Vì người hoa rơi hữu ý có nghĩa là gì năm 2024

Lầm lũi viết những câu thơ, để làm gì nhỉ? Nhọc nhằn viết những câu thơ, để làm gì nhỉ? Đau đớn viết những câu thơ, để làm gì nhỉ? Không hề dễ dàng trả lời khi cuộc sống hối thúc mỗi người phải nhìn vào túi tiền đầy vơi, phải nhìn vào danh vọng cao thấp, phải nhìn vào hạnh phúc ngắn dài...

Chẳng ai chọn thơ để mưu sinh, nhưng thơ vẫn tồn tại, bất chấp không gian nhộn nhịp hay nhân tình lạnh lẽo. Vì thơ luôn cho con người cơ hội thấu hiểu bản thân. Chỉ cần xuất hiện đúng lúc, thơ trợ lực con người chiến thắng sự yếu hèn và đánh bại sự sợ hãi.

Đoạn cuối Hán Sở tranh hùng, Hạng Vũ (232 - 202 trước Công nguyên) bị Hàn Tín vây khốn ở Cai Hạ. Cái chết của bá vương lừng lẫy bên bờ Ô Giang chắc chắn sẽ oan nghiệt hơn và bẽ bàng hơn trong mắt hậu thế, nếu Hạng Vũ không để lại bài thơ Cai Hạ ca ngậm ngùi cùng nàng Ngu Cơ:

Lực bạt sơn hề, khí cái thế

Thời bất lợi hề, Truy bất thệ

Truy bất thệ hề, khả nại hà

Ngu hề, Ngu hề, nại nhược hà.

Khoảnh khắc sinh tử, thơ bật ra xoa dịu cho lòng cay đắng, thơ bật ra vuốt mắt cho kẻ sa lầy, để rồi ngàn năm sau thơ phục dựng trái tim bậc kiêu hùng ngã ngựa vẫn múa kiếm hát vang!

Xã hội càng tiến bộ, thơ càng được in ồ ạt. Tín hiệu ấy đáng mừng chứ không phải đáng lo, bởi ai cũng được bày tỏ niềm riêng, ai cũng được dự phần sáng tạo. Tuy nhiên, đó cũng là thách thức cho độc giả, đòi hỏi phải chọn lọc hơn, phải tinh tế hơn. Trước bao nhiêu vần điệu du dương đầy thỏa mãn, người đọc lương thiện sẽ dễ dàng nhận thấy nhiều sự thật ê chề và nhiều trắc ẩn chênh vênh bị xua đuổi khỏi những trang thơ tán tụng đong đưa. Quá trình đô thị hóa hối hả, nhiệm vụ nặng nề của thi ca là níu giữ giùm cộng đồng chút giá trị ít ỏi của những vẻ đẹp thoáng qua như những nỗi mơ mộng hắt hiu.

Thế kỷ 21, dù áp dụng ẩn dụ mạnh mẽ và dù theo đuổi trường phái tân kỳ, thì vai trò của nhà thơ cũng sẽ lu mờ dần trong tài sản tinh thần hiện đại, nếu chúng ta không học cách bênh vực sự chân thành lặng lẽ đang chới với giữa sự toan tính khéo léo và sự hào nhoáng tráo trở. Đức tin dành cho thi ca vẫn còn nguyên, nếu từ run rẩy chữ nghĩa mong manh nhói lên giọng thơ buồn u uẩn góp phần hóa giải tổn thương thời đại!

Những câu thơ viết trên tờ giấy úa nhàu hoặc những câu thơ viết trên màn hình di động, đều không thể che đậy được tâm trạng cô đơn của nhà thơ. Trong hữu hạn kiếp người, một cá nhân vô cùng nhỏ bé khi so sánh với một đám đông, nhưng một cá nhân vẫn đại diện cho một đám đông lúc bài thơ bắt đầu bằng thái độ phân vân giữa việc nâng niu cái phổ quát và việc tôn trọng cái khác biệt. Thơ nối gần gũi với mông lung! Thơ nối bận bịu với xa vắng!

Người Việt muốn hội nhập văn hóa thế giới, điều trước tiên phải làm là tự soi rọi tâm hồn mình, để suy nghiệm tâm hồn Việt nắng mưa nhẫn nại, tâm hồn Việt gió mây chịu đựng, tâm hồn Việt dằn vặt yêu thương, tâm hồn Việt bãi bờ tha thứ, tâm hồn Việt đại ngàn khoan dung. Thi ca có thể gánh vác sứ mệnh ấy, nếu công chúng chia sẻ được những thao thức của nhà thơ chưa bao giờ khô cạn trên từng dòng bản thảo xanh xao. Tập sách này được hoàn thành không có tham vọng gì lớn lao, ngoài mục đích truy vấn một câu hỏi vừa âm thầm vừa sốt ruột: Nhiều nhà thơ đã thả ưu tư vào bộn bề hôm nay như hoa rơi hữu ý, lẽ nào bạn đọc lại như nước chảy vô tình...?

Hoa rơi hữu ý theo nước chảy, nước chảy vô tình cuốn hoa trôi, duyên đến duyên đi hãy bình thản mà đón nhận…

Tích xưa kể rằng, thời nhà Đường, dưới triều vua Hy Tông, có chàng thư sinh tên là Vu Hựu. Chàng Vu vốn người nho nhã, tài tử phong lưu, văn thơ lai láng, chỉ hiềm nỗi tài vận chưa thông nên đành phải tá túc nhờ ở phủ của một vị quan đại thần họ Hàn.

