Tài sản không sinh lời của ngân hàng bao gồm

“Chất lượng tài sản thấp vẫn là rủi ro đối với ngành ngân hàng”, đó là đánh giá gần đây của Ngân hàng Thế giới [WB] về rủi ro hệ thống của ngân hàng Việt Nam. Không những thế, tại một số ngân hàng, tỷ trọng tài sản không sinh lời đang có dấu hiệu tăng lên, càng ảnh hưởng đến hệ số sinh lời của các ngân hàng. Với áp lực lạm phát ảnh hưởng đến mặt bằng lãi suất trong thời gian tới, chất lượng tài sản các ngân hàng có thể càng thêm suy yếu.

Về cơ bản, tài sản của một ngân hàng có thể phân ra làm hai phần chính là tài sản sinh lời và tài sản không sinh lời, trong đó tài sản sinh lời thường chiếm trên 90% tổng tài sản tại các ngân hàng với dư nợ cho vay chiếm tỷ trọng chủ yếu. Tuy nhiên, những năm gần đây, phần tài sản không sinh lời của một số ngân hàng đã tăng lên mức cao hơn, ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động và khả năng sinh lời của ngân hàng.

Chất lượng tài sản thấp

Dư nợ cho vay là khoản mục chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tài sản sinh lời nói riêng và tổng tài sản nói chung của một ngân hàng. Tuy nhiên, nợ xấu tăng cao trong những năm gần đây khiến chất lượng tín dụng của các ngân hàng xuống mức rất thấp. Chẳng những thế, giá trị các tài sản bảo đảm cho các khoản vay, thường là bất động sản, cũng bị giảm giá mạnh trong bối cảnh thị trường nhà đất sụt giảm mạnh.

Trong thời kỳ phát triển tín dụng dễ dãi trước đây, các tài sản bảo đảm thường được định giá cao để nâng giá trị khoản vay, nhưng đến khi phát sinh nợ quá hạn, các ngân hàng buộc phải chuyển nhóm nợ thì họ lại ít khi muốn định giá lại giá trị các tài sản bảo đảm cho sát giá trị thực, dẫn đến trích lập dự phòng rủi ro chưa đầy đủ.

Thực tế không loại trừ có những nhóm khách hàng tìm cách vay vốn tại các ngân hàng và móc nối thổi giá trị tài sản bảo đảm lên cao chót vót để được vay vốn nhiều hơn. Sau đó, dòng vốn này được rót vào các tài sản khác, rồi các tài sản mới mua này lại được thế chấp ở các ngân hàng, được định giá cao hơn giá trị thực để rút vốn ra. Vòng quay mua thêm các tài sản rồi thế chấp, vay vốn cứ thế tiếp tục...

Như vậy, với một khoản tiền ban đầu, nhóm khách hàng này đã sử dụng đòn bẫy vốn vay từ ngân hàng quay vòng và đẩy tổng tài sản lên rất cao, nhờ vào các chiêu thức móc nối thổi giá trị tài sản bảo đảm. Mục tiêu của những nhóm khách hàng như trên là tìm lợi nhuận từ mức chênh lệch giữa giá trị thực của tài sản bảo đảm và giá trị định giá của ngân hàng để vay vốn, còn việc thanh lý, xử lý tài sản bảo đảm sau đó nếu phát sinh thành nợ xấu là chuyện của... ngân hàng.

Đối với các khoản vay đã được bán sang VAMC thì công tác thu hồi và xử lý quá chậm, khiến chi phí tài chính của các ngân hàng tăng lên và khả năng hỗ trợ cho nền kinh tế của các ngân hàng cũng bị giới hạn. Mặc dù gần đây cơ chế xử lý nợ xấu đã dành nhiều quyền chủ động hơn cho VAMC, tuy nhiên, với thị trường mua bán tài sản còn nhiều hạn chế thì dự báo công tác xử lý khối nợ xấu mà VAMC mua từ các ngân hàng thương mại sẽ tiếp tục bị nghẽn.

