Vào thời nhà Trần nước ta có tên gọi là gì

Trần Thái Tông - Trần Cảnh

Chi tiết Chuyên mục: Nhà Trần

Trần Thái Tông [1225 - 1258]

Sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần - 1218, con thứ của ông Trần Thừa và bà họ Lê. Tổ tiên Nhà Trần là Trần Kính vốn gốc ở Đông Triều [Quảng Ninh] chuyên nghề đánh cá, đến ở hương Tức Mạc, phủ Thiên Trường [nay là xã Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định], sinh ra Trần Hấp, Trần Hấp sinh ra Trần Lý.

Trần Lý sinh ra Trần Thừa, Trần Tự Khánh và Trần Thị Dung. Trần Thủ Độ là cháu họ, được Trần Lý nuôi nấng từ nhỏ coi như con. Trần Thừa sinh ra Trần Liễu và Trần Cảnh là con trai, sau có mối tình với cô thôn nữ ở thôn Bà Liệt tên là Tần, sinh ra Trần Bá Liệt. Dưới sự đạo diễn của Trần Thủ Độ, lúc đó là Điện Tiền chỉ huy sứ, ngày 21 tháng 10 năm Ất Dậu - 1225, Lý Chiêu Hoàng xuống chiếu nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh.

Ngày 11 tháng 12 năm Ất Dậu - 1225, Trần Cảnh chính thức lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Kiến Trung, phong Lý Chiêu Hoàng làm Chiêu Thánh Hoàng hậu, phong Trần Thủ Độ là Thái sư thống quốc hành quân vụ chinh thảo sự.

Xem thêm: Trần Thái Tông - Trần Cảnh

Trần Thánh Tông - Trần Hoảng

Chi tiết Chuyên mục: Nhà Trần

Trần Thánh Tông [1258 - 1278]

Là con trưởng dòng đích của Thái Tông, mẹ là Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng Thái hậu Lý Thị, sinh ngày 25 tháng 9 năm Canh Tý - 1240. Ngày 24 tháng 2 năm Mậu Ngọ - 1258 lên ngôi hoàng đế đổi niên hiệu là Thiệu Long năm thứ 1.

Thánh Tông là một vị vua nhân từ độ lượng, hết lòng chăm lo việc nước. Về đối nội, nhà vua khuyến khích khai khẩn đất hoang, mở mang điền trang thái ấp bằng cách chiêu tập những người nghèo đói lưu lạc, giúp họ an cư lạc nghiệp. Nhà vua khuyến khích việc học hành bằng cách mở các khoa thi để lựa chọn người tài mà trọng dụng, thời Trần đã xuất hiện "Lưỡng quốc Trạng nguyên" Mạc Đĩnh Chi, nhà sử học Lê Văn Hưu đã viết bộ quốc sử đầu tiên của nước ta là "Đại Việt sử ký".

Xem thêm: Trần Thánh Tông - Trần Hoảng

Trần Nhân Tông - Trần Khâm

Chi tiết Chuyên mục: Nhà Trần

Trần Nhân Tông [1279-1293]

Con trưởng Thánh Tông, mẹ là Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng thái hậu, sinh ngày 11 tháng 11 Mậu Ngọ - 1258, ngày mồng 1 tháng Giêng năm Kỷ Mão - 1279 lên ngôi Hoàng đế đổi niên hiệu là Thiệu Bảo.

Vua Trần Nhân Tông là một vị vua nhân từ, hoà nhã, cố kết lòng dân, quyết đoán, hết lòng vì dân vì nước trong thời gian 14 năm ở ngôi khi đất nước Đại Việt ta trải qua hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông hùng mạnh nhất thế giới thời bấy giờ.

Xem thêm: Trần Nhân Tông - Trần Khâm

Trần Anh Tông - Trần Thuyên

Chi tiết Chuyên mục: Nhà Trần

Trần Anh Tông [1293 - 1314]

Tên huý là Thuyên, con trưởng của Trần Nhân Tông và mẹ là Khâm Từ Bảo Khánh hoàng thái hậu, có hai em là Huệ Võ Vương Quốc Chuẩn và em gái là Huyền Trân công chúa.

Trần Anh Tông khéo biết kế thừa sự nghiệp của tổ tiên, cho nên thời cuộc đi đến thái bình, chính trị trở nên tốt đẹp, văn vật chế độ ngày càng thịnh vượng, cũng là một vua tốt của triều Trần.

