy trang của bài báo đã trình bày khá kỹ về tính chất đa chức năng của một số liên từ thông dụng trong tiếng Việt. Chẳng hạn, trong công trình, tác giả đã trình bày các chức năng biểu hiện quan hệ của liên từ “thì” như: i.quan hệ thời gian, ii.quan hệ móc xích – đề thuyết, iii.quan hệ điều kiện/ nguyên nhân – hệ quả. Và liên từ “mà” thể hiện bốn quan hệ chính [mỗi loại lại bao gồm những tiểu loại] sau: i.quan hệ bổ sung [bao gồm ba quan hệ nhỏ: bổ sung – liệt kê, bổ sung – tăng cấp, bổ sung – chú thích], ii.quan hệ đối lập [bao gồm ba quan hệ sau: tương phản [trái ngược], nghịch điều kiện – hệ quả, và mâu thuẫn], iii.quan hệ móc xích đề thuyết đồng thời với quan hệ nhân - quả và iv.quan hệ đối chiếu tương đồng. Còn liên từ “nhưng” lại biểu hiện bốn quan hệ ngữ nghĩa sau: i.quan hệ đối lập, ii.quan hệ bổ sung đồng thời với quan hệ đối lập, iii.quan hệ so sánh tăng cấp đồng thời với quan hệ đối lập và iv.quan hệ hạn định đồng thời với quan hệ đối lập. Qua công trình, chúng ta cũng nhận ra đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ dụng, tức nghiêng về mặt nghĩa học, dụng học của các liên từ nói riêng, phép nối nói chung. Tạp chí ngôn ngữ số 4 năm 2005 đã ra mắt bạn đọc công trình “Quan hệ ngữ nghĩa của các phát ngôn, giái trị tu từ của từ VÀ trong liên kết văn bản tiếng Việt” của tác giả Lương Đình Khánh [51]. Tác giả nêu lên những quan hệ ngữ nghĩa cũng như những chức năng chính yếu của liên từ này: i.quan hệ nguyên nhân [nhân- quả], ii.quan hệ tương phản, iii.quan hệ bổ sung, và iv.quan hệ thời gian – đồng thời và nối tiếp. Đây chính là cơ sở để chúng tôi xem xét ý nghĩa ngữ dụng của một số liên từ đa chức năng trong phép nối tiếng Việt. Trên tạp chí ngôn ngữ số 12, năm 2008 có bài đăng của Nguyễn Đức Dân [23] về “Logic ngữ nghĩa của từ thì”. Trong bài viết, tác giả đã đề cập đến những hàm ý ngữ dụng của cấu trúc nếu…thì, tức quan hệ điều kiện kết quả như: bác bỏ, bác bỏ để khẳng định, giải thích, khuyên, từ chối, đánh giá, khuyên, …Đặc biệt, Nguyễn Đức Dân đã trình bày những quan hệ điều kiện hệ quả không chứa liên từ, mà ý nghĩa điều kiện của chúng vẫn được thể hiện.12 trang báo đã đi sâu vào khai thác ý nghĩa ngữ dụng của phép nối nói chung, một quan hệ ngữ nghĩa cơ bản của phép nối – quan hệ điều kiện – kết quả nói riêng. Điểm nổi bật của tác giả này là đi vào khai thác ý nghĩa ngữ dụng của các quan hệ chủ yếu trong nội bộ một phát ngôn. Ngoài ra, năm 2005, công trình “Bắt buộc” và “tùy ý” về hai cách biểu đạt nghĩa trong ngôn ngữ của Cao Xuân Hạo [37] đã gợi mở về vấn đề so sánh đối chiếu về phép nối giữa tiếng Anh và tiếng Việt. Và tác giả đã khẳng định, chính từ vựng và ngữ pháp là công cụ để xoay quanh trung tâm duy nhất là nghĩa học: “Ta thường thấy có những ngữ nghĩa mà trong ngôn ngữ này thì biểu đạt bằng phương tiện từ vựng mà trong ngôn ngữ kia lại biểu đạt bằng phương tiện ngữ pháp” [37;6]. Tác giả cũng chỉ ra một cách khái quát những sự khác biệt về đặc điểm của loại hình ngôn ngữ có biến đổi hình thái và ngôn ngữ đơn lập, qua đó, tác giả khẳng định cấu trúc nội bộ của từng ngôn ngữ đóng vị trí trung tâm trong việc biểu đạt nói chung. Nhìn chung, công trình có nghĩa phương pháp luận và định hướng cho việc so sánh một số điểm tương đồng và dị biệt của phép nối trong hai ngôn ngữ thuộc hai loại hình khác nhau. Cùng với công trình này, một số luận án nghiên cứu về ngôn ngữ học đối chiếu giữa tiếng Việt và tiếng