Tóm tắt văn bản người lái đò sông đà
VnDoc.com xin giới thiệu tới bạn đọc tài liệu lớp 12: Người lái đò sông Đà để bạn đọc cùng tham khảo và có thêm tài liệu học tập nhé. Mời các bạn cùng theo dõi bài viết. Show
HOT: Đáp án Ngữ văn THPT Quốc gia 2023 I. Tác giả Nguyễn Tuân1. Cuộc đời - Nguyễn Tuân sinh năm 1910, mất năm 1987 trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã suy tàn. - Quê thuộc làng Mộc, nay là phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. - Từ năm 1948 đến năm 1968, ông là Tổng thư kí Hội Nhà văn Việt Nam - Năm 1996, ông được nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. 2. Quan điểm sáng tác và sự nghiệp văn chương Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn, một người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông có vị trí to lớn và vai trò không nhỏ đối với nền văn học Việt Nam. Cách mạng tháng Tám thành công, ông đến với cách mạng, tự nguyện dùng ngòi bút của mình để phục vụ cuộc kháng chiến. Các tác phẩm chính: Vang bóng một thời, Một chuyến đi, Thiều quê hương, Sông Đà, Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi… Ông là nhà văn của những tính cách độc đáo, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cách tuyệt mĩ,… Kho từ vựng phong phú, tổ chức câu văn xuôi đầy giá trị tạo hình, có nhạc điệu trầm bổng, có phối âm, phối thanh linh hoạt, tài ba… Phong cách nghệ thuật: phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân có sự thay đổi trong những sáng tác ở thời kì trước và sau cách mạng tháng Tám song có thể thấy những điểm nhất quán sau: Phong cách của Nguyễn Tuân có thể thâu tóm trong một chữ “ngông”, trong mỗi trang viết của mình, Nguyễn Tuân luôn muốn thể hiện sự tài hoa, uyên bác của bản thân. - Trước Cách mạng tháng Tám: ông đắm chìm trong quá khứ, đi tìm cái đẹp ở quá khứ, những cái đẹp đã qua đi, bỏ rơi thực tại mục nát, thối rữa. Đây là thời Nguyễn Tuân sáng tác được nhiều tác phẩm gây ấn tượng: Vang bóng một thời… - Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945: tâm hồn ông hòa cùng đất nước, cùng cuộc sống con người, Nguyễn Tuân thức tỉnh khỏi những vang âm của quá khứ, ra đi tìm cái đẹp trong chính cuộc sống đời thường, đi tìm thứ “vàng mười đã qua thử lửa” và ông cũng có nhiều tác phẩm gây tiếng vang ở giai đoạn này: Sông Đà, một chuyến đi… Chất tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân được thể hiện: - Khám phá, phát hiện sự vật ở phương diện thẩm mĩ. - Nhìn con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. - Vận dụng tri thức, vốn hiểu biết trên nhiều lĩnh vực khác nhau để tạo dựng hình tượng. II. Tác phẩm Người lái đò sông Đà1. Hoàn cảnh ra đời Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” được in trong tập tuỳ bút “Sông Đà” (1960), gồm 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo. Ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vĩ và tuyệt vời thơ mộng, Nguyễn Tuân còn phát hiện những điểm quý báu trong tâm hồn con người mà ông gọi là “thứ vàng mười đã được thử lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc.” Qua tùy bút “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân với lòng tự hào của mình đã khắc hoạ những nét thơ mộng, hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình. Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới: chất vàng mười của đất nước trong xây dựng chủ nghĩa xã hội qua hình ảnh người lái đò sông Đà. Từ đó nhà văn ca ngợi sông Đà, núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, đồng bào Tây Bắc cần cù, dũng cảm, rất tài tử, tài hoa. 2. Bố cục (3 phần) Phần 1 (từ đầu đến “cái gậy đánh phèn”): Vẻ hung dữ của con sông Đà. Phần 2 (tiếp đó đến “dòng nước sông Đà”): Cuộc sống của con người trên sông Đà và hình ảnh người lái đò sông Đà. Phần 3 (còn lại): vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của sông Đà. 3. Tóm tắt Người lái đò sông Đà Từ thượng nguồn sông Đà đã mang vẻ dữ dội của đại ngàn: dựng đá vách thành, chỉ lúc đúng ngọ mới thấy mặt trời; sóng đá dữ dội dàn thành các thạch trận xô nhau liên tiếp, dữ dội hơn trông Đà giang như sôi lên sùng sục, tiếng thác đá ở đây thì như ngàn con trâu mộng giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa. Có lúc sông Đà cũng dịu dàng: Sông Đà tuôn dài như áng tóc trữ tình,mang màu xanh ngọc bích và màu đỏ phù sa chứ không có màu đen như Pháp nói; sông Đà lại giống như một cố nhân lâu ngày gặp lại; hai bên bờ sông Đà tĩnh lặng nhưng đầy sức sống. Trên vẻ đẹp của Tây Bắc ấy hình ảnh người lái đò hiện ra đầy nghệ sĩ, hùng dũng dù rất bình dị đời thường, Ông lái đò vượt qua ba thạch trận với nhiều cửa tử; ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, nhưng đêm trở về với những thứ bình dị, khiêm tốn. 4. Giá trị nội dung Người lái đò sông Đà là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng vừa trữ tình thơ mộng của thiên nhiên và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc. Tác phẩm còn cho thấy công phu lao động nghệ thuật khó nhọc cùng sự tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân trong việc dùng chữ nghĩa để tái tạo những kì quan của tạo hóa và những kì tích lao động của con người. 