Theo triết học mác-lênin cơ sở hạ tầng là

3. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội

a. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

- Cơ sở hạ tầng

+ Khái niệm: Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự vận động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội.

+ Cấu trúc của cơ sở hạ tầng:

* Quan hệ sản xuất thống trị

* Quan hệ sản xuất tàn dư

* Quan hệ sản xuất mầm mống

+ Đặc trưng của cơ sở hạ tầng:

* Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm những quan hệ sản xuất thống trị, những quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai.

* Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể được đặc trưng bởi quan hệ sản xuất thống trị của xã hội đó, vì quan hệ sản xuất thống trị giữ vai trò chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác.

- Kiến trúc thượng tầng

+ Khái niệm: Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội với những thiết chế xã hội tương ứng cùng những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.

+ Cấu trúc của kiến trúc thượng tầng:

* Các tư tưởng xã hội: tư tưởng chính trị, đạo đức, pháp quyền, triết học, nghệ thuật, tôn giáo...

* Các thiết chế xã hội: nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể và tổ chức xã hội.

+ Đặc trưng của kiến trúc thượng tầng:

* Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm, quy luật phát triển riêng, nhưng có liên hệ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và đều hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.

* Trong kiến trúc thượng tầng, mỗi yếu tố khác nhau có quan hệ khác nhau với cơ sở hạ tầng. Các yếu tố như chính trị, pháp luật có quan hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng, những yếu tố như triết học, tôn giáo, nghệ thuật chỉ có quan hệ gián tiếp với cơ sở hạ tầng.

* Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp.

* Trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp, nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng, tiêu biểu cho chế độ chính trị của một xã hội nhất định.

b. Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội

- Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng

+ Cơ sở hạ tầng quyết định nội dung, tính chất của kiến trúc thượng tầng:

* Mỗi cơ sở hạ tầng đều hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng.

* Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị về chính trị, đời sống tinh thần của xã hội.

+ Cơ sở hạ tầng quyết định sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng:

* Khi cơ sở hạ tầng thay đổi, thì sớm hay muốn kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. Nguyên nhân của sự biến đổi đó, xét đến cùng là do sự phát triển của lực lượng sản xuất.

* Quá trình đó diễn ra không chỉ từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái - kinh tế xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong chính mỗi hình thái kinh tế - xã hội.

* Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến thay đổi kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp. Có yếu tố của kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi của cơ sở hạ tầng [chính trị, pháp luật], có những yếu tố thay đổi chậm [nghệ thuật, tôn giáo], hoặc có nhân tố vẫn được kế thừa trong xã hội mới.

- Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng

+ Vai trò của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng:

* Chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là củng cố, hoàn thiện, bảo vệ cơ sở hạ tầng sinh ra nó, ngăn chặn cơ sở hạ tầng mới, đấu tranh xóa bỏ tàn dư cơ sở hạ tầng cũ.

* Kiến trúc thượng tầng trong xã hội có giai cấp đảm bảo sự thống trị về chính trị và tư tưởng của giai cấp thống trị về kinh tế. Nếu giai cấp thống trị không xác lập được sự thống trị về chính trị và tư tưởng, cơ sở kinh tế của nó không thể đứng vững được.

* Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều tác động đến cơ sở hạ tầng một cách khác nhau. Trong đó, yếu tố nhà nước tác động mạnh nhất, trực tiếp nhất tới cơ sở hạ tầng. Các yếu tố khác như văn hóa, nghệ thuật, triết học, đạo đức... đều bị chi phối bởi nhà nước, pháp luật.

+ Kiến trúc thượng tầng tác động đến cơ sở hạ tầng theo hai chiều hướng:

* Nếu kiến trúc thượng tầng phản ánh đúng tính tất yếu kinh tế, các quy luật kinh tế khách quan sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển.

* Nếu kiến trúc thượng tầng không phản ánh đúng tính tất yếu kinh tế, các quy luật kinh tế khách quan sẽ kìm hàm sự phát triển kinh tế.

- Vài nét về cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong chủ nghĩa xã hội

+ Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa không hình thành tự phát trong lòng xã hội cũ, mà được xác lập thông qua cách mạng xã hội chủ nghĩa.

+ Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng phải tiến hành từng bước với những hình thức, quy mô thích hợp, tránh khuynh hướng chủ quan, duy ý chí.

+ Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa khi phát triển đầy đủ và hoàn thiện sẽ có bản chất ưu việt: Cơ sở hạ tầng không còn mâu thuẫn đối kháng, trong kết cấu kinh tế không có sự đối lập về lợi ích kinh tế; kiến trúc thượng tầng là sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong toàn xã hội, dựa trên hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, thể hiện vai trò của nhà nước và pháp luật.