Phần tài sản không sinh lời tại các ngân hàng thường chiếm tỷ trọng khoảng 10% nhưng gần đây, tỷ lệ này tại một số ngân hàng tăng lên tới 20%, chủ yếu do gặp khó khăn trong việc thu hồi các khoản phải thu khó đòi, trong khi các khoản lãi dự thu dồn tích qua nhiều năm nhưng thực tế lại chưa thu được. Điều đó cho thấy chất lượng quản lý tín dụng của các ngân hàng này còn nhiều yếu kém, và việc chuyển nhóm nợ chưa được thực hiện triệt để theo đúng các quy định của Thông tư 02 và Thông tư 09.

Nguồn vốn bị nghẽn, chi phí ngân hàng phải gánh chịu

Nguồn vốn huy động đầu vào của các ngân hàng đang bị nhốt lại ở các tài sản được xem như “tiền chết”, mà một phần nằm ở nợ xấu thực tế, các khoản vay đã bán cho VAMC hiện đang tồn tại dưới dạng trái phiếu đặc biệt và những khoản tài sản không sinh lời lớn nằm ở các khoản phải thu, lãi và phí phải thu chưa thu được.

Với yếu tố nợ xấu, các khoản vay này vừa không còn thu được lãi trong khi các ngân hàng vẫn phải chịu chi phí tài chính để trả lãi tiền gửi cho khách hàng.

Với các trái phiếu đặc biệt, hiện tại lãi suất cho các trái phiếu này bằng 0% và các ngân hàng hàng năm vẫn phải trích lập chi phí dự phòng cho các trái phiếu này. Tuy Ngân hàng Nhà nước có quy định cho phép các ngân hàng chiết khấu trái phiếu này để vay vốn tại Ngân hàng Nhà nước, nhưng thời gian vừa qua chỉ mới có một số ít ngân hàng thật sự gặp khó khăn về thanh khoản là có thực hiện.

Do đó, giá trị tài sản được xem như “tiền chết” này tuy giúp các ngân hàng làm đẹp bảng cân đối nhưng thực tế vẫn khiến các ngân hàng phải gánh chi phí khá lớn trong hoạt động kinh doanh.

Chẳng những thế, với lượng “tài sản chết” lớn như thế, các ngân hàng dĩ nhiên phải gánh chịu chi phí khá cao cho giá trị tài sản này. Giả sử một ngân hàng có đến 30% tài sản có chất lượng thấp và không có khả năng sinh lời như trên, tức lợi suất sinh lời là 0%, thì với nguồn vốn huy động đầu vào bình quân 5%, các ngân hàng đang có đến 30% tài sản có biên độ lợi suất âm 5%.

Như vậy, 70% tài sản còn lại phải được duy trì một biên độ lãi suất đủ cao để bù đắp cho phần lợi nhuận âm của 30% tài sản này. Vì thế, các ngân hàng với chất lượng tài sản thấp khó có thể giảm lãi suất là điều đương nhiên.

Tiềm ẩn rủi ro cho hệ thống

Với nguồn vốn khá lớn bị chết dí ở các “tài sản chết” như thế, rõ ràng các ngân hàng đang không thể mặc sức sử dụng tối ưu được nguồn tiền gửi để kinh doanh. Thậm chí, một số ý kiến còn cho rằng các ngân hàng đang phải huy động tiền gửi của người gửi sau để trả lãi cho người gửi trước.

Đây chính là những rủi ro tiềm ẩn thật sự cho hệ thống, vì khi không thể khơi thông được lượng tài sản chết này, mà giá trị của chúng ngày càng tăng lên, thì áp lực huy động đầu vào của các ngân hàng phải tăng theo tương ứng.

Với áp lực lạm phát đang ngày càng tăng, tăng trưởng tín dụng nóng trở lại từ năm 2015 đến nay và mặt bằng lãi suất có thể lên cao theo áp lực lạm phát, thì trong thời gian tới, các ngân hàng có thể tiếp tục đối mặt với thách thức chất lượng tài sản bị suy yếu.