Một ngày, Vu Hựu đang thơ thẩn bên dòng Bích Câu, chợt thấy một chiếc lá đỏ dập dềnh trôi theo dòng nước. Hoa trôi hữu ý, nước chảy vô tình, chiếc lá đỏ như vương vấn một mối tình chi đây. Chàng thư sinh bèn vớt chiếc lá lên xem, thấy trên lá đề bài thơ rằng:

“Lưu thủy hà thái cấp, Thâm cung tận nhật nhàn. Ân cần tạ hồng diệp, Hảo khứ đáo nhân gian.”

(Nước chảy sao mà vội, Thâm cung suốt buổi nhàn. Ân cần nhờ lá thắm, Trôi đến tận nhân gian).

Thì ra đó là tâm sự của một giai nhân chốn thâm cung. Hoàng cung là chốn hào nhoáng xa hoa, nhưng không thể làm vơi đi nỗi muộn sầu của người đẹp phải sống cảnh phòng không lạnh lẽo, buồn duyên tủi phận, gối chiếc đơn côi. Như con chim bị giam hãm, dẫu chiếc lồng sơn son thếp vàng cũng không thể khuây khoả được tiếng lòng chan chứa. Nàng đã mượn lá thắm để gửi lòng mình trôi ra ngoài cung cấm.

Tiếng thơ không ai oán, chỉ dịu nhẹ như hơi thở của người thiếu nữ nhưng cũng đủ khiến chàng thư sinh thấy đồng cảm. Vu Hựu bèn nhặt một chiếc lá và đề thơ hoạ lại, sau đó lại lên chỗ thượng nguồn mà thả xuống:

“Sầu kiến oanh đề liễu nhứ phi Thượng dương cung nữ đoạn trường thì Quân ân bất cấm đông lưu thủy Diệp thượng đề thi ký dữ thùy?”

(Ngắm liễu nghe oanh thoáng cảm hoài Cung cấm người đang buổi ngậm ngùi Nước trôi không xiết ngăn tình ấy Trên lá thơ đề gửi đến ai)

Kỳ lạ thay cho chiếc lá đề thơ, lại kỳ lạ thay cho tiếng lòng của đôi nam nữ ở hai đầu dòng nước, cuối cùng chiếc lá của Vu Hựu lại trở về với người cung nữ từng thả lá trôi dòng. Cung nữ ấy có tên là Hàn Thuý Tần, khi nhận được chiếc lá hồi âm nàng đã thấy trong lòng xao xuyến. Dẫu chẳng biết mặt biết tên của người tri kỷ ngoài kia, nàng vẫn cẩn thận giữ chiếc lá bên mình.

Rất nhiều năm về sau, hoàng đế cho phép một số cung nữ được hồi hương, Hàn Thuý Tần bèn trở về nương nhờ dinh quan của quan đại thần họ Hàn, vốn là một người thân thích của nàng. Quả đúng là “hữu duyên thiên lý năng tương ngộ”, tại đây nàng hội ngộ cùng Vu Hựu, hai người ý hợp tâm đầu đã nên duyên chồng vợ.

Vào đêm tân hôn, Vu Hựu vô tình thấy chiếc lá đề thơ của mình cất trong rương son phấn của vợ, mới hay mối lương duyên này là do Thiên định. Trong cổ thi có bài thơ mà người đời sau vẫn cho là của Hàn Thuý Tần, làm lúc cảm xúc đang trào dâng tha thiết:

“Nhất liên giai cú tùy lưu thủy Thập tải ưu tư mãn tố hoài Kim nhật khước thành loan phượng lữ Phương tri hồng diệp thị lương mai”

(Đôi câu thơ nhã theo làn nước Tâm sự mười năm chất chứa đầy Ngày nay đã kết nên loan phượng Mới hay lá thắm thuận duyên may)

Người ta vẫn nói, không có duyên thì không thể gặp mặt, không có phận thì không thể kết đôi. Như chiếc lá kia, dẫu chảy trôi vô định theo dòng nước, chẳng biết rồi sẽ dạt về phương nào, ba chìm, bảy nổi, hoa nát, lá tàn, vậy mà cuối cùng vẫn “cập bến” ở nơi người hữu duyên.

Còn người thiếu nữ kia, nàng vào cung là để mong có được một địa vị cao sang. Nhưng dẫu cách Hoàng đế chỉ một bức tường, mà cả đời cũng không thể gặp mặt, cuối cùng vẫn chỉ là đơn côi gối chiếc, lạnh ngắt buồng không, âu cũng là “vô duyên, vô phận” vậy.

Mới hay Thiên định kỳ duyên, con người ta nếu cứ cố chấp làm điều gì đó thì có khi chỉ chuốc lấy những nỗi sầu buồn tủi. Bởi có những thứ chẳng mong cầu thì lại đến, có những thứ cứ theo đuổi mãi mà vẫn xa tầm tay.

Chỉ có thuận theo Thiên ý, tuỳ kỳ tự nhiên, duyên đến cứ vui vẻ mà đón nhận, duyên đi đừng níu kéo mà càng thêm nuối tiếc, thì mới có thể hạnh phúc và sống trọn vẹn đến cuối cùng.