- Ý nghĩa trong đời sống xã hội

+ Là cơ sở khoa học để nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Kinh tế và chính trị có mối quan hệ biện chứng, trong đó kinh tế quyết định chính trị, chính trị tác động trở lại đối với kinh tế.

+ Trong nhận thức và thực tiễn, nếu tách rời và tuyệt đối hóa một yếu tố nào đều là sai lầm:

* Nếu tuyệt đối hóa kinh tế, hạ thấp hoặc phủ nhận yếu tố chính trị là rơi vào quan điểm duy vật tầm thường, dẫn đến vô chính phủ, bất chấp kỉ cương, pháp luật.

* Nếu tuyệt đối hóa chính trị, hạ thấp hoặc phủ định vai trò của kinh tế sẽ dẫn đến duy tâm, duy ý chí, nôn nóng, chủ quan, đốt cháy giai đoạn.

+ Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam rất quan tâm đến nhận thức và vận dụng quy luật này. Trong thời kì đổi mới, Đảng ta chủ trương đổi mới toàn diện cả kinh tế và chính trị, trong đó đổi mới kinh tế là trung tâm, đồng thời đổi mới chính trị từng bước, thận trọng, vững chắc với những hình thức và bước đi thích hợp.

Trong suốt tiến trình lịch sử xã hội, mỗi hình thái kinh tế – xã hội cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng với những đặc điểm riêng của nó. Giữa chúng có mối quan hệ biện chứng, trong đó cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, còn kiến trúc thượng tầng có sự tác động trở lại nhất định lên cơ sở hạ tầng.

I. Khái niệm 

Trong lịch sử, mỗi xã hội có một kiểu những quan hệ vật chất cơ bản nhất. Đó là những quan hệ sản xuất ứng với những lực lượng sản xuất nhất định.

Phù hợp với kiểu quan hệ sản xuất đó là một hệ thống những quan hệ về chính trị, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật… Những quan hệ chính trị, tinh thần này được thể hiện thông qua những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, tòa án, giáo hội và các tổ chức xã hội khác…

Các khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng phản ánh sự liên hệ, tác động lẫn nhau giữa những quan hệ kinh tế và những quan hệ chính trị, tinh thần được hình thành trên các quan hệ kinh tế đó.

1. Cơ sở hạ tầng là gì?

– Cơ sở hạ tầng, với tư cách là khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định.

Ở đây, ta cần phân biệt giữa khái niệm “cơ sở hạ tầng” của triết học với thuật ngữ “cơ sở hạ tầng” của ngành xây dựng [như cầu, đường, bến cảng, sân bay…].

– Từ thời cổ đại đến nay, trong bất cứ hình thái kinh tế – xã hội nào, bên cạnh những quan hệ sản xuất thống trị vẫn còn tàn dư của những quan hệ sản xuất của xã hội cũ và cả mầm mống của những quan hệ kinh tế – xã hội của tương lai.

– Như thế, về mặt kết cấu, cơ sở hạ tầng gồm có:

  • Quan hệ sản xuất thống trị;
  • Những quan hệ sản xuất là tàn dư của xã hội trước đó;
  • Những quan hệ sản xuất là mầm mống của xã hội sau.

Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị giữ địa vị chi phối, có vai trò chủ đạo và quyết định tính chất, đặc trưng của một cơ sở hạ tầng nhất định. Tuy nhiên, hai kiểu quan hệ sản xuất còn lại cũng có vai trò nhất định.

Ví dụ:

  • Trong hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa, có quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa [thống trị], quan hệ sản xuất phong kiến [đã lỗi thời của xã hội trước] và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa [mầm mống của tương lai].

– Nếu xét trong nội bộ phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất.

Còn nếu xét trong tổng thể các quan hệ xã hội, các quan hệ sản xuất hợp thành cơ sở kinh tế của xã hội đó. Đó là cơ sở hiện thực để trên đó con người dựng nên kiến trúc thượng tầng tương ứng.

– Trong xã hội có đối kháng giai cấp thì tính chất của đối kháng giai cấp và sự xung đột xã hội bắt nguồn từ cơ sở hạ tầng.

2. Kiến trúc thượng tầng là gì?

– Kiến trúc thượng tầng, với tư cách là khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội, những thiết chế tương ứng và những quan hệ nội tại của chúng được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.

Ở đây, ta cần phân biệt “kiến trúc thượng tầng” trong triết học với ngành kiến trúc – xây dựng.