Vì khi tín dụng tăng trưởng nóng mà không được quản lý và kiểm soát tốt, nguồn vốn dễ dãi này có thể chạy vào những khu vực mang nhiều rủi ro hơn để tìm kiếm lợi nhuận tốt hơn, đồng nghĩa với việc khả năng hoàn trả cho ngân hàng nếu rủi ro thật sự xảy ra sẽ thấp hơn.

Trong khi đó, nếu mặt bằng lãi suất tăng sẽ gây khó khăn cho hoạt động của các doanh nghiệp nhiều hơn, chi phí tài chính gia tăng, khả năng sinh lời sụt giảm, vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp cũng sẽ yếu đi và từ đó có thể gặp phải khó khăn về dòng tiền cũng như khả năng trả nợ cho ngân hàng, do vậy gây ra nợ xấu cho hệ thống, điều mà thực tế đã diễn ra trong giai đoạn lãi suất cho vay bị đẩy lên trên 20% trong những năm trước đây.

 Theo thesaigontimes.vn

Sức mạnh thu nhập là một con số đánh giá khả năng tạo ra lợi nhuận của một doanh nghiệp trong thời gian dài, giả sử tất cả các điều kiện hoạt động hiện tại nói chung là không đổi. Các nhà phân tích cổ phiếu đánh giá theo nghi thức khả năng kiếm tiền của một công ty khi đưa ra các khuyến nghị mua và bán để xác định tốt nhất xem cổ phiếu của công ty có đáng để đầu tư hay không. Trong đó, tài sản sinh lời là một trong những yếu tố quan trọng, cốt lõi. 

Luật sư tư vấn luật qua điện thoại trực tuyến miễn phí: 1900.6568             

1. Tài sản sinh lời là gì?

– Tài sản sinh lời[ Earning assets] / Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản [ROTA]  là một trong những chỉ số sinh lời đo lường mức độ hiệu quả của công ty quản lý tài sản của mình để thu được lợi nhuận trong thời kỳ đó và công thức của nó là một tỷ lệ đơn giản giữa Lợi nhuận hoạt động trên Tài sản trung bình của công ty

– Thu nhập các yếu tố sức mạnh trong một số yếu tố, bao gồm tổng tài sản của công ty, cộng với xu hướng tăng trưởng hoặc thua lỗ gần đây. Khả năng thu nhập cũng xem xét các chỉ số như lợi nhuận trên tài sản [ROA] của công ty, là khả năng tạo ra lợi nhuận từ tài sản của nó, cũng như lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu [ROE], là thước đo hiệu quả tài chính của một cổ phiếu. Hơn nữa, một số công ty xác định khả năng thu nhập dựa trên lợi tức cổ tức liên quan đến chứng khoán cụ thể.

– Các thước đo sức mạnh thu nhập để xác định tình trạng kinh doanh hiện tại:  Một công ty có thể trau dồi cái nhìn sâu sắc về khả năng thu nhập của mình bằng cách kiểm tra thu nhập trước lãi vay và thuế [ EBIT ]. Tính toán này kiểm tra khả năng thu nhập của một công ty dựa trên các hoạt động liên tục, cũng như dòng tiền. Nói chung, bằng cách loại trừ bất kỳ và tất cả các khoản thu nhập hoặc chi phí không thường xuyên, EBIT cung cấp một bản chụp nhanh đáng tin cậy về hồ sơ thanh khoản của công ty, khả năng đáp ứng các nghĩa vụ nợ và tình trạng tổng thể của công ty.

