Vì sao gọi là người kinh

Dân tộc Kinh là gì?

Vương Sinh

  • Nước Việt Nam chỉ có dân tộc Việt thuần nhất về văn hóa, ngôn ngữ và phong tục tập quán, chiếm đa số (87%) trong 54 dân tộc. Nước Việt Nam không có dân tộc Kinh..  

  • Dân tộc Kinh là dân tộc thiểu số (khoảng 15 ngàn người) trong 56 dân tộc của Trung Quốc.

Đọc những tài liệu liên quan đền dân tộc Việt Nam phổ biến trên internet gần đây, chúng ta đều không khỏi ngạc nhiên về một nhóm từ mới dùng để chỉ dân tộc Việt: Dân tộc Kinh.

Vậy dân tộc Kinh là gì? Tại sao dân tộc Việt lại biến thành dân tộc Kinh?

Trước hết, chúng ta hãy nêu ra một vài dn chứng về sự đổi thay lạ lùng này:  

1.- Bài của Quốc Việt – biên soạn theo tài liệu nước ngoài –  (nguồn www.temvn.net):

“DÂN TỘC KINH TẠI TRUNG QUỐCDân tộc Kinh (the Kinhs - the Jings – The Gins) là dân tộc chiếm đa số trong cộng đồng 56 dân tộc Việt Nam (thực ra là 54 – tác giả viết lầm) với hơn 70 triệu người. Tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Trung Hoa, dân tộc Kinh chỉ là một dân tộc thiểu số trong cộng đồng 56 dân tộc. “

2.- Bài của Thanh Trúc, phóng viên RFA:

Việt Nam là quốc gia có 54 dân tộc anh em, trong đó lớn nhất là dân tộc Kinh ở các tỉnh thành khắp ba miền đất nước”.

3.- Tài liu của trang Web Chim Viet Cành Nam v 54 dân tc Vit cũng gọi dân tc Vit là dân tc Kinh.

http://chimviet.free.fr/dangnet/54dantoc/dtv00001.htm

Tìm hiều nguồn gốc danh từ “Kinh” và “Thượng”.

Trước năm 1975, tại miền Nam chúng ta thường hay nói “Kinh Thượng một nhà” để chỉ tình đoàn kết giữa đồng bào sống ở miền suôi (miền đồng bằng, kinh thành, kinh đô) với đồng bào sống ờ cao nguyên (thượng du, mạn ngược). Người Kinh mà người Thượng thường hay gọi để chỉ những người dân sống dưới đồng bằng, kinh thành, kinh đô…  bao gồm người Việt, người Hoa, người Chàm, người Khơ Me…Ngưc lại, những người dưi đồng bằng gọi người dân sng ở cao nguyên là ngưi Thượng bao  gm nhiu  dân tộc thiểu số như Thổ, Mán,  H’Mông, BaNa, Gia Rai, Ê Đê…  

Nghĩa ngữ nhóm từ  “ngưi sinh sng tại mt địa phương” trong tiếng Việt được hiểu là “người địa phương đó”. Thí dụ những người sinh sống tại Hà Nội, ta gọi là “người Hà Nội”. Nếu ai sinh sống tại Sài Gòn, ta gọi là “người Sài Gòn”…”

Như  vậy, nhóm từ “người sinh sống tại một địa phương” không có nghĩa là một dân tộc của nước Việt Nam, nói cách khác, nước ta  không hề có dân tộc Hà Nội, dân tộc Sài gòn, dân tộc Kinh, dân tộc Thưng, mà chỉ có ngưi Hà Ni, ngưi  Sài gòn, ngưi Kinh (gồm nhiều dân tộc), ngưi Thưng (gồm nhiều dân tộc)…  

Ngoài ra, ngày nay, ngưi Vit di dân lên sinh sống ở cao nguyên ở rt đông. Thí dụ ở Tây Nguyên, s ngưi thuc dân tc Vit đã chiếm đa s vi khoảng 4 triu ngưi so vi nhng sc tc thiu s khác sinh sng tại đây (dưi 20% dân sTây Nguyên – theo Nguyên Ngọc http://www.viet-studies.info/kinhte/NguyenNgoc_TayNguyen.pdf ). Vì tình trạng chiến tranh trước đây, s ngưi sinh trưng tại cao nguyên mà ta gọi là ngưi Thưng, nay đã di cư xung ở min đng bng khá đông.