Xem thêm: Trần Anh Tông - Trần Thuyên

Trần Minh Tông - Trần Mạnh

Chi tiết Chuyên mục: Nhà Trần

Trần Minh Tông [1314 - 1329] 

Tên huý là Mạnh, con thứ tư của Trần Anh Tông. Mẹ là Chiêu Hiền hoàng thái hậu Trần Thị, con gái của Bảo Nghĩa đại vương Trần Bình Trọng, sinh năm Canh Tý - 1300.

Trần Minh Tông có lòng nhân hậu, biết tôn trọng nhân tài nên có nhiều hiền thần dưới trướng như Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Chu Văn An, Nguyễn Trung Ngạn, Đoàn Nhữ Hài, nhưng đã quá tin bọn nịnh thần giết oan chú ruột, đồng thời là bố vợ là Huệ Võ Vương Trần Quốc Chẩn, một lỗi lầm lớn của Trần Minh Tông.

Xem thêm: Trần Minh Tông - Trần Mạnh

Năm 1400, Hồ Quý Ly chiếm ngôi nhà Trần, đặt quốc hiệu là Đại Ngu, chưa được 1 năm trao ngôi cho con và làm Thái thượng hoàng nhưng vẫn nắm đại quyền.

Tên gọi của nước ta dưới thời Hồ là gì?

A. Đại Việt

B. Đại Nam

C. Đại Ngu

D. Đại Cồ Việt

Đáp án đúng C.

Tên gọi của nước ta dưới thời Hồ là Đại Ngu, là quốc hiệu của Việt Nam thời nhà Hồ, Quốc hiệu Đại Việt được đổi thành Đại Ngu năm 1400 khi Hồ Quý Ly lên nắm quyền, Hồ Quý Ly đã có những sự thay đổi về hành chính, kinh tế, quân sự và đã chuyển kinh đô từ Thăng Long về Thanh Hóa.

Giải thích việc chọn đáp án đúng là C do:

Năm 1400, Hồ Quý Ly chiếm ngôi nhà Trần, đặt quốc hiệu là Đại Ngu, chưa được 1 năm trao ngôi cho con và làm Thái thượng hoàng nhưng vẫn nắm đại quyền.

Hồ Quý Ly đã có những sự thay đổi về hành chính, kinh tế, quân sự và đã chuyển kinh đô từ Thăng Long về Thanh Hóa.

Mười tháng sau khi lên ngôi, ông đã phát binh thảo phạt Chiêm Thành, qua hai lần phát binh, chiếm được hai châu Đại Chiêm và Cổ Lũy [1402].

Năm sau [1403], ông còn cho đại quân bao vây Đồ Bàn nhưng không thắng. Đến năm 1406, nhà Minh đưa quân xâm lược Đại Ngu, quân Đại Ngu thất bại nhanh chóng, lui dần về phía nam và thất bại toàn cục năm 1407 khi cha con Hồ Quý Ly đều bị quân Minh bắt và giải về Trung Quốc.

Hồ Quý Ly là vị hoàng đế đầu tiên của nhà nước Đại Ngu trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi vị Hoàng đế từ năm 1400 đến năm 1401, sau đó giữ ngôi Thái thượng hoàng từ năm 1401 đến năm 1407.

Đại Ngu [大虞] là quốc hiệu của Việt Nam thời nhà Hồ. Quốc hiệu Đại Việt được đổi thành Đại Ngu năm 1400 khi Hồ Quý Ly lên nắm quyền. Sau khi nhà Hồ bị thất bại trước nhà Minh, và nhà Hậu Lê giành lại độc lập cho Việt Nam, quốc hiệu của Việt Nam đổi lại thành Đại Việt

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, sau khi lên ngôi vua, Hồ Quý Ly đổi quốc hiệu Đại Việt thành Đại Ngu. Chữ “Ngu” ở đây có nghĩa là yên vui, hòa bình. 

Hồ Quý Lý chọn quốc hiệu này vì nhận mình là con cháu của Ngu Thuấn – một trong ngũ đế nổi tiếng của Trung Quốc thời thượng cổ.

Nhiều sử gia như Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên đều chê cười việc “bắt quàng làm họ” này của ông, … họ hàng xa xôi, các đời biến đổi, khó mà tin được. Quý Ly lại nhận là dòng dõi xa của Hồ Công Mãn, tế Ngu Thuấn làm thủy tổ, thì cái tội dối đời để tiếm ngôi thực không gì to bằng”, các tác gia nhận xét trong Đại Việt sử ký toàn thư.