– Sức mạnh thu nhập giả định rằng các điều kiện lý tưởng sẽ tiếp tục bao quanh doanh nghiệp. Nó không tính đến bất kỳ biến động bên trong hoặc bên ngoài nào có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tốc độ sản xuất. Do đó, có một rủi ro luôn hiện hữu là sự biến động của thị trường chung, các hạn chế về quy định hoặc các sự kiện không lường trước khác có thể ảnh hưởng đến dòng chảy kinh doanh theo những cách mà khả năng thu nhập không thể lường trước được.

– Các tỷ suất lợi nhuận trên tài sản công thức sẽ đo lường mức độ hiệu quả mà công ty hoặc tổ chức có thể kiếm được từ khoản đầu tư vào tài sản. Nói cách khác, ROTA mô tả mức độ hiệu quả của công ty hoặc công ty hoặc tổ chức có thể chuyển đổi số tiền hoặc số tiền được sử dụng để mua những tài sản đó thành lợi nhuận hoạt động hoặc thu nhập hoạt động.

– Vì tất cả tài sản có thể được tài trợ bằng nợ hoặc vốn chủ sở hữu, nên tỷ lệ này phải được tính bằng cách cộng lại chi phí lãi vay trong công thức trên. Thu nhập hoạt động phải được tính cho tử số. Sau đó, người ta cần lấy tài sản trung bình làm mẫu số vì công ty tiếp tục hoạt động kinh doanh, một tài sản liên tục thay đổi trong cả năm, và do đó, lấy một tổng tài sản sẽ dẫn đến con số có lẽ sai lệch.

– Công thức cơ bản về thu nhập năng lượng:  Công thức tỷ suất sinh lợi cơ bản [BEP], còn được gọi là tỷ lệ khả năng kiếm tiền cơ bản, như sau:

Sức mạnh thu nhập cơ bản = Thu nhập trước lãi vay và thuế [EBIT] / Tổng tài sản

– Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản [ROTA] là tỷ số đo lường thu nhập trước lãi vay và thuế [EBIT] của một công ty so với tổng tài sản ròng của nó. Nó được định nghĩa là tỷ số giữa thu nhập ròng và tổng tài sản bình quân, hoặc số thu nhập hoạt động và tài chính mà một công ty nhận được trong một năm tài chính so với mức trung bình của tổng tài sản của công ty đó. một công ty đang sử dụng tài sản của mình để tạo thu nhập một cách hiệu quả. EBIT được sử dụng thay vì lợi nhuận ròng để giữ cho số liệu tập trung vào thu nhập hoạt động mà không bị ảnh hưởng bởi thuế hoặc chênh lệch tài chính khi so sánh với các công ty tương tự.

– Thu nhập của một công ty tương ứng với tài sản của nó càng lớn [và hệ số từ cách tính này càng lớn], thì công ty đó được cho là sử dụng tài sản của mình càng hiệu quả. ROTA, được biểu thị dưới dạng phần trăm hoặc số thập phân, cung cấp thông tin chi tiết về số tiền được tạo ra từ mỗi đô la đầu tư vào tổ chức.
Điều này cho phép tổ chức thấy được mối quan hệ giữa các nguồn lực và thu nhập của mình và nó có thể cung cấp một điểm so sánh để xác định xem một tổ chức đang sử dụng tài sản của mình hiệu quả hơn hay kém hơn so với trước đây. Trong trường hợp công ty kiếm được một đô la mới cho mỗi đô la đầu tư vào nó, ROTA được cho là một, hoặc 100 phần trăm.

– Để tính ROTA, hãy chia thu nhập ròng cho tổng tài sản trung bình trong một năm nhất định hoặc cho khoảng thời gian mười hai tháng sau nếu dữ liệu có sẵn. Tỷ lệ tương tự cũng có thể được biểu thị dưới dạng tích số của tỷ suất lợi nhuận và vòng quay tổng tài sản.

