Ví dụ về thuyết nhận thức trong dạy học ở tiêu học
TIỂU SỬ CỦA PIAGETJean Piaget sinh ra ở Thụy Sĩ vào ngày 9/8/1896, ông bắt đầu bộc lộ niềm say mê với các ngành khoa học tự nhiên từ rất sớm. Năm 11 tuổi, Jean bắt đầu sự nghiệp với tư cách một nhà nghiên cứu qua việc viết một bài báo về con chim sẻ bạch tạng. Ông tiếp tục nghiên cứu các ngành khoa học tự nhiên và nhận bằng tiến sĩ về động vật học từ trường đại học Neuchatel vào năm 1918. Show
Vào năm 1920, Jean bắt đầu làm việc với tư cách là một nhà tâm lý học. Ông kết hôn với Valentin Chatenay vào năm 1923, họ có với nhau 3 người con. Chính sự quan sát hoạt động những đứa con của mình, là cơ sở là nền tảng cho nhiều nghiên cứu sau đó của ông. Sau khi tốt nghiệp trung học, ông nhập học đại học Neuchatel, và nhận bằng tiến sĩ về khoa học tự nhiên vào năm 1918. Cùng năm đó, ông bắt đầu nghiên cứu về phân tâm học dưới sự hướng dẫn của Carl Jung, trong suốt những năm học sau, ông dành thời gian đề tìm hiểu về tâm lý học bất thường ở đại học Sorbonme, Paris. Vào năm 1920, Jean cộng tác với Théodore Simon tại phòng nghiên cứu Alfred Binet, Paris. Piaget đánh giá kết quả bài kiểm tra lý thuyết tiêu chuẩn mà Simon đã thiết kế. Các bài kiểm tra đó nhằm để đo độ thông minh của trẻ em và tìm ra sự liên kết giữa độ tuổi với bản chất lỗi sai của các em. Theo quan điểm của Piaget, kết quả những bài kiểm tra của Simon đã đặt ra những vấn đề mới về cách mà trẻ học tập. Sau cùng Piaget nhận ra rằng cách làm của Simon là quá cứng nhắc. Trong một phiên bản đã được sửa đổi, Piaget cho phép trẻ em giải thích tính logic trong những câu trả lời sai của chúng. Sau khi đọc những lời giải thích đó, ông nhận ra rằng lập luận của những đứa trẻ không phải là không có lý. Trong trường hợp trẻ thiếu hụt về kinh nghiệm sống để nêu lên một vấn đề, thì chúng đã sử dụng trí tưởng tượng của mình để bù đắp. Từ đó, Piaget kết luận rằng kiến thức thực tế không nên đánh đồng với trí thông minh hay sự hiểu biết. LÝ THUYẾT PHÁT SINH NHẬN THỨCTrong sự nghiệp nghiên cứu về tâm lý trẻ em suốt sáu thập kỷ, Piaget cũng xác định được 4 giai đoạn phát triển nhận thức. Lý thuyết “Phát sinh nhận thức” của Jean Piaget cho thấy trẻ em trải qua bốn bước phát triển nhận thức khác nhau. Lý thuyết của ông không chỉ tập trung vào việc làm thế nào trẻ em có thể tiếp nhận kiến thức, mà còn tập trung nghiên cứu về bản chất của trí thông minh. 4 giai đoạn phát triển nhận thức gồm:
Piaget tin rằng đứa trẻ chính là người giữ vai trò chủ động trong quá trình học tập, chúng giống như một nhà khoa học nhỏ thực hiện những thí nghiệm đơn giản và quan sát, từ đó chúng có thể tìm hiểu về thế giới xung quanh. Khi trẻ em tương tác với thế giới xung quanh, các em liên tục nạp thêm những kiến thức mới, xây dựng từ những nền tảng kiến thức có sẵn và điều ứng với những kiến thức có sẵn để tiếp thu thêm. Giai đoạn cảm giác vận động (0-2 tuổi)
Giai đoạn tiền thao tác tư duy (2-7 tuổi)
Giai đoạn thao tác cụ thể (7-11 tuổi)
Giai đoạn thao tác chính thức (12 tuổi trở lên)