Trên thế giới này, chẳng có quốc gia nào không có tên nước [quốc hiệu]. Bởi đó là cái để phân biệt nước này với nước kia, là cái để ta yêu thương, ta xây đắp, ta tự hào và ta hướng về nguồn cội ông cha. Việt Nam, một đất nước hơn 4 nghìn năm văn hiến anh hùng đã trải qua nhiều quốc hiệu khác nhau trong các thời kỳ lịch sử. Sau đây là những quốc hiệu mà bất kỳ người nào mang dòng máu Việt cũng nên biết:

1. Xích Quỷ - Tên nước ta thời vua Kinh Dương Vương

Theo truyền thuyết, các tài liệu và thư tịch cổ, năm 2879 Trước Công nguyên, Kinh Dương Vương lên ngôi vua, lập lên Nhà nước Xích Quỷ - nhà nước sơ khai độc lập có chủ quyền đầu tiên của dân tộc ta. Kinh Dương Vương kết duyên với Thần Long sinh ra Lạc Long Quân [tên húy là Sùng Lãm]. Sau đó, Lạc Long Quân kết duyên với Âu Cơ sinh ra các vua Hùng.

2. Văn Lang - Tên nước ta thời các Vua Hùng

Từ đầu thời đại đồng thau, có khoảng 15 bộ Lạc Việt sinh sống chủ yếu ở miền trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Trong số các bộ lạc Lạc Việt, bộ lạc Văn Lang hùng mạnh hơn cả. Thủ lĩnh bộ lạc này là người đứng ra thống nhất tất cả các bộ lạc Lạc Việt, dựng lên Nhà nước Văn Lang, xưng vua - mà sử cũ gọi là Hùng Vương,  kinh đô đặt ở Phong Châu. 

Quốc hiệu Văn Lang mang ý nghĩa gì? Hiện nay có nhiều cách giải thích khác nhau.  Theo ý tôi, lang là lan tỏa, văn là văn hóa. Văn Lang nghĩa là cội nguồn văn hóa mang sức mạnh lan tỏa. 

Thời gian tồn tại của nước quốc hiệu Văn Lang tồn tại khoảng 2.671 năm khoảng từ đầu thiên niên kỷ I trước Công nguyên đến thế kỷ III trước Công nguyên.

3. Âu Lạc - Tên nước ta thời vua An Dương Vương

Sau khi khiến Tần Thủy Hoàng phải lui quân chịu thất bại trong âm mưu xâm lược nước ta vào năm 208 trước công nguyên, Thục Phán bằng ưu thế của mình đã xưng vương [An Dương Vương], liên kết các bộ lạc Lạc Việt và Âu Việt lại, dựng nên nước Âu Lạc [tên ghép hai chữ của hai bộ lạc Âu Việt và Lạc Việt]. Quốc hiệu Âu Lạc tồn tại 50 năm từ 257 trước CN  đến 207 trước CN

4. Vạn Xuân - Tên nước ta thời nhà tiền Lý và nhà Ngô

Vào mùa Xuân năm 542, Lý Bí khởi nghĩa, đánh đuổi quân Lương, giải phóng được lãnh thổ. Đến tháng 2 năm 544, Lý Bí lên ngôi Hoàng đế, lấy tên hiệu là Lý Nam Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân [Với ý nghĩa đất nước bền vững vạn mùa Xuân], khẳng định niềm tự tôn dân tộc, tinh thần độc lập và mong muốn đất nước được bền vững muôn đời.

Chính quyền Lý Bí tồn tại không lâu thì thất bại, nước ta rơi vào vòng đô hộ của các triều đạiTrung Quốc [từ năm 602]. Quốc hiệu Vạn Xuân trải qua nhiều thăng trầm và được khôi phục sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán bằng chiến thắng Bạch Đằng năm 938. 

5. Đại Cồ Việt - Tên nước ta thời nhà Đinh

Năm 968, Ðinh Bộ Lĩnh dẹp yên loạn 12 sứ quân cát cứ, thống nhất đất nước, lên ngôi Hoàng đế và cho đổi quốc hiệu là Ðại Cồ Việt [Đại nghĩa là lớn, Cồ nghĩa là lớn, do đó tên nước ta có nghĩa là nước Việt lớn]. Ta cũng thấy lần đầu tiên yếu tố “Việt” được có trong quốc hiệu

Tên nước Đại Cồ Việt tồn tại 86 năm [968-1054] trải qua suốt đời Ðinh [968-979], Tiền Lê [980-1009] và đầu thời Lý [1010-1053].