Anh như: Thái Minh Đức [101] về “A Systematic Functional Interpretation of Vietnamese Grammar” [1998], Nguyễn Thị Thu Hiền [40] về “Cấu trúc Đề - Thuyết” trong bản tin tiếng Anh và tiếng Việt” [2008]... đã gợi mở về việc đối sánh phép nối ở hai ngôn ngữ này. Trên cơ sở kế thừa những công trình lí thuyết và thực tiễn quan sát những bài viết cụ thể, luận văn này đặt nhiệm vụ cho mình là trên cứ liệu tiếng Việt, khảo sát phép nối một cách hệ thống và toàn diện hơn. 3. Mục đích ngiên cứu Chọn và nghiên cứu đề tài này, chúng tôi nhằm hướng đến những vấn đề sau: - Làm rõ cấu trúc và chức năng của phép nối trong văn bản. Từ đó thấy được phần nào vai trò của phép nối trong vấn đề tạo lập và tiếp nhận văn bản. - Đề xuất một số cánh hiểu, cách phân chia mới về cấu trúc và ngữ nghĩa của phép nối, cũng như đưa ra một số đặc điểm ngữ dụng của các liên từ trong phép nối. - Tìm và nêu lên những đặc điểm nổi bật của phép nối trong tiếng việt và tiếng Anh. Đồng thời có những đối sánh cần thiết giữa hai ngôn ngữ để làm rõ, làm nổi bật những đặc điểm đề cập. Từ đó, giúp ích phần nào cho việc học ngoại ngữ và giảng dạy tiếng Việt của bản thân. 4. Phạm vi nghiên cứu Do sự hạn hẹp về kiến thức, thời gian cũng như quy mô của công trình, chúng tôi chỉ tập trung chú ý vào những khía cạnh cơ bản sau: - Như đã xác định, phép nối được chúng ta khảo sát trên ba bình diện: cấu trúc, ngữ nghĩa, ngữ dụng. Và có thể phép nối có liên quan mật thiết với với một số phép liên kết khác, nhưng đối tượng tiếp cận chính của chúng tôi vẫn là phép nối. - Hình thức là hình thức của một nội dung, tuy nhiên, trong cách tiếp cận của chúng tôi, mặt hình thức của phép nối được chú ý nhiều hơn mặt nội dung. - Khi nghiên cứu về phép nối, chúng tôi chỉ chú ý đến những đơn vị có chức năng nối hai hay nhiều cụm câu [cú], phát ngôn với nhau, mà không xem xét những trường hợp liên kết trong nội bộ một phát ngôn, chẳng hạn: Nam và An là bạn thân. Như vậy, chúng tôi chỉ khảo sát nối giữa các cú, không chú ý đến nối trong nội bộ một cú. 5. Phương pháp nghiên cứu Ngoài một số thủ pháp nghiên cứu mà bất kỳ công trình nào, dù khoa học tự nhiên hay khoa học xã hội đều phải sử dụng như sưu tập, miêu tả, phân loại; luận văn này sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chính sau: - Phương pháp hệ thống – cấu trúc: Tính hệ thống, mặt cấu trúc bên trong và các loại quan hệ trong phép nối được luận văn quan tâm, vận dụng. - Phương pháp ngữ nghĩa – cú pháp: Nói tới phép nối, là nói tới các loại quan hệ ngữ nghĩa, do vậy phương pháp này được ưu tiên phân tích. - Phương pháp phân tích ngữ dụng: Phép nối chỉ được thực hiện một cách rõ ràng trong những hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Do vậy, các yếu tố như ngữ cảnh, thể loại, tính tương tác được luận văn vận dụng một cách tổng hợp. 6. Bố cục của luận văn Luận văn được triển khai trong ba chương chính sau: Chương 1: Một số vấn đề chung 1.1. Văn bản 1.2. Liên kết 1.3. Phép nối 1.4. Tiểu kết Chương 2: Phép nối trong tiếng Việt 2.1. Cấu trúc 2.2. Ngữ Nghĩa 2.3. Ngữ dụng 2.4. Tiểu kết Chương 3: Một vài đối sánh về phép nối trong tiếng Anh và tiếng Việt. 3.1. Cấu tạo 3.1.1. Tương đồng 3.1.2. Dị biệt 3.2. Ngữ nghĩa 3.1.1. Tương đồng 3.1.2. Dị biệt 3.3. Ngữ dụng 3.1.1. Tương đồng 3.1.2. Dị biệt 3.4. Tiểu kết Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Văn bản 1.1.1. Khái niệm Có nhiều quan niệm khác nhau về văn bản. Một số tác