→ Điều quan trọng cần lưu ý là Piaget không xem sự phát triển trí tuệ của trẻ em là một quá trình định lượng; nghĩa là, trẻ em không chỉ thêm thông tin và kiến thức vào kiến thức hiện có khi chúng già đi. Thay vào đó, Piaget cho rằng có một sự thay đổi về chất trong cách trẻ em suy nghĩ khi chúng dần dần phát triển qua bốn giai đoạn này. Một đứa trẻ 7 tuổi không có nhiều thông tin về thế giới hơn so với lúc 2 tuổi; có một sự thay đổi cơ bản trong cách đưa trẻ ấy nghĩ về thế giới. ÁP DỤNG THUYẾT PHÁT SINH NHẬN THỨC CỦA PIAGET TRONG GIÁO DỤCTrong việc hướng dẫn học sinh, Piaget khuyến khích giáo viên có một vai trò tích cực, chủ động kèm cặp với học sinh. Thay vì truyền đạt một lượng lớn kiến thức cho học sinh khi các em ngồi nghe một cách thụ động, chia sẻ kinh nghiệm học tập và khuyến khích các em học sinh trở nên chủ động, dấn thân hơn. Hãy coi trọng học sinh và tôn trọng ý kiến, đề xuất và quan điểm của các em. Bổ sung vào những bài giảng truyền thống với những bài thực hành để học sinh có thể tự mình trải nghiệm những nội dung đó. Khuyến khích các em học sinh tự học hỏi từ những người bạn của mình. Điều này đặc biệt phù hợp với các em từ 2 – 7 tuổi nhưng nó hoàn toàn có thể áp dụng cho học sinh ở các độ tuổi khác. Việc lắng nghe một cách cẩn thận ý kiến của bạn bè và tôn trọng những quan điểm khác nhau sẽ đem đến những lợi ích lâu dài cho các em. Bởi vì các em học sinh có những khả năng nổi bật ở những mảng kiến thức khác nhau, thế nên, việc học hỏi từ bạn của mình cũng góp phần không nhỏ cho một nền giáo dục toàn diện. Hãy để cho các em học sinh được học hỏi từ sai lầm của mình. Piaget cho rằng trẻ em phát triển nhận thức về thế giới thông qua việc thử và mắc lỗi. Những lỗi sai có thể gây bực bội cho các em cũng như cho giáo viên, tuy nhiên, giáo viên cần có sự kiên nhẫn và hướng dẫn các em đến một kết quả khác. Sai lầm cho thấy các em đang cố gắng tương tác với thế giới xung quanh và từ đó các em có thể đưa ra những ý tưởng mới cho mình. Tập trung vào quá trình cũng như tập trung vào kết quả. Thay vì chỉ tập trung vào câu trả lời chính xác, giáo viên hãy chú ý đến những bước khác nhau để có thể đạt được một kết quả hoàn chỉnh nhất. Tôn trọng sở thích, khả năng và giới hạn của từng em học sinh. Những đứa trẻ khác nhau sẽ đạt được sự phát triển ở các giai đoạn khác nhau. Thay vì tạo áp lực để các em thích ứng với một cách học tập nào đó, hãy chú ý đến các giai đoạn phát triển của từng đứa trẻ và đưa ra những cách học phù hợp. Piaget khuyến khích sự độc lập, học tập thực hành và tạo cơ hội khám phá. Giáo viên có thể lập kế hoạch một loạt các hoạt động trong lớp học phù hợp với các phong cách học tập khác nhau, chẳng hạn như thông qua thị giác hoặc thính giác. Ở từng giai đoạn khác nhau sẽ có những phương pháp áp dụng riêng, cụ thể: Giai đoạn cảm giác vận động (0 – 2 tuổi)
Giai đoạn tiền thao tác tư duy (2 – 7 tuổi)
Giai đoạn thao tác cụ thể (7 – 11 tuổi)
Giai đoạn thao tác chính thức (12 tuổi trở lên)Khi bắt đầu giai đoạn này:
Tạo cơ hội để trẻ khám phá các tình huống giả định khác nhau. Trẻ em trong giai đoạn này nên được khuyến khích làm việc theo nhóm trong trường để giải thích và thảo luận về các chủ đề giả định. Yêu cầu trẻ viết một câu chuyện ngắn về một chủ đề giả định, ví dụ như: “Cuộc sống ngoài vũ trụ sẽ như thế nào?”. Điều này giúp trẻ áp dụng khía cạnh sáng tạo của chúng. Học sinh cũng nên được khuyến khích để giải thích cách các em giải quyết một vấn đề.
Giáo viên nên cố gắng mở rộng các khái niệm, thay vì chỉ đưa ra những sự thật.
Lược dịch và tổng hợp từ: Người dịch: Đinh Võ Phương Thanh, Đào Xuân Trường Người edit: Nguyễn Ngọc Thu Trang Design: Nguyễn Thị Thanh Huyền |