6. Đại Việt - Tên nước ta thời nhà Lý, nhà Trần, sau đó sang thời nhà Hồ thì bị thay đổi

Năm 1054, nhân điềm lành lớn là việc xuất hiện một ngôi sao sáng chói nhiều ngày mới tắt, nhà Lý [Lý Thái Tông] liền cho đổi tên nước thành Đại Việt [nước Việt lớn, yếu tố “Việt” tiếp tục được khẳng định], và quốc hiệu Đại Việt được giữ nguyên đến hết thời Trần thì bị thay đổi.

7. Đại Ngu - Tên nước ta thời nhà Hồ

Tháng 3 năm 1400, Hồ Quý Ly phế vua TrầnThiếu Đế lập ra nhà Hồ và cho đổi tên nước thành Đại Ngu [“Ngu” tiếng cổ có nghĩa là “sự yên vui”]. Quốc hiệu đó tồn tại cho đến khi giặc Minh đánh bại triều Hồ [tháng 4/1407]. 

8. Đại Việt - Lại được sử dụng làm quốc hiệu nước ta vào thời kỳ Hậu Lê và nhà Tây Sơn

Sau 10 năm kháng chiến [1418-1427], cuộc khởi nghĩa chống Minh của Lê Lợi toàn thắng. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi, đặt tên nước là Ðại Việt [lãnh thổ nước ta lúc này về phía Nam đã tới Huế]. Quốc hiệu Ðại Việt được giữ qua suốt thời Hậu Lê [1428-1787] và thời Tây Sơn [1788-1802].

Tính cả nhà Lý, Trần, Hậu Lê vàTây Sơn, quốc hiệu ĐẠI VIỆTcủa nước ta tồn tại 748 năm [1054-1804]

9. Việt Nam - Tên nước ta thời Nhà Nguyễn tính từ năm 1804-1884

Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua và sau đó cho đổi tên nước là Việt Nam. Sách Đại Nam thực lục chép: “Giáp Tý, Gia Long năm thứ 3 [1804], tháng 2, ngày Đinh Sửu, đặt Quốc hiệu là Việt Nam, đem việc cáo Thái Miếu. Xuống chiếu bố cáo trong ngoài”. 

Tên gọi Việt Nam mang ý nghĩa chỉ quốc gia của người Việt ở phương Nam để phân biệt với quốc gia của những người ở phương Bắc.

Quốc hiệu Việt Nam tồn tại 80 năm [1804-1884]. Tuy nhiên, hai tiếng "Việt Nam" lại thấy xuất khá sớm trong lịch sử nước ta như là trong các tài liệu,  tác phẩm của  trạng nguyên Hồ Tông Thốc [cuối thế kỷ 14], Nguyễn Trãi [đầu thế kỷ 15], trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm [1491-1585],...

10. Đại Nam - Tên nước ta thời vua Minh Mạng nhà Nguyễn

Ðến đời vua Minh Mạng [1820-1840], quốc hiệu được đổi thành Ðại Nam [mang ý nghĩa nước Nam lớn]. Dù vậy, hai tiếng "Việt Nam"vẫn được sử dụng rộng rãi trong các tác phẩm văn học, trong nhiều giao dịch dân sự và quan hệ xã hội. Quốc hiệu này tồn tại trên lý thuyết 107 năm từ năm 1838 đến năm 1945

11. Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - Tên nước ta trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ [1945-1975]

Ngày 19/8/1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, lật đổ hoàn toà nách thống trị phong kiến và thực dân, mở ra một kỷ nguyên mới. Khoảng 14h ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Quốc hiệu này khác với các quốc hiệu khác ở chỗ gắn với thể chế chính trị [dân chủ cộng hòa] thể hiện bản chất và mục đích của nhà nước là quyền dân chủ, tự do, công bằng cho tất cả mọi người. 

12. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Tên nước ta từ năm 1976 đến nay

Ngày 30/4/1975, miền Nam được giải phóng, đất nước được thống nhất. Ngày 02/7/1976, trong kỳ họp đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất, toàn thể Quốc hội đã nhất trí lấy tên nước là Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 

Quốc hiệu này, cũng như quốc hiệu trước đó, gắn với thể chế chính trị [Cộng hòa xã hội chủ nghĩa] và mang ý nghĩa thể hiện mục tiêu tiêu vươn tới một xã hội tốt đẹp hơn.

Trên đây là những tên gọi nước ta [quốc hiệu] mà không phải người Việt nào cũng đã biết. Hãy chia sẻ bài viết để mọi người đều hiểu thêm về cội nguồn đất nước thiêng liêng bạn nhé!

Trần Giảng [Tổng hợp và biên tập]

XEM THÊM:

Video liên quan

Chủ Đề