Thuốc điều trị rối loạn chuyển hóa lipid năm 2024

Lipid máu thấp là sự giảm lipoprotein huyết tương do nguyên nhân nguyên phát (di truyền) hoặc các yếu tố thứ phát. Nó thường không có triệu chứng và được chẩn đoán ngẫu nhiên trên xét nghiệm lipid thông thường. Điều trị lipid máu thấp thứ phát bao gồm điều trị các rối loạn cơ bản. Điều trị lipid máu thấp nguyên phát thường không cần thiết, nhưng bệnh nhân có một số rối loạn di truyền đòi hỏi phải có vitamin liều cao và thực phẩm bổ sung của chất béo và các vitamin tan trong chất béo khác.

Hạ lipid máu được định nghĩa là cholesterol toàn phần (TC) < 120 mg/dL (< 3,1 mmol/L) hoặc cholesterol lipoprotein tỷ trọng thấp (LDL-C) < 50 mg/dL (< 1,3 mmol/L).

Nguyên nhân có thể là tiên phát (di truyền) hoặc thứ phát. Các nguyên nhân thứ phát phổ biến hơn nhiều so với các nguyên nhân nguyên phát và bao gồm tất cả những điều sau đây:

  • Các bệnh ung thư máu và các bệnh ung thư khác

Phát hiện ngoài dự kiến về nồng độ cholesterol thấp hoặc LDL-C thấp trên bệnh nhân không dùng thuốc hạ lipid máu sẽ thúc đẩy việc đánh giá chẩn đoán, bao gồm các chỉ số đo AST (aspartate aminotransferase), ALT (alanine aminotransferase) và hormone kích thích tuyến giáp; một đánh giá tiêu cực cho thấy có thể có một nguyên nhân chính.

Có 3 rối loạn chính trong đó một hoặc nhiều đột biến gen dẫn đến sản sinh kém hoặc tăng độ thanh thải LDL:

  • Abetalipoproteinemia
  • Bệnh về hấp thu Chylomicron
  • giảm betalipoprotein máu

Các đột biến mất chức năng của PCSK9 (proprotein convertase subtilisin-like/kexin type 9) là một nguyên nhân khác làm cho nồng độ LDL thấp. Không có hậu quả xấu và không điều trị,

Tình trạng đột biến nhiễm sắc thể lặn là do sự đột biến trong gen của protein vận chuyển triglycerid microsomal, một protein quan trọng đối với chylomicron và sự hình thành lipoprotein mật độ rất thấp (VLDL). Chất béo trong chế độ ăn không thể hấp thụ, và lipoprotein trong cả hai quá trình chuyển hóa gần như không có trong huyết tương, cholesterol toàn phần thường là < 45 mg/dL (< 1,16 mmol/L), TG là < 20 mg/dL (< 0,23 mmol/L), và LDL không đo được.

Chẩn đoán được thực hiện khi không có apoprotein B (apo B) trong huyết tương. Mẫu bệnh phẩm sinh thiết ruột cho thấy thiếu protein vận chuyển microsome. Tăng sinh tế bào dòng hồng cầu là một đặc điểm phân biệt trên lam máu. Xét nghiệm di truyền có thể khẳng định chẩn đoán.

Điều trị thiếu vitamin E bằng liều cao (100 đến 300 mg/kg đường uống mỗi ngày một lần) vitamin E với việc bổ sung chất béo trong chế độ ăn uống và các vitamin tan trong chất béo khác. Tiên lượng thường kém.

Rối loạn hấp thu Chylomicron là một tình trạng đột biến nhiễm sắc thể lặn hiếm gặp do thiếu hụt apo B từ tế bào ruột. Các đột biến trong gen mã hóa một protein quan trọng trong vận chuyển chylomicron thông qua các tế bào ruột có liên quan đến rối loạn này.

Chẩn đoán là do sinh thiết ruột của bệnh nhân có mức cholesterol thấp và không có chylomicron sau bữa ăn.