2. Tài sản sinh lời của ngân hàng là gì?

– Một số lĩnh vực và / hoặc ngành riêng lẻ đặt tầm quan trọng của các chỉ số cụ thể để tính toán thu nhập hơn những lĩnh vực khác. Trường hợp cụ thể: tỷ suất cổ tức có trọng lượng lớn hơn với các công ty blue-chip có uy tín hơn so với các công ty khởi nghiệp đang phát triển nhanh chóng, vốn có nhiều khả năng tái đầu tư lợi nhuận vào hoạt động của họ trong các giai đoạn phát triển.

– Để tính ROTA, hãy lấy số liệu thu nhập ròng từ báo cáo thu nhập của công ty, sau đó cộng lại lãi suất và / hoặc thuế đã trả trong năm. Kết quả số thu được là EBIT của công ty. Sau đó, số EBIT sẽ được chia cho tổng tài sản ròng của công ty để hiển thị thu nhập mà công ty đã tạo ra cho mỗi đô la tài sản trên sổ sách của mình. Tổng tài sản bao gồm các tài khoản trái ngược với tỷ lệ này, có nghĩa là dự phòng cho các tài khoản khó đòi và khấu hao lũy kế đều được trừ vào số dư tổng tài sản trước khi tính tỷ lệ này.

– Hạn chế của việc sử dụng Lợi tức trên tổng tài sản [ROTA]: Theo thời gian, giá trị của tài sản có thể giảm đi hoặc tăng lên. Trong trường hợp bất động sản, giá trị của tài sản có thể tăng lên. Mặt khác, hầu hết các bộ phận cơ khí của một doanh nghiệp, chẳng hạn như xe cộ hoặc máy móc khác, thường mất giá theo thời gian do hao mòn ảnh hưởng đến giá trị của chúng.

– Vì công thức ROTA sử dụng giá trị ghi sổ của tài sản từ bảng cân đối kế toán nên nó có thể thấp hơn đáng kể giá trị thị trường thực tế của tài sản cố định. Điều này dẫn đến kết quả tỷ số cao hơn cho thấy tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản cao hơn mức bình thường do mẫu số [tổng tài sản] quá thấp.

– Một hạn chế khác là tỷ lệ này hoạt động như thế nào với các tài sản được tài trợ. Nếu một khoản nợ được sử dụng để mua một tài sản, ROTA có thể có vẻ thuận lợi, trong khi công ty thực sự có thể gặp khó khăn khi thanh toán chi phí lãi vay.

– Các yếu tố đầu vào tỷ lệ có thể được điều chỉnh để phản ánh giá trị chức năng của tài sản đồng thời tính đến lãi suất hiện đang được trả cho một tổ chức tài chính. Ví dụ: nếu một tài sản được mua bằng nguồn vốn từ một khoản vay với lãi suất 5% và lợi tức của tài sản liên kết là 20%, thì ROTA đã điều chỉnh sẽ là 15%.

– Vì nhiều công ty mới hơn có số nợ liên quan đến tài sản của họ cao hơn, những điều chỉnh này có thể khiến doanh nghiệp trông kém hấp dẫn hơn trong mắt các nhà đầu tư. Khi những khoản nợ đó bắt đầu được xóa, ROTA sẽ xuất hiện để cải thiện tương ứng. Nếu tỷ lệ ROTA cao hơn, thì nó được coi là thuận lợi hơn cho các bên liên quan hoặc nhà đầu tư vì nó mô tả rằng công ty hoặc công ty đang quản lý tài sản của mình một cách hiệu quả và hiệu quả hơn để kiếm được hoặc tạo ra lượng lợi nhuận hoặc thu nhập lớn hơn. Tỷ lệ ROTA không âm thường cho biết xu hướng tăng của lợi nhuận.

– ROTA được sử dụng rộng rãi khi so sánh các công ty hoặc công ty trong cùng một ngành với một số ngành sử dụng tài sản khác nhau. Ví dụ, các công ty xây dựng sẽ sử dụng thiết bị đắt tiền, số lượng lớn trong khi các công ty phần mềm hoặc các công ty sẽ sử dụng máy chủ và máy tính.

Video liên quan

Chủ Đề