5. Giá trị nghệ thuật Tùy bút pha bút kí, kết cấu linh hoạt, vận dụng được nhiều tri thức văn hóa và nghệ thuật vào trong tác phẩm. Nhân vật mang phong thái đời thường, giản dị. Bút pháp: kết hợp hài hào giữa hiện thực và lãng mạn. Ngôn ngữ hiện đại kết hợp với ngôn ngữ cổ xưa. Sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật độc đáo: liên tưởng, tưởng tượng thú vị; so sánh nhân hóa quái dị, mới lạ… III. Dàn ý phân tích Người lái đò sông Đà
Giới thiệu về tác giả Nguyễn Tuân (tiểu sử, sáng tác chính, phong cách nghệ thuật…) Giới thiệu khái quát về tác phẩm Người lái đò sông Đà
1. Lời đề từ Nguyễn Tuân chọn đề từ bằng hai câu thơ: “Đẹp vậy sao tiếng hát trên dòng sông”: ca ngợi vẻ đẹp độc đáo, riêng biệt của sông Đà. “Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc Bắc lưu”: mọi con sông đều chảy về phía Đông, riêng sông Đà chảy về phương Bắc → Sự khác biệt độc nhất vô nhị của sông Đà, gợi ra những cá tính riêng của con sông. → Nguyễn Tuân kể chuyện về một dòng sông, về một vùng đất và cuộc sống con người Tây Bắc; cung cấp cho người đọc hiểu biết phong phú, tình yêu tha thiết với thiên nhiên, đất nước con người Việt Nam. Thiên tùy bút vừa là một công trình khảo cứu công phu, vừa là một áng văn trữ tình giàu tính thẩm mĩ về con Sông Đà. 2. Hình tượng sông Đà
- Diện mạo: “Cảnh đá bờ sông dựng vách thành”: lòng sông hẹp, “bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ mới có mặt trời”, chỗ “vách đá ... như một cái yết hầu”. Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như đòi nợ suýt những người lái đò qua đây”. Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”. - Tâm địa của sông Đà được miêu tả qua “thạch trận”: Thạch trận: "Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vỗ lấy thuyền". Thủy trận: "Đám tảng đám hòn chia làm ba hàng ngang chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn sẵn trận địa.” Ba trùng vi giăng bẫy trên con sông:" Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông", "vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào", "còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên trái bên phải đều là luồng chết cả.” → Với vốn từ cực kì phong phú cùng bút pháp lãng mạn tô đậm để gây ấn tượng mãnh liệt, cảm giác rùng rợn, dựng lên một con sông hung bạo đầy đe dọa với con người.
- Trữ tình ở dáng sông kiều diễm với điểm nhìn từ trên cao xuống, từ tầm xa, bao quát để ngắm một dáng sông thơ mộng, có khi nhà văn nhìn thấy nó bình dị như “một dải dây thừng, như một áng tóc trữ tình”. - Trữ tình ở màu sắc sông nước: Nguyễn Tuân nhìn Sông Đà từ nhiều góc độ, lần này từ điểm nhìn thấp hơn và góc nhìn thật đẹp: khi nhìn bằng ánh mắt họa sĩ, khi thì nhìn bằng cảm xúc nhà thi sĩ để say sưa, quan sát tưởng tượng sắc nước Sông Đà, sự thay đổi màu sắc qua các mùa mà mùa nào cũng đẹp, một cách nhìn thật nhiều chiều và đa dạng. - Khung cảnh bờ bãi ven sông với điểm nhìn đậu hẳn xuống mặt sông, là 1 du khách trên sông "Thuyền tôi trôi trên Sông Đà…dòng trên". → Sông Đà dưới ánh mắt của Nguyễn Tuân hiện lên như một dải lụa hiền hòa giữa vùng núi rừng Tây Bắc hoang sơ, hùng vĩ. 3. Hình ảnh người lái đò sông Đà - Giới thiệu chung: ông lái đò Sông Đà làm nghề chở đò dọc trên Sông Đà - nghề vận tải đường nước, ông mang chân dung người lao động sông nước đẹp vạm vỡ khỏe mạnh. Cuộc sống hằng ngày của ông là chiến đầu với con Sông Đà, vật lộn với thiên nhiên để giành giật sự sống, để tồn tại. - Cuộc chiến đấu trên sông Đà – con sông hùng dữ và nham hiểm: + Là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà ông xuôi ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ ... những luồng nước”, ... + Là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba: ung dung đối đầu với thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo ...”, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần núi”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác ...” + Là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện thường. - Trở về với cuộc sống đời thường, sau cuộc chiến "đêm ấy nhà ông đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam.. cá tủa ra tràn đầy đồng ruộng". Đó là cuộc sống thường nhật của người lái đò ngày nào cũng chiến đấu với thiên nhiên. → Cuộc sống bình dị, khiêm nhường nhưng rất đáng khâm phục.
- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản. + Nội dung: Người lái đò sông Đà ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng vừa trữ tình thơ mộng của thiên nhiên và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc. + Nghệ thuật: cách sử dụng từ ngữ độc đáo, đắc địa, tài ba, sử dụng vốn hiểu biết trên nhiều lĩnh vực, kết hợp hài hòa giữa bút pháp lãng mạn và hiện thực. - Cảm nhận về văn bản: Người lái đò sông Đà là một áng tùy bút xuất sắc, cho thấy tài năng và tấm lòng của người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái Đẹp - Nguyễn Tuân. IV. Phân tích tác phẩm Người lái đò sông ĐàMỗi nhà văn có một quan điểm sáng tác riêng theo họ xuyên suốt sự nghiệp văn học. Nhưng có lẽ, Nguyễn Tuân là một trường hợp đặc biệt khi quan điểm sáng tác và phong cách văn chương của ông có sự khác biệt rõ rệt ở thời kì trước và sau năm 1945. Nếu trước năm 1945, người ta biết đến Nguyễn Tuân với Chữ người tử tù cùng những hoài niệm về cái đẹp của quá khứ thì sau năm 1945, người ta biết đến Nguyễn Tuân với Người lái đò sông Đà cùng một năng lượng, tình yêu tha thiết dành cho cuộc sống, cho thiên nhiên mà bạn đọc dễ dàng cảm nhận được. Tùy bút Người lái đò sông Đà in trong tập “Sông Đà”, là kết quả chuyến đi thực tế của Nguyễn Tuân đến vùng núi Tây Bắc để khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên, của con người và tìm kiếm “chất vàng mười đã qua thử lửa” trong chính cuộc sống thường nhật. Qua “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân với lòng tự hào của mình đã khắc hoạ những nét thơ mộng, hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình. Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới qua hình ảnh người lái đò sông Đà. Mở đầu tùy bút là hai lời đề từ vô cùng đặc sắc và độc đáo: “Đẹp vậy sao tiếng hát trên dòng sông”: ca ngợi vẻ đẹp của sông Đà và tiếng hát của những con người cần mẫn lao động, làm việc ở nơi đây. “Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc Bắc lưu” mang ý nghĩa mọi con sông đều chảy về phía Đông, riêng sông Đà chảy về phương Bắc để nói lên sự khác biệt độc nhất vô nhị của sông Đà, gợi ra những cá tính riêng của con sông. Chỉ với hai lời đề từ ngắn gọn, Nguyễn Tuân đã mang đến cho bạn đọc những vẻ đẹp vô cùng khác biệt của sông Đà với những con sông khác giúp bạn đọc phần nào thêm thích thú và muốn tìm hiểu về con sông này. Sau lời đề từ, tác giả đi vào cụ thể vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của con sông: “Cảnh vách đá hai bên sông dựng đứng như vách thành; có vách đá chẹt dòng sông Đà như một cái yết hầu; đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách; có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bên bờ này sang bên kia; mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.” bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Tuân mang đến cho bạn đọc nhiều liên tưởng thú vị về con sông Đà: nghệ thuật ẩn dụ những khối đá bờ sông được ví như những thành trì kiên cố, vũng chãi và đầy rẫy sự nguy hiểm, bí ẩn, đe doạ chực chờ. Tác giả đã sử dụng nhiêu giác quan để cảm nhận được hết vẻ đẹp hung tợn ở quãng này của con sông: nó vừa hẹp lại nhiều đá dựng cao ngang ngược nhưng tiềm ẩn những sự nguy hiểm khiến con người không thể lường trước được. Không chỉ quãng này của con sông nguy hiểm mà quãng mặt ghềnh Hát Loóng cũng nhiều hiểm nguy không kém: “Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà…; quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”. Đến đây, Nguyễn Tuân sử dụng nhiều câu văn ngắn móc xích với nhau, điệp từ, điệp cấu trúc gợi lên nhịp chuyển động gấp gáp của sóng gió đang phối hợp với nhau để “hoành hành” tạo thêm nét hung bạo của sông Đà; không chỉ có đá dựng thành vách hăm dọa con người nữa mà ngay cả mặt nước cũng tạo sóng hung tợn để đe dọa bất cứ con thuyền hay người nào qua đấy cho ta thấy một con sông Đà ngang ngược, bá đạo và vô cùng bướng bỉnh. Quãng Tà Mường Vát con sông cũng hung tợn không kém: “Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống dòng sông để chuẩn bị làm móng cầu; nước ở đây thở và kêu như cái cửa cống bị sặc... những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào; nhiều thuyền bè gỗ đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút nước ấy nó lôi tụt xuống” Nghệ thuật nhân hoá kết hợp so sánh của Nguyễn Tuân làm tạo cho câu văn trở nên sinh động, hấp dẫn hơn bao giờ hết. Khúc sông này nguy hiểm đến mức không một con thuyền nào dám tiến lại gần, nếu không sẽ bị hút vào trong, bị dìm xuống lòng sông và biến mất một cách đáng sợ. Không chỉ riêng những quãng trên con sông Đà mới hung tợn mà dòng chảy của nó cũng vô cùng hung tợn: “Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Sự hung dữ này được Nguyễn Tuân liên tưởng đến một anh quay phim bạo dạn dám ngồi vào trong cái thuyền thúng tròn vành rồi cả người cả thúng cùng theo dòng xoáy xuống dưới cùng của xoáy nước và lia máy ảnh lên, thu vào tầm mắt tất cả xoáy nước như “một cái giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp cả vào máy vào người quay phim cả người đang xem.” Sự liên tưởng đặc sắc, thú vị này không chỉ giúp bạn đọc hình dung ra sự hung tàn của con sông mà còn làm cho vẻ hung tàn đó trở nên đa sắc màu hơn. Bên cạnh sự hung tàn như một con thủy quái, sông Đà cũng hết sức mưu mẹo khi bày ra nhiều trùng vi thạch trận hòng cướp đi sinh mạng của những người lái đò qua đây. Phối hợp với sóng nước với tiếng thác ầm ầm là “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, để chúng phối hợp lại thành ba trùng vi thạch trận nguy hiểm. Ở trùng vi thứ nhất sông Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa. Vừa vào trận địa, chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp: "Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la bão nạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò". Vượt qua trùng vây thứ nhất, người lái đò lại tiếp tục chiến đấu với trùng vi thạch trận thứ hai: “Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi chiếc thuyền”. Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ông lái đò. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử “vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”. Đến trùng vi thạch trận thứ ba: “Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác” nhưng vẫn không thắng nổi người lái đò dũng cảm, mưu trí. Cuối cùng sông Đà vẫn nhận lấy cái kết đắng trong trận chiến thiên nhiên - con người. Qua đây ta thấy con Sông Đà như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược, một thứ thiên nhiên Tây Bắc với “diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một” nhưng cũng mang một màu sắc riêng biệt không thể nhầm lẫn với bất kì con sông nào khác. Nếu vẻ đẹp của sông Đà chỉ dừng lại ở sự hung bạo thì chẳng có gì đáng để tác giả yêu quý, chính dòng sông này lại mang vẻ đẹp khác biệt vô cùng thơ mộng, trữ tình làm người ta xao xuyến: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Đến đây, Nguyễn Tuân giúp bạn đọc hình dung ra con sông Đà như một người thiếu nữ của Tây Bắc với mái tóc tuôn dài giữa núi rừng mộng mơ mang màu sắc thay đổi theo mùa: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Con Sông Đà gợi cảm với vẻ đẹp của nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”, còn có những quãng, những không gian, những cảnh sắc đầy thơ mộng: “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ, bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Cảnh sông Đà còn là “những nương ngô nhú lên những lá ngô non đầu mùa, những cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn cỏ gianh đẫm sương đêm”. Vẻ đẹp hung bạo, dữ tợn đen xen cùng thơ mộng, trữ tình đã làm cho Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông ấy với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, một tình yêu thiên nhiên đất nước sâu nặng. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu, tự hào về một dòng sông, một ngọn thác, một dòng chảy đã giúp Nguyễn Tuân tạo nên những trang văn đẹp hiếm có qua ngôn từ uyên bác và những liên tưởng thú vị. Bên cạnh thành công khi khắc họa vẻ đẹp của con sông Đà, Nguyễn Tuân cũng vô cùng thành công trong việc khắc họa hình ảnh người lái đò nơi đây. Ông lái đò hiện ra là một người khoảng bảy mươi tuổi làm nghề lái đò đã nhiều năm nay. Ông là đại diện cho những con người lao động bình dị, từng trải, có nhiều kinh nghiệm lái đò, có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán ở nơi đây. Mỗi ngày làm việc như một trận chiến với đám thủy quái trên sông, ông phải dùng hết công lực của mình để đối phó với bọn chúng mà không hề nao núng. Khi bọn đá bày ra trùng vi thạch trận thứ nhất đầy hiểm nguy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình; ông không hề nao núng mà bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái để vượt qua trùng vi thạch trận thứ nhất. Sau khi phá xong vòng một, người lái đò không được nghỉ ngơi mà phá luôn trùng vi thạch trận thứ hai, thứ ba. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá; ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Trong cuộc chiến không cân sức ấy, người lái đò chỉ có một cán chèo, một con thuyền không có đường lùi còn dòng sông dường như mang sức mạnh siêu nhiên của loài thuỷ quái. Tuy nhiên, kết cục cuối cùng, người lái đò vẫn chiến thắng, khiến cho bọn đá tướng tiu nghỉu bộ mặt xanh lè vì phải chịu thua một con thuyền nhỏ bé. Nguyễn Tuân vô cùng khéo léo và tài tình khi đã lột tả trọn vẹn một con sông Đà hùng vĩ, dữ dội. Có thể nói chính sự hung dữ của con sông Đà càng lam tôn lên sự huy hoàng và lòng dũng cảm của người lái đò. Từ đó, ta thấy rõ hơn vẻ đẹp của con người nơi đây: họ có thể là những con người vô danh, những người lao động nhiều tuổi nhưng vẫn đủ dẻo dai và mưu trí để chiến thắng thiên nhiên hung bạo. Và không chỉ cuộc chiến này, những cuộc chiến khác họ cũng sẽ sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng. Bên cạnh vẻ đẹp của sự dũng cảm, mưu trí, Nguyễn Tuân còn khắc họa người lái đò trong cuộc sống đời thường vô cùng giản dị và mộc mạc. Sau khi vượt khúc sông hung bạo bằng hết sức lực của mình, người lái đò trở về với cuộc sống thường nhật của mình: “đốt lửa, nướng ống cơm lam, bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra tràn đầy ruộng” mà quên đi rằng mình vừa là những người anh hùng trong cuộc chiến đấu với con sông Đà hung hăng. Họ cho rằng đấy là cuộc sống của họ, chẳng có gì lớn lao, đáng nhớ. Ở họ là sự khiêm tốn, mộc mạc, giản dị của những người nông dân cần cù, chăm chỉ lao động kiến thiết nước nhà. Dưới ngòi bút tài tình của Nguyễn Tuân, hình ảnh người lái đò hiện ra mang đầy đủ phẩm chất tốt đẹp đại diện cho con người lao động Việt Nam: dù trải qua những cuộc chiến khó khăn để giành sự sống nhưng khi vượt qua chúng họ lại coi đó là những điều bình thường chẳng có gì đáng nhớ, đáng tự hào. Họ lại quay về với cuộc sống đời thường giản dị và bình tâm, lại lo làm ăn sản xuất để xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Chính sự đơn giản, không phô trương này lại càng ta thêm yêu quý và mến mộ họ hơn. Nhiều năm tháng qua đi nhưng bạn đọc chưa bao giờ quên phong cách sáng tác “ngông” độc đáo của Nguyễn Tuân cùng tùy bút và hình ảnh con sông Đà. Tác phẩm đã đóng góp không nhỏ vào nền văn học Việt Nam và được nhiều thế hệ con người đón nhận. V. Dàn ý Phân tích tính hung bạo của con Sông Đà ở thượng nguồn1. Mở bài Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân, tác phẩm Người lái đò sông Đà và vẻ đẹp của con sông Đà ở thượng nguồn. 2. Thân bài
Có vách đá chẹt dòng sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bên bờ này sang bên kia. Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. → Tác giả sử dụng nhiều giác quan (thị giác, xúc giác) để cảm nhận.
Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà... Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra. → Sử dụng nhiều câu văn ngắn, điệp từ, điệp cấu trúc gợi lên nhịp chuyển động gấp gáp của sóng gió đang phối hợp với nhau, tạo thêm nét hung bạo của sông Đà.
Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống dòng sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cái cửa cống bị sặc... những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Nhiều thuyền bè gỗ đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút nước ấy nó lôi tụt xuống. → Sử dụng các biện pháp so sánh, liên tưởng, nhân hóa độc đáo gợi lên cảm giác về những mối nguy hiểm của sông Đà. 3. Kết bài Khẳng định lại giá trị của tác phẩm. VI. Dàn ý Phân tích vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con Sông Đà1. Mở bài Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm Người lái đò sông Đà. (Nguyễn Tuân là một tác giả lớn có nhiều đóng góp quan trọng cho nền văn học của Việt Nam). Lưu ý: học sinh tự lựa chọn cách dẫn mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp tùy thuộc vào năng lực của bản thân mình. 2. Thân bài Từ trên tàu bay nhìn xuống "con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo" "Mùa xuân xanh màu ngọc bích", khác với sông Gâm, sông Lô "màu xanh canh hến". Mùa thu nước sông "lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa" → Sông Đà mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng, quyến rũ và tình tứ. Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân với những cảnh quan hai bên bờ cực kì gợi cảm: lá non nhú trên những nương ngô, những con hươu "ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương" Dòng sông Đà như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong lịch sử đất Việt: Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích xưa. → Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, và bằng một tình yêu thiết tha. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về một dòng sông đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm có. 3. Kết bài Khẳng định lại vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông Đà và giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. VII. Văn mẫu Phân tích hình tượng con sông ĐàNguyễn Tuân (1910 - 1987) là một nhà văn lớn, nổi tiếng ngay từ trước cách mạng tháng Tám với những trang viết độc đáo, tài hoa. Sau cách mạng tháng Tám, ông đã “lột xác”, hòa mình vào cuộc sống của dân tộc. Với cảm hứng mới mẻ về đất nước, nhân dân và một phong cách nghệ thuật đầy tài năng, ông đã viết nên tập tùy bút “Sông Đà” vào năm 1960. Tác phẩm là thành quả chuyến đi thực tế gian khổ và hào hứng tới Tây Bắc rộng lớn vào năm 1958. Nguyễn Tuân đã xây dựng hình tượng con sông Đà vừa hung bạo, dữ dội, vừa gợi cảm, thơ mộng, trữ tình. Sông Đà là dòng sông chảy qua các tỉnh miền núi Tây Bắc Việt Nam. Sông Đà có chiều dài là 883 nghìn thước mét, chảy qua hai nước Việt Nam, Trung Quốc. Đây chính là một kiệt tác mà thiên nhiên ban tặng cho con người, chung sống và gắn bó với con người từ ngàn đời nay. Trong tùy bút, sông Đà được miêu tả với hai đặc điểm cơ bản: con sông hung bạo, dữ dội đầy hiểm nguy và con sông thơ mộng, trữ tình. Hai đặc điểm này trái ngược nhưng thống nhất, làm nên vẻ đẹp của con sông Tây Bắc. Nguyễn Tuân đã mở đầu bằng hướng chảy của dòng sông Đà lôi đầy độc đáo, phóng túng, ngang tàng: “Chúng thuỷ giai đông tẩu/Đà giang độc bắc lưu”. Ý muốn nói mọi con sông đều chảy về hướng Đông, chỉ riêng sông Đà chảy ngược về hướng Bắc. Mở đầu thiên tùy bút, Nguyễn Tuân đã đưa người đọc đi thăm quan con sông ở vùng thượng nguồn đầy dữ dội và bí ẩn. Ở thượng nguồn, sông Đà có nhiều quãng hiểm trở. "Đá bờ sông dựng vách thành" thật âm u và hiểm nguy. Vì thế, cả ngày mặt sông không có ánh nắng, chỉ khi “đúng ngọ” thì chỗ ấy mới có ánh nắng. Thế mới thấy độ cao của những vách đá ấy chót vót và sâu hun hút đến nhường nào. Có chỗ "vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu". Những vách đá ấy đã khiến dòng chảy con sông bị thu hẹp. Nguyễn Tuân đã sử dụng thêm chi tiết để tăng tính xác thực về dòng chảy nhỏ hẹp ấy: "đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách" và "có quãng con nai con hổ đã có lần nhảy vọt từ bờ này sang bờ kia". Con người thật nhỏ bé biết bao giữa thiên nhiên hùng vĩ, lúc này, tác giả đã có sự liên tưởng giữa con người với thiên nhiên: "Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lê một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện". Người nghệ sĩ tài hoa ấy đã vận dụng nhiều giác quan và khai thác kho tàng chữ nghĩa của mình để cảm nhận hết cái bí ẩn của sông Đà. Tính chất hung bạo của Sông Đà còn thể hiện qua cái dữ dằn của ghềnh sông với sự hòa hợp của gió, sóng và đá. "Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy”. Động từ “xô” được lặp lại đến ba lần thể hiện sự dồn dập không ngừng nghỉ, hiện lên một hình ảnh trùng điệp liên tiếp về sức mạnh khủng khiếp của dòng sông. "Đòi nợ xuýt” đã giúp Nguyễn Tuân miêu tả ấn tượng sự dữ dội, hiểm nguy của sông Đà. “Đòi nợ xuýt” là đòi nợ người không mắc nợ gì với mình. Nguyễn Tuân đã sử dụng biện pháp so sánh một cách độc đáo qua những từ ngữ lạ khiến người đọc không khỏi rùng mình trước sức mạnh của con sông. Tất cả gùn ghè nhau, xô đẩy nhau. Thật nguy hiểm với con người. Không chỉ dừng lại ở đó, ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La xuất hiện những cái hút nước: “Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê-tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”. Có lẽ vì sức hút của nước quá mạnh nên tác giả đã nhân hóa nó đang thở và kêu “như cửa cống cái bị sặc”. Sự kinh khủng của