– Về mặt kết cấu, kiến trúc tượng tầng gồm các thành tố:

  • Những quan điểm, tư tưởng xã hội: Đó là những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật…
  • Những thiết chế xã hội tương ứng: Đó là nhà nước [gồm quốc hội, chính phủ, quân đội, công an, tòa án…], đảng phái, giáo hội, hội nghề nghiệp và những đoàn thể xã hội khác.

Trong đó, mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm và quy luật phát triển riêng. Nhưng chúng đều liên hệ với nhau và đều nảy sinh từ cơ sở hạ tầng, phản ánh cơ sở hạ tầng, trong đó nhà nước là yếu tố có quyền lực mạnh mẽ nhất.

Chính nhờ có nhà nước mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới trở thành tư tưởng thống trị toàn xã hội.

– Trong xã hội có đối kháng giai cấp, kiến trúc thượng tầng gồm có:

  • Hệ tư tưởng và các thiết chế của giai cấp thống trị [như chủ nô, địa chủ, tư sản…];
  • Các quan điểm và tổ chức của giai cấp bị trị [như nô lệ, tá điền, công nhân…] đối lập với giai cấp thống trị;
  • Tàn dư của các quan điểm xã hội đã lỗi thời;
  • Quan điểm của các tầng lớp trung gian [như trí thức, nông dân…];
  • v.v…

– Hệ tư tưởng và thiết chế của giai cấp thống trị quyết định tính chất cơ bản của toàn bộ kiến trúc thượng tầng.

Tính giai cấp của kiến trúc thượng tầng thể hiện rõ ở sự đối lập về quan điểm tư tưởng và cuộc đấu tranh chính trị – tư tưởng của các giai cấp đối kháng.

Mâu thuẫn đối kháng trong kiến trúc thượng tầng bắt nguồn từ mâu thuẫn trong cơ sở hạ tầng.

Cơ sở hạ tầng sinh ra kiến trúc thượng tầng. Kiến trúc thượng tầng phục vụ cơ sở hạ tầng. Ảnh: Arthive.com.

II. Mối quan hệ biện chứng 

Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có mối quan hệ biện chứng, thể hiện ở những điểm sau:

1. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.

Đó là quy luật phổ biến của mỗi hình thái kinh tế – xã hội.

Cơ sở hạ tầng là cơ sở sản sinh ra kiến trúc thượng tầng tương ứng.

Kiến trúc thượng tầng không thể khởi phát từ đâu ngoài cơ sở hạ tầng của nó. Cơ sở hạ tầng như thế nào thì kiến trúc thượng tầng như thế ấy.

Quan hệ kinh tế, quan hệ sản xuất quyết định quan hệ về chính trị, pháp luật và tư tưởng. Do đó, giai cấp nào giữ địa vị thống trị về mặt kinh tế thì nó cũng thống trị về mặt kiến trúc thượng tầng xã hội.

– Nếu cơ sở hạ tầng có sự thay đổi thì sớm muộn kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo.

Quá trình thay đổi đó không chỉ diễn ra trong giai đoạn cách mạng từ hình thái kinh tế – xã hội này sang hình thái kinh tế – xã hội khác, mà còn diễn ra trong bản thân mỗi hình thái kinh tế – xã hội.

Như C. Mác đã viết:

“Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng”.

Trong xã hội có đối kháng giai cấp, sự thay đổi đó phải thông qua quá trình đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp. Nguyên nhân của quá trình đó xét đến cùng là do sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Tuy nhiên, sự phát triển của lực lượng sản xuất chỉ trực tiếp gây ra sự biến đổi của cơ sở hạ tầng, đến lượt nó mới làm cho kiến trúc thượng tầng biến đổi một cách căn bản.

2. Kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại lên cơ sở hạ tầng.

Tuy cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng nhưng chủ nghĩa Mác – Lênin cũng luôn nhấn mạnh tính độc lập tương đối và khả năng tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng:

– Sự tác động của kiến trúc thượng tầng thể hiện trước hết ở chức năng chính trị – xã hội của nó.

Kiến trúc thượng tầng có chức năng bảo vệ, là công cụ đắc lực để củng cố, duy trì sự phát triển của cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đồng thời đấu tranh xóa bỏ cơ sở hạ tầng cũ và kiến trúc thượng tầng cũ.

– Đồng thời, mỗi bộ phận, yếu tố khác nhau thuộc kiến trúc thượng tầng cũng đều có khả năng tác động ít nhiều lên cơ sở hạ tầng. Trong đó, nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng, có khả năng tác động lớn nhất và trực tiếp nhất lên cơ sở hạ tầng.

Những bộ phận đó tác động lên cơ sở hạ tầng theo những cơ chế khác nhau, bằng nhiều hình thức khác nhau.