Định nghĩa “Dân tộc là gì?”  

Tham khảo nguồn tài liệu trên internet, ta tạm thời chấp nhận những định nghĩa sau đây:

Dân tộc là:

  1. Cộng đồng người hình thành trong lịch sử có chung một lãnh thổ, các quan hệ kinh tế, một ngôn ngữ văn học và một số đặc trưng văn hoá và tính cách.

Thí dụ: Dân tộc Việt, Dân tộc Nga.

  1. Tên gọi chung những cộng đồng người cùng chung một ngôn ngữ, lãnh thổ, đời sống kinh tế và văn hoá, hình thành trong lịch sử từ sau bộ lạc.

Thí  dụ: Việt Nam là một nước có nhiều 'dân tộc'.

Đoàn kết các 'dân tộc' để cứu nước.

(Hồ Ngọc Đức, Free Vietnamese Dictionary Project (chi tiết)

Lấy từ “http://vi.wiktionary.org/wiki/d%C3%A2n_t%E1%BB%99c)

Nguồn gốc dân tộc Việt:

Có nhiu giả thuyết. Ta tạm thi chp nhn: “ Dân tc Vit có ngun gc là dân tc Lạc Vit, cùng chủng tc vi nhóm dân Bách Vit sinh sng tại  Lĩnh Nam (phía nam dy  núi Ngũ Lĩnh và Đng Đình h) của nưc Trung Hoa thi xưa. Xin nhớ: trước thời nhà Tần xâm lăng Bách Việt, miền Lĩnh Nam không thuộc về nước Tàu. Tất nhiên dân Bách Việt bao gồm nhiều tộc Việt cũng không phải là người Tàu và nước Nam Việt sau đó cũng không phải là nước Tàu . Nếu Nam Việt là nước Tàu hay thuộc về nước Tàu thì hà tất nhà Hán phải sai Lộ Bác Đức đem quân đi xâm lăng nước Nam Việt?”:

http://www.hungsuviet.us/vanhoa/TimhieunguongocdantocViet.html

Dân tộc Kinh là dân tộc thiếu số của 56 dân tộc Trung Quốc

c Vit Nam chỉ có ngưi Kinh (khác vi ngưi Thưng) sng dưi đng bng  mà không có dân tc Kinh.  Nhưng nưc Tàu có dân tc Kinh là mt dân tc thiu s vi khoảng 15 ngàn ngưi trong s 56 dân tc Trung Hoa. Đây là nhng ngưi Vit đã di cư tvùng Đồ Sơn thuộc Việt Nam sang 3 đảo nhỏ Vạn Vĩ, Vu Đầu và Sơn Tâm thuộc tỉnh Quảng Tây, gn biên gii Hoa Vit vì “chng may” 3 đảo này lại thuc v Trung Quc:

Giáo-Sư Nguyễn Văn Canh nói về việc “Trung-Hoa đòi nhượng đất” và “Pháp cắt dất” như sau: Ðiều 3 Hiệp ước Thiên tân có nói rằng " ở nơi nào nếu cần, có thể điều chỉnh lại chi tiết cho đúng để đưa đến một biên giới thực sự cho Bắc kỳ". Phía Trung Hoa vin vào đó, giải thích dấu hiệu này như là giúp đưa đến những sắp xếp sâu rộng, coi như bồi thuờng về đất đai đối với những nhượng bộ chính trị mà Trung Hoa đã ưng thuận ở nơi khác. Lý hồng Chương giải thích cho Đô đốc Rieuner :"Nước Pháp đã được quá nhiều khi chiếm được Bắc Kỳ, một xứ chư hầu của Trung Hoa từ 600 năm nay... Điều này làm tôi rất đỗi ưu tư; cần có một đền bù dưới hình thức nhường một ít đất ở vùng biên giới của Annam đối với tôi như thế là đủ"

 “Công ước phân định biên giới trong tình trạng này đã chấp thuận nhượng một phần lãnh thổ Việt nam cho Trung Hoa ở  nơi có tranh chấp giữa hai Ủy Ban. Có 2 địa điểm tranh chấp chính được nhượng choTrung Hoa: (1) trên biên giới Vân Nam, là tổng Tụ long, hòan toàn thuộc về đất của Vương quốc Annam và chừng 3/4 đất đai của tổng này bằng 750 cây số vuông được nhượng cho Trung Hoa và (2) thuộc tỉnh Quảng Đông là mũi Packlung và "khu vực người Việt nằm trong lãnh thổ Trung Hoa (Vũ  Hu  San - Hải Gii Vit Hoa – http://vuhuusan.110mb.com/haigioi.htm)

Tàu muốn gì trong việc gọi dân tộc Việt là “dân tộc Kinh”?