những “cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn” đã làm cho không thuyền nào dám men gần những cái hút nước. Nhà văn còn so sánh những cái hút nước sâu như những cái giếng “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào". Nguyễn Tuân lại tiếp tục diễn tả đầy sống động hình ảnh những cái hút nước bằng ngôn từ nghệ thuật hấp dẫn, ấn tượng: "Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những cái thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm đi và đi ngầm lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Nhà văn đã sử dụng góc nhìn điện ảnh để miêu tả sự dữ dội của những cái hút nước trên sông Đà: "Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn đã nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả đã dũng cảm ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả mình, cả máy quay xuống đáy cái hút Sông Đà... Thế rồi thu ảnh". Bộ phim ấy đã khiến người xem cảm thấy "khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả người quay phim và người đang xem". Để xem hết bộ phim ấy, ông cảm thấy như mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn. Phải gắn bó với thiên nhiên đất nước đến nhường nào thì Nguyễn Tuân mới có thể viết nên thiên tùy bút đầy cảm xúc chân thật đến vậy. Tiếng nước thác sông Đà dần hiện lên như một bầy thủy quái đang gầm réo dữ dội. Chúng vừa hung hăng, bạo ngược, vừa nham hiểm, dữ dội. Tiếng nước thác réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, như là khiêu khích. Nó còn rống lên như tiếng “một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Tác giả đã vận dụng thủ pháp nghệ thuật đối lập lấy lửa tả nước trên góc nhìn âm nhạc và hội họa, những thác nước sông Đà hiện lên đầy dữ dội. Thật nguy hiểm cho những người lái đò. Với nghệ thuật nhân hóa độc đáo, sáng tạo, Nguyễn Tuân đã miêu tả đến đá sông Đà: “Vừa ngoặt khúc sông lượn đã thấy trắng xóa cả một chân trời đá". Tại sao sông Đà lại nhiều đá đến vậy? Ông dường như đã lý giải tâm địa xấu xa của những hòn đá ấy, chúng từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, “mỗi lần thấy chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần thấy chiếc thuyền nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền” . Hình thù của đá sông Đà thật ghê gớm và dữ tợn hệt như tâm địa của chúng. Một loạt hình ảnh nhân hóa cùng cách dùng từ độc đáo như khắc họa “nét mặt” của những hòn đá: "Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm, méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này". Có hòn thì đứng, có hòn thì ngồi, có hòn thì nằm tùy theo đá to, đá bé. Thái độ của chúng cũng không lệch đi đâu được so với hình thù ấy. Chúng hỗn xược, xấc láo, nghênh ngang, kiêu ngạo và đầy tính hiếu chiến. “Một hòn trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào”. Nhưng có lẽ tất cả những đặc điểm ấy đều là sự sắp xếp của thạch trận sông Đà. Các đám tảng, đám hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở nhưng chính hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa, vào tận tuyến giữa rồi nước sóng luồng với đánh khuỷu quật vu hồi lại. Nếu lọt vào đây rồi mà cái thuyền du kích ấy vẫn chọc thủng được tuyến hai, thì nhiệm vụ của những boongke chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên, phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thuỷ thủ ngay ở chân thác. Không chỉ riêng trận địa đá, nước thác cũng reo hò làm thanh viện cho đá, khiến những hòn đá càng thêm bệ vệ, oai phong, lẫm liệt, đầy khí phách trước người lái đò sông Đà. Sóng sông Đà cũng vậy. “Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt". Cuối cùng, "cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Ông đò “mặt méo bệch đi”, sóng vẫn “đánh hồi lùng, đòn âm, đòn tỉa vào chỗ hiểm và tăng thêm mãi tiếng hỗn chiến của nước, của đá thác.” Sông Đà đâu chỉ hung bạo, đây còn là con sông đầy thơ mộng, trữ tình. Nguyễn Tuân đã miêu tả vẻ đẹp ấy của sông Đà ở nhiều góc độ: từ trên máy bay xuống, sau một chuyến đi rừng và đi thuyền trên sông. Từ trên tàu bay nhìn xuống, sông Đà như một "cái dây thừng ngoằn ngoèo" dưới chân, thật mềm mại, uyển chuyển như một dải lụa mềm trôi theo mây trời Tây Bắc. Nhìn hình ảnh ấy của con sống, có lẽ mấy ai nhận ra đó là con sông hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dữ, vô tội vạ với người lái đò sông Đà. Cũng không ai nghĩ rằng đó là con sông của câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh "Núi cao sông hãy còn dài/ Năm năm báo oán đời đời đánh ghen". Thấp thoáng ẩn hiện trên dòng sông đó là hình ảnh của núi sông, của Tổ quốc tươi đẹp, bao la. Nguyễn Tuân dường như đang mê mẩn con sông, ngắm nhìn “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Ông đã tưởng tượng Tây Bắc là một người thiếu nữ đang độ xuân xanh và sông Đà là mái tóc của người thiếu nữ ấy. Mái tóc tuôn dài, óng ả đầy thơ mộng buông xuống cơ thể người con gái ấy. Từ thi sĩ, ông trở thành một họa sĩ tự bao giờ. Sông Đà dưới đôi mắt Nguyễn Tuân như một bức tranh đẹp với sự hòa trộn của sắc màu, đường nét. Màu đỏ của hoa gạo, sắc thắm của hoa ban cùng với màu lam luyến nhẹ nhàng của làn khói núi Mèo đốt nương xuân, màu xanh của trời mây, non nước đã hòa vào nhau tạo nên bức tranh huyền ảo, thơ mộng nhưng cũng rất rực rỡ giữa nền trời Tây Bắc. Nguyễn Tuân lại tiếp tục “nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà,... xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà”. Một