Tất nhiên, sự vận động của các bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng không phải bao giờ cũng theo một hướng duy nhất. Đôi khi, giữa các bộ phận này cũng nảy sinh tình trạng không đồng đều, thậm chí mâu thuẫn, chống đối nhau.

– Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, kiến trúc thượng tầng, đặc biệt là nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng.

Nếu không có chính quyền của giải cấp công nhân và nhân dân lao động thì không thể xây dựng được cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa xã hội.

Nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ đắc lực để cải tạo và xóa bỏ cơ sở hạ tầng cũ, tạo lập cơ sở hạ tầng mới.

– Sự tác động của kiến trúc thượng tầng nếu phù hợp, cùng chiều phát triển vớ cơ sở hạ tầng thì sự tác động đó mang lại hiệu quả thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.

Đó là khi sự tác động của kiến trúc thượng tầng tuần theo những quy luật kinh tế, quy luật xã hội khách quan.

Còn trong trường hợp ngược chiều [làm trái quy luật], sự tác động của kiến trúc thượng tầng lên cơ sở hạ tầng sẽ là tiêu cực, cản trở sự phát triển xã hội.

– Sự tác động mạnh mẽ cua kiến trúc thượng tầng lên cơ sở hạ tầng là không thể nghi ngờ.

Song, nếu quá nhấn mạnh vai trò của sự tác động đó đến mức phủ nhận tính tất yếu của những quy luật kinh tế khách quan, của sự vận động xã hội thì sẽ rơi vào sai lầm duy tâm chủ quan.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định sự sản xuất vật chất và tái sản xuất ra đời sống xã hội là nhân tố quyết định, nếu xét đến cùng, đối với lịch sử, nghĩa là đối với cả các lĩnh vực của văn hóa, tinh thần nói chung.

Tuy nhiên, chúng ta không được phép hiểu sản xuất là nhân tố quyết định duy nhất. Nếu coi đó là duy nhất thì vô hình trung đã xuyên tạc quan điểm của chủ nghĩa Mác.

III. Liên hệ với thực tế tình hình quá độ ở Việt Nam hiện nay

1. Cơ sở hạ tầng

Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam hiện nay bao gồm các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với các hình thức sở hữu khác nhau.

Các hình thức sở hữu đó tương ứng với các thành phần kinh tế khác nhau, thậm chí đối lập nhau, nhưng cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế thống nhất theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Ở Việt Nam hiện nay, các hình thức sở hữu cơ bản gồm sở hữu nhà nước [hay sở hữu toàn dân, trong đó nhà nước là đại diện của nhân dân], sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Các thành phần kinh gồm kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể, hợp tác xã; kinh tế tư nhân; kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài.

Ví dụ:

  • Kinh tế nhà nước: Tiêu biểu là các tập đoàn Viettel, PVN, EVN, Vietnam Airline, Vinamilk…
  • Kinh tế tập thể, hợp tác xã: Tiêu biểu là các hợp tác xã nội nghiệp, công nghiệp ở các địa phương.
  • Kinh tế tư nhân: Tiêu biểu là các tập đoàn Vingroup, FLC, Massan, Vietjet…
  • Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Tiêu biểu là Toyota Vietnam, Huyndai Vietnam…

Nền kinh tế Việt Nam hiện nay là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của nền kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đó là nền kinh tế hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế, các thành phần kinh tế khác được khuyến khích phát triển hết mọi tiềm năng.

2. Kiến trúc thượng tầng

– Trong xây dựng kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước Việt Nam khẳng định:

Lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng. Xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa mang tính chất giai cấp công nhân, do đội tiên phong của giai cấp công nhân là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, bảo đảm để nhân dân là người làm chủ xã hội.

Các tổ chức, bộ máy thuộc hệ thống chính trị như Đảng Cộng sản, Quốc hội, Chính phủ, quân đội, công an, tòa án, ngân hàng… không tồn tại vì lợi ích của riêng nó mà là để phục vụ nhân dân, thực hiện cho được phương châm mọi lợi ích, quyền lực đều thuộc về nhân dân.

– Mỗi bước phát triển của cơ sở hạ tầng hoặc kiến trúc thượng tầng là một bước giải quyết mâu thuẫn giữa chúng.

Việc phát triển và củng cố cơ sở hạ tầng, điều chỉnh và củng cố các bộ phận của kiến trúc thượng tầng là một quá trình lâu dài, gian khổ, diễn ra trong suốt thời kỳ quá độ.

8910X.com

Bài liên quan:

  • //www.invert.vn/csht.
  • //kinhnghiemdayhoc.net/m

Nếu còn điều gì chưa rõ, bạn hãy để lại câu hỏi ở phần comment để bọn mình có thể giải đáp khi thời gian cho phép nhé!

Video liên quan

Chủ Đề