 Là ngưi Vit, chúng ta ai cũng biết các triều đại người Tàu luôn luôn dạy con cháu của họ rằng: “nước Việt Nam chỉ là một quận huyện của họ và người Việt Nam cũng xuất phát từ người Tàu mà ra. Họ rất ghét Triệu Đà và nước Nam Việt vì ông vua có nguồn gốc phương bắc này dám chống lại Thiên Triều (thực ra xưa kia Triệu Đà là người nước Triệu, bị Tần Thủy Hoàng tiêu diệt để sát nhập vào nước Tàu), nhất là thừa tướng Lữ Gia người Nam Việt đã dám công khai chống lại quân tướng nhà Tây Hán. Từ khi nhà Hán sai Lộ Bác Đức tiêu diệt xong nước Nam Việt vào năm 111 trước Công Nguyên, các triều đại Trung Hoa tiếp theo  không bao giờ gọi dân tộc ta là người Việt cả, và không hề chấp nhận những tên gọi nước ta như “Đại Cồ Việt”, “Đại Việt”, Việt Nam”…do vua nước ta đặt ra. Họ chỉ gọi dân tộc Việt là “Giao Chỉ” sau đó (đời Đường) đổi thành “An Nam ” và phong cho những vị vua nước ta là “Giao Chỉ Quận Vương” hoặc “An Nam Quốc Vương”. Thực dân Pháp cũng vậy, chúng toa rập với Tàu gọi người Việt là An Nam (Anamite).

Ngày nay, kể từ khi cố vấn Tàu thành công trong việc khuất phục được đảng CS Việt Nam cầm quyền cai trị nước ta, họ luôn luôn tìm cách đồng hóa nước ta , hết bằng phương tiện quân sự (chiến tranh biên giới 1979, chiến tranh Biển Đông -1987?), đến phương tiện “diễn biến hoà bình” (hiệp ước biên giới  đất liền và biển, dán Bauxite, chi ếm c Hoàng Sa, Trưng Sa…). Rồi thừa thắng xông lên, cán bộ Việt gốc Tàu đang xâm nhập vào lãnh vực văn hóa và lịch sử Việt Nam .  Hàng loạt những sự thay đổi về Lịch Sử và Văn Hóa Việt Nam như dời lại thời kỳ Bắc Thuộc gần 100 năm (từ  -111 thành -207) (?), dùng nhiều từ Hán như “lễ tân”, “công hàm”, “hộ chiếu”, “tham quan”…(ngược hẳn với thời gian trước chiến tranh 1979, lúc đó dùng từ Việt quá lố như “máy bay lên thẳng”, lính thủy đánh bộ “, “Xưởng đẻ”, …).

Chủ trương biến “dân tộc Việt” thành “dân tộc Kinh” -  một dân tộc thiểu số trong 56 dân tộc Trung Hoa,  phải chăng đây cũng là “điểm” trong kế hoạch đồng hóa Việt Nam thành quận huyện của Tàu, và dân tộc Việt Nam thành dân tộc thiểu số của Tàu?

Chúng ta cần tỉnh táo trước âm mưu đen tối của kẻ thù truyền kiếp phương Bắc. Lịch sử đã chứng minh nước Tàu dù mạnh, dù giàu đến mấy cũng không thề khuất phục nổi dân tộc Việt tuy nhỏ bé kém thế  hơn, nhưng tinh thần quật cường bầt khuất lúc nào cũng mạnh hơn.

Chúng ta hãy noi gương bất khuất của danh tướng Trần Bình Trọng:

“Thà làm Quỷ nước Nam chứ không thèm làm Vương đất Bắc”

Vương Sinh