năm có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, sông Đà cũng có sự luân chuyển “màu áo” giữa bốn mùa tươi đẹp ấy. Mùa xuân nước sông Đà xanh màu xanh ngọc bích, không phải màu xanh canh hến dân dã của sông Gâm, sông Lô. Đến thu, nước sông Đà có sự thay đổi từ màu xanh trong như ngọc bích, “nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Mỗi mùa sông Đà lại hiện lên một vẻ đẹp, một cảm xúc, tâm trạng khác nhau. Đang say sưa trong vẻ đẹp sắc nước của Đà giang, Nguyễn Tuân đã có sự phủ nhận quả quyết dành cho bọn thực dân Pháp: “Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng Sông Đà là đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ”. Thế mới thấy, Nguyễn Tuân trân trọng thiên nhiên Tổ quốc biết bao! Sau một chuyến đi rừng dài ngày, bất ngờ gặp lại dòng sông khi mải miết bám gót anh liên lạc. Dòng sông sáng “loang loáng” như một tấm gương trẻ con nghịch chiếu vào mắt rồi bỏ chạy. Màu sắc dòng sông cũng có những biến đổi kì lạ. Sông Đà không chỉ có sắc xanh ngọc bích hay sắc đỏ lừ lừ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa mà còn “sáng lóe” lên một màu nắng tháng ba của Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Bờ bãi sông Đà cũng thật thơ mộng và huyền ảo với chuồn chuồn bươm bướm đang dập dờn bay lượn. Một bức tranh thiên nhiên xanh biếc tràn đầy sức sống dưới góc nhìn của Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân không giấu nổi niềm vui sướng mà reo lên như một đứa trẻ: "Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao vừa đứt quãng". Sông Đà hiện lên như một giấc mơ cổ tích, được miêu tả với nhiều góc nhìn và màu sắc lung linh, mộng mơ. Vẻ đẹp của sông Đà khi đi thuyền trên sông nhẹ nhàng và mơ màng. Câu văn mở đầu "thuyền tôi trôi trên Sông Đà" diễn tả hình ảnh con thuyền nhẹ nhàng trôi trên dòng nước hiền hòa. Không còn cảm giác dữ dội đáng sợ, giờ đây sông Đà nhẹ nhàng như một thiếu nữ e thẹn. Không gian của dòng sông được gói gọn trong hai chữ “lặng tờ” được lặp lại hai lần. "Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi". Cảnh vật sông Đà đắm chìm trong giấc mơ thơ mộng, huyền ảo. Ông khách sông Đà cũng đắm chìm vào khung cảnh ấy trong màu xanh hồn nhiên. Đó là nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa nhưng lại tịnh không một bóng người. Có cả cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp, đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ đẫm sương đêm. Bức tranh thiên nhiên Đà giang như từ cổ tích bước ra, như một chốn thần tiên mơ mộng diệu kỳ. Ngược về dòng chảy lịch sử qua hàng ngàn năm, Nguyễn Tuân đã liên tưởng: "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa". Từ trong không gian "hoang dại" và “cổ tích” ấy, Nguyễn Tuân thốt lên đầy khao khát: "Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu”. Phải chăng tiếng còi tàu ấy đã đánh thức giấc mơ huy hoàng trong ông, về một tương lai tươi sáng? Trong khoảnh khắc lặng tờ ấy, cuộc đối thoại giữa ông khách sông Đà và con hươu thơ ngộ là tâm điểm của sự chú ý. Trên cái nền xanh của áng cỏ sương, con hươu chăm chăm nhìn ông đò như dò hỏi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: "Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?". Đàn cá dầm xanh đã làm khuấy động không gian qua hành động “quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi đàn hươu vụt biến”. Nguyễn Tuân đã miêu tả thật độc đáo khi chuyển từ cảnh tĩnh sang cảnh động. Nhưng cuối cùng, mọi thứ vẫn đều rơi vào tĩnh lặng và trở về thực tại với con đò trôi xuôi êm ái: "Thuyền tôi trôi trên "Dải sông Đà bọt nước lênh đênh - Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình" của một người tình nhân chưa quen biết (Tản Đà). Lúc này, dòng sông chảy lững lờ như đang nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để trên thượng nguồn Tây Bắc. Nó như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi. Và con sông đang trôi những con đò mình nở, chạy buồm vải, nó khác hẳn những con đò đuôi én, thắt mình dây cổ điển dòng trên. Những so sánh ẩn dụ, những nhân hóa trong đoạn văn này cho thấy một tình yêu sông núi thiết tha, một cái nhìn nồng hậu, một cái lắng nghe trìu mến Nguyễn Tuân dành cho dòng sông và cuộc đời. Đây chỉ là một đoạn trích ngắn trong bài tùy bút "Người lái đò Sông Đà" nhưng đã cho độc giả thấy được tình yêu của Nguyễn Tuân với sông Đà, rộng ra là tình yêu sông núi, yêu con người Việt Nam cần cù, dũng cảm, tài hoa. Ngòi bút của Nguyễn Tuân dưới nhiều góc nhìn và lĩnh vực khác nhau, cùng sự sáng tạo câu từ đầy gợi cảm và độc đáo, tất cả đều toát lên chất tài hoa, sắc sảo, uyên bác trong phong cách của Nguyễn Tuân. VIII. Phân tích hình tượng người lái đò1. Mở bài Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân, tùy bút Người lái đò sông Đà và hình tượng người lái đò. 2. Thân bài
Lai lịch: một ông lão gần 70 tuổi, làm nghề lái đò nhiều năm. Ngoại hình: “tay lêu nghêu... chất mun” để ngợi ca những con người vô danh âm thầm cống hiến. Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với con thủy quái hung bạo. Tài năng và tâm hồn: Là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà ông xuôi ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ... những luồng nước”…