Điều trị là bổ sung chất béo trong khẩu phần ăn và vitamin tan trong chất béo. Điều trị sớm với liều cao vitamin E có thể cải thiện tiên lượng.

Giảm betalipoprotein máu là tình trạng đột biến nhiễm sắc thể trội hoặc đồng hợp trội gây ra bởi các đột biến trong gen mã hóa cho apo B.

Chẩn đoán bằng cách tìm nồng độ LDL-C và apo B thấp trên hồ sơ lipid huyết thanh. Giảm béo phì và abetalipoproteinemia được phân biệt với nhau theo tiền sử gia đình.

Những người dị hợp tử và những người đồng hợp tử có LDL-C có thể phát hiện được nhưng thấp không cần điều trị. Điều trị những người đồng hợp tử không có LDL cũng giống như đối với trường hợp có abopipoprotein máu và bao gồm vitamin E và việc bổ sung chất béo và các vitamin tan trong mỡ khác. Tiên lượng là khác nhau, nhưng chẩn đoán sớm và tuân thủ nghiêm ngặt điều trị có thể làm chậm sự tiến triển của bệnh.

Thuốc điều trị rối loạn chuyển hóa lipid năm 2024

Bản quyền © 2024 Merck & Co., Inc., Rahway, NJ, USA và các chi nhánh của công ty. Bảo lưu mọi quyền.

Kiwi chứa nhiều arginine, có tác dụng tăng cường lưu thông máu trong hệ tuần hoàn, hạn chế hình thành các cục máu đông, có tác dụng giảm tỷ lệ phát sinh một số bệnh tim mạch như: bệnh mạch vành,xơ vữa động mạch, cao huyết áp, nhồi máu cơ tim... Kiwi còn chứa nhều vitamin C,E,K, là một loại quả ít chất béo nhưng chứa nhiều dinh dưỡng và chất xơ.

Tại sao phải điều trị rối loạn lipid máu?

Rối loạn lipid máu làm tăng nguy cơ thừa cân béo phì, tăng huyết áp, đái tháo đường – đây cũng là những yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch. Vì vậy, một người được chẩn đoán rối loạn lipid máu cần được đánh giá các nguy cơ tim mạch khác để có phương pháp điều trị hiệu quả, dự phòng biến cố sức khỏe.

Rối loạn chuyển hóa lipid uống thuốc gì?

Hiện nay, có các nhóm thuốc điều trị rối loạn lipid máu như sau:.

Nhóm Statin(Các statin ức chế men khử HMG-CoA), là nhóm thuốc đầu tay trong điều trị bệnh mỡ máu: Như Simvastatin. ... .

Nhóm thuốc Fibrat: Fenofibrat. ... .

Nhóm Acid nicotinic (Vitamin PP, Vitamin B3, Niacin) có tác dụng hạ mỡ máu..

Rối loạn chuyển hóa lipoprotein và tình trạng tăng lipid máu là gì?

Rối loạn chuyển hóa lipoprotein và tăng lipid máu hay còn được gọi là rối loạn lipid máu, mỡ máu cao, máu nhiễm mỡ hoặc bệnh mỡ máu. Các thuật ngữ này chỉ chung cho tình trạng rối loạn các chỉ số mỡ máu, 4 chỉ số này bao gồm: Tổng lượng cholesterol, cholesterol LDL, cholesterol HDL, triglyceride.

Rối loạn chuyển hóa lipid máu nên ăn gì?

Người bị rối loạn lipid máu nên ăn gì?.

Rau củ và trái cây tươi. Rau củ là thực phẩm mà bệnh nhân bị rối loạn lipid máu không nên bỏ qua. ... .

Sữa tách béo. ... .

Tỏi là thực phẩm nên có trong chế độ ăn cho người rối loạn lipid máu. ... .

Hành tây. ... .

Đậu nành. ... .

Rong biển. ... .

Ớt. ... .

Súp lơ.