giả cho rằng văn bản là sản phẩm của cả hoạt động viết và nói, tức giao tiếp nói chung. Sách giáo khoa Tiếng Việt 9 [NXBGD – 1995] định nghĩa văn bản như sau: “Văn bản là sản phẩm của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, nó là một thể thống nhất có tính trọn vẹn về nội dung, hoàn chỉnh về hình thức”. D.Crystal cũng quan niệm rằng “Văn bản là một sản phẩm diễn ngôn xuất hiện một cách tự nhiên dưới dạng nói, viết hoặc biểu hiện bằng cử chỉ, được nhận dạng vì những mục đích phân tích. Nó thường là một chỉnh thể ngôn ngữ với một chức năng giao tiếp có thể xác định được, ví dụ như một cuộc thoại, một tờ áp phích.” [97;72]. Nhưng một số tác giả lại cho rằng văn bản chỉ thuộc dạng viết. Theo David Nunan: “…tôi sẽ sử dụng thuật ngữ văn bản để chỉ bất kì cái nào ghi bằng chữ viết của một sự kiện giao tiếp.”[64;21], bởi tác giả phân biệt khái niệm văn bản với khái niệm diễn ngôn - văn bản trong ngữ cảnh, tức văn bản nói. Theo G. Cook thì “Văn bản: một chuỗi ngôn ngữ giải quyết được ở mặt hình thức, bên ngoài ngữ cảnh.” [95;158]. G.Brown và G.Yule cũng khẳng định: “Chúng ta sẽ sử dụng văn bản như một thuật ngữ chuyên môn, để nói đến việc ghi lại bằng ngôn từ của một hành động giao tiếp.” [10;6]. Theo Bùi Tất Tươm, văn bản luôn tồn tại trong quá trình giao tiếp, được đặt trong một bối cảnh giao tiếp nhất định. Theo quan điểm của Jacques Lerot – Précis de lingúitique générale, tác giả này khẳng định: “Văn bản là một phần của lời nói có tính độc lập và mạch lạc tạo thành một hành động giao tiếp hoàn chỉnh mà nội dung được tổ chức xoay quanh một đề tài.”[84;65]. Diệp Quang Ban, trong công trình “Văn bản và liên kết trong tiếng Việt” đã đề cập đến định nghĩa của Barthes như sau: “Chúng ta sẽ gọi cái khách thể của xuyên ngôn ngữ học [translinguistics] là diễn ngôn [discourse] – tương tự như văn bản [texte] do ngôn ngữ học nghiên cứu, và chúng ta sẽ định nghĩa nó [hãy còn sơ bộ] như là một đoạn lời nói hữu tận bất kỳ, tạo thành một thể thống nhất xét từ quan điểm nội dung, được truyền đạt cùng với những mục đích giao tiếp thứ cấp, và có một tổ chức nội tại phù hợp với những mục đích này, vả lại, [đoạn lời này] gắn bó với những nhân tố văn hóa khác nữa, ngoài những nhân tố có quan hệ đến bản thân ngôn ngữ [langue].” [Barthes] [dẫn theo [6];15-16 ]. Tán thành quan điểm thứ nhất về văn bản và để tiện cho việc khảo sát, chúng ta tạm theo quan niệm của Halliday về khái niệm văn bản. Theo Halliday, văn bản – một đơn vị của ngôn ngữ - được xác định không phải dựa vào độ dài ngắn, dạng nói hay viết - “witten or spoken”, bao gồm một động từ hay nhiều…mà dựa vào tính chỉnh thể, thống nhất về nội dung ngữ nghĩa của nó - “a semantic unit”: “The word text is used in linguistics to refer any passage, spoken or written, of whatever of length, that does form a unified whole.” [108;1] [Văn bản là một thuật ngữ ngôn ngữ học được dùng để chỉ bất cứ phần văn bản nào, dù là dạng nói hay viết, dù là dài hay ngắn, nhưng phải là một chỉnh thể thống nhất]; hay – “a text is a unit of language in use” [văn bản là một đơn vị của ngôn ngữ tồn tại trong quá trình sử dụng – giao tiếp hay tư duy]. Theo Halliday, khái niệm văn bản không phải bao giờ cũng được xác định một cách rõ ràng. Theo tác giả, mọi người hay hiểu lầm rằng chúng ta có thể dễ dàng xác định những bộ phận [câu, cụm câu] nào sẽ cấu thành nên một văn bản. Nhưng thật sự thì văn bản được xác định tùy theo