Tiếng nước nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo… rống lên như tiếng của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, nó bày thạch trận trên sông: Đám tảng đám hòn, chia làm ba hàng chặng ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, nhưng chính hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa,.... Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong, lẫm liệt, thách thức chiếc thuyền. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông lái đò lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá... → Sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa, đầy sáng tạo để khắc họa sự hung bạo, dữ dằn trong trận thủy chiến gay go, quyết liệt. Ông lái đò là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba: ung dung đối đầu với thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo...”, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần núi”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác...” Ông còn là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện thường. 3. Kết bài Khái quát lại vẻ đẹp của người lái đò. VIII. Mở bài và kết bài Người lái đò sông ĐàMở bài Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà mẫu 1 Mỗi khi nhắc đến "chủ nghĩa xê dịch" thì người ta thường nghĩ ngay đến Nguyên Tuân và ngược lại. Nguyễn Tuân đến miền Tây Bắc để tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên ở tâm hồn người lao động. Những trang tả đèo cao, vực sâu, thác nước dữ dội hay cảnh thiên nhiên đẹp tuyệt đỉnh chính là những trang sách viết hay nhất của ông. Đoạn trích "Người lái sông Đà" nằm trong tập Tùy bút "Sông Đà" chính là đại biểu tiêu biểu nhất cho phong cách của ông và phong cảnh hoang sơ mà hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc. Mở bài Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà mẫu 2 Nguyễn Tuân là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đại. Mỗi tác phẩm của ông là mỗi bài ca về cái đẹp của cuộc sống, của con người, với tư tưởng, tình cảm gắn bó với đất nước quê hương. Bằng ngòi bút độc đáo, uyên bác, tài hoa,Nguyễn Tuân đã viết nên những trang bút ký đặc sắc, tái hiện một cách độc đáo vẻ đẹp kỳ vĩ, thơ mộng của sông Đà cũng như thiên nhiên hùng vĩ núi rừng Tây Bắc qua tuỳ bút “Người lái đò sông Đà”. Mở bài Người lái đò sông Đà mẫu 3 Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn lãng mạn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam, một cây bút tiên phong của nền văn học mới. Đối với ông, viết văn là một cách để thể hiện cái tôi tài hoa, uyên bác và cũng rất đỗi bình dị, rất người. Các tác phẩm của ông luôn đa dạng về thể loại và sâu sắc. Tuy nhiên đến với thể loại tùy bút ta mới thấy rõ được tài năng thiên bẩm và đỉnh cao của ông ở dạng đề tài này. Đặc biệt thông qua qua tập Tùy bút sông đà, Nguyễn Tuân đã thực sự chinh phục người đọc với những áng văn miêu tả hình ảnh con sông Đà hùng vĩ vừa hung bạo vừa nên thơ trong tùy bút Người lái đò sông Đà. Kết bài Người lái đò sông Đà mẫu 1 Hình tượng Người lái đò được xây dựng rất thành công qua ngòi bút độc đáo và sáng tạo của Nguyễn Tuân. Nhà văn đã khẳng định được tài năng và sức mạnh cường đại của con người, cuộc chiến không cân sức giữa con người lao động và thiên nhiên kỳ bí vốn có nhiều cam go, vất vả. Nhưng họ đã chiến thắng một cách huy hoàng, vẻ vang nhất, trở thành người nghệ sĩ tài ba trên chính mặt trận tìm kế sinh nhai của mình. Kết bài Người lái đò sông Đà mẫu 2 “Người lái đò sông Đà” là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhân và nhất là con người lao động bình dị ở miến Tây Bắc. Hình ảnh người lái đò sông Đã là tiêu biểu cho con người lao động vùng Tây Bắc, dũng cảm, gan dạ, quật cường, luôn kiên trì và hết mình với công việc. Nổi bật nên trên thiên nhiên bao la hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc chính là con người lao động nơi đây. Kết bài Người lái đò sông Đà mẫu 3 Cảm ơn nhà văn Nguyễn Tuân đã cho chúng ta thưởng thức một công trình nghệ thuật đầy sáng tạo. Ngoài việc cung cấp cho chúng ta những kiến thức và tri thức về cuộc sống, về văn hóa và lịch sử địa lí, về ngôn ngữ..., tác phẩm còn là một khối kiến trúc thẩm mĩ độc đáo, giúp ta cảm thụ được cái đẹp một cách sâu sắc, cái đẹp của con người cụ thể, con người lao động Người lái đò Sông Đà. Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con người lao động gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang. Kết bài Người lái đò sông Đà mẫu 4 Kết thúc hành trình khám phá dòng sông Đà, nhà văn Nguyễn Tuân đã mang đến một diện mạo, một hình tượng với vẻ đẹp hùng vĩ xen lẫn thơ mộng của thiên nhiên nơi đây. Dòng sông đó có cá tính mạnh mẽ, hiểm ác đôi khi nó lại như người thiếu nữ duyên dáng với "mái tóc dài" . Không chỉ vậy, tác giả còn khắc họa vẻ đẹp trân quý bên trong con người lao động Tây Bắc với tất cả sự say mê, tình yêu tha thiết và cả vốn hiểu biết am hiểu mọi lĩnh vực của mình. Qua đây tác giả cũng bộc lộ tình yêu đất nước, thiên nhiên và niềm hứng khởi khi hòa mình vào không khí xây dựng đất nước thời kỳ đổi mới. IX. Những tác phẩm nên ôn thi THPT Quốc Gia 2023 môn Văn1. Chiếc thuyền ngoài xa
2. Người lái đò sông đà
3. Vợ chồng A Phủ
4. Ai đã đặt tên cho dòng sông
5. Vợ nhặt
----- Trên đây VnDoc.com vừa gửi tới bạn đọc bài viết Người lái đò sông Đà. Bài viết được tổng hợp kiến thức về tác giả, tác phẩm, tóm tắt và phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà. Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm nhiều tài liệu để học tập tốt hơn môn Ngữ văn nhé. Mời bạn đọc cùng tham khảo thêm mục Soạn văn 12, Văn mẫu 12... |