văn cảnh và nội dung của những câu, cụm câu đi trước va sau nó: “…We can consider that a new text begins where a sentence shows no cohesion with those that have preseded.” [Một văn bản được đánh dấu ở chỗ bắt đầu một câu mà câu đó không hề có mối quan hệ nào với những câu trước đó] [108;295]. Như vậy, theo Halliday nếu cụm câu [bao gồm nhiều câu – phát ngôn] có mối quan hệ về ý nghĩa sẽ tạo thành một văn bản. Theo cách hiểu này, Halliday chỉ quan tâm đến mội dung ý nghĩa mà không quan trọng hóa về mặt hình thức của văn bản. Đồng thời, việc giải mã văn bản không phải là chuyện dễ dàng và đơn giản, nó không chỉ đòi hỏi tri thức về ngôn ngữ học mà còn là những kiến thức liên quan đến văn hóa, xã hội, tâm lí… 1.1.2. Đặc điểm Bùi Tất Tươm đã đưa ra những đặc điểm của văn bản như: Tính mục đích, tính hoàn chỉnh [nội dung và hình thức] và tính mạch lạc. - Tính mục đích: Đó là ý định tác động của người nói, viết được cụ thể hoá qua văn bản bằng lực ngôn trung của nó [ví dụ: miêu tả, tường thuật, nghi vấn, yêu cầu, ra lệnh, khẳng định, thuyết phục, đề nghị…]. Tác giả Bùi Tất Tươm lại khẳng định: “Văn bản là sản phẩm của hoạt động ngôn ngữ - một trong những công cụ của hoạt động ứng xử” mà lực ngôn trung có thể thực hiện được hoàn toàn hay một phần mục đích giao tiếp. Chúng tôi đồng ý với ý kiến của tác giả Bùi Tất Tươm, nhưng bổ sung một vài điểm: Thứ nhất, văn bản là sản phẩm của hoạt động giao tiếp, nó không là mục đích mà là công cụ của quá trình trao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm giữa người và người. Thứ hai, không thể chỉ là mục đích của hoạt động giao tiếp, văn bản là một chỉnh thể trong đó bao gồm các yếu tố như: nội dung, mục đích, đối tượng, hoàn cảnh…giao tiếp. - Tính chỉnh thể: Có thể hiểu đó là sự thống nhất giữa hai mặt nội dung và hình thức, cả đề tài và chủ đề và tất cả các thành tố cấu thành văn bản. Chủ đề: là vấn đề trung tâm mà văn bản đề cập, nó là cơ sở cho sự lí giải, tiếp nhận văn bản. Chủ đề khác với đề tài - vấn đề được chọn từ thực tế khách quan để làm cơ sở thể hiện chủ đề của văn bản. Thông tin [có thể là hiển ngôn – thông tin bề mặt, trực tiếp của văn bản; bao gồm thông tin cơ sở và thông tin bổ sung]; hoặc hàm ngôn – thông tin gián tiếp, thông tin chìm được suy ra dựa vào thông tin hiển ngôn và những tri thức nền của cộng đồng ngôn ngữ đó. Vì là một chỉnh thể, nên sự thay đổi hay mất đi bất cứ một thành tố nào cũng sẽ dẫn đến sự thay đổi của toàn bộ hệ thống [văn bản]. - Tính mạch lạc: Tức là sự liên kết bề sâu của văn bản, làm cho các ý được rõ ràng, dễ hiểu. Tính mạch lạc có mối quan hệ mật thiết với tính logíc. Chính sự thống nhất giữa chủ đề - đề tài là một trong những yếu tố tạo nên tính mạch lạc cho văn bản. Vì thế, để đảm bảo cho văn bản có tính mạch lạc, các thông tin phải được tổ chức một cách hợp lí [ví dụ theo quan hệ giải thích, bổ xung, nhân quả, tương phản…], chủ đề bộ phận phải thống nhất với chủ đề chung của văn bản. Và sự mạch lạc được sự hỗ trợ đắc lực của một số hình thức diễn đạt [đặc biệt là phép nối mà chúng tôi sẽ đề cập sau]. Tóm lại: “Mạch lạc là tập hợp những quan hệ có ý nghĩa dùng cho mọi văn bản, phân biệt văn bản với “phi văn bản” và làm phương tiện liên hệ phụ thuộc lẫn nhau về nội dung giữa các câu, các đoạn văn cụ thể. Mạch lạc không nêu văn bản thông tin cái gì, mà nêu văn bản tổ chức thành chỉnh thể ngữ nghĩa như thế nào?” [84;370].

Video liên quan

Chủ Đề