Ai là người làm ra bánh chưng đầu tiên

Bánh chưng, bánh giầy là những món ăn không thể thiếu trong dịp Tết Nguyên Đán của người Việt. Không chỉ là món ăn dân dã mang đậm đặc trưng của người Việt, bánh chưng, bánh giầy còn chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc về thế giới quan, nhân sinh quan... của người Việt cổ. Hãy cùng META tìm hiểu nguồn gốc và ý nghĩa của bánh chưng, bánh giầy ngày Tết qua bài viết này nhé!

>>> Xem thêm: Các phong tục ngày Tết Nguyên Đán cổ truyền 3 miền Bắc, Trung, Nam

Nguồn gốc của bánh chưng, bánh giầy ngày Tết

Mỗi dịp Tết đến xuân về, người Việt Nam ta thường mong ngóng đến ngày sum họp cùng người thân, gia đình, cùng nhau gói bánh chưng, giã bánh giầy, tạo thành những món ăn truyền thống thơm ngon dâng lên bàn thờ Tổ tiên. Nhưng trong xã hội hiện đại ngày nay, không phải ai cũng hiểu rõ nguồn gốc của phong tục đặc biệt này.

Truyền thuyết xưa kể lại rằng, khi vua Hùng Vương thứ sáu đã tuổi cao sức yếu, vua muốn tìm một kế vị nối được chí của mình nhưng lại có tới 20 người con trai. Vua bèn hạ lệnh, trong lễ Tiên Vương, ai làm vừa ý mình vua sẽ truyền ngôi cho.

Các lang ai nấy đều tất bật sai người tìm của ngon vật lạ để dâng vua, chỉ có Lang Liêu là buồn nhất. Chàng là người con thứ mười tám, xưa nay chỉ quen với việc trồng trọt, trong nhà chẳng có gì ngoài lúa gạo, ngô khoai nên không biết tìm đâu ra những sản vật quý giá dâng lên vua cha trong ngày lễ Tiên Vương.

Sau một đêm nằm mộng được thần mách bảo, chàng đã chọn ra thứ gạo nếp ngon nhất trong nhà để làm ra hai thứ bánh, một loại có hình vuông và một loại có hình tròn. Khi ngày lễ Tiên Vương đến, vua cha rất hài lòng với những lễ vật của Lang Liêu, ngài bèn đặt tên bánh hình vuông là bánh chưng tượng trưng cho đất, bánh tròn là bánh giầy [bánh dày] tượng trưng cho trời. Vua dùng bánh của Lang Liêu để tế lễ trời, đất và Tiên Vương sau đó truyền ngôi lại cho Lang Liêu.

Và kể từ đó trở đi, cứ đến ngày Tết, vua lệnh cho dân chúng làm hai loại bánh này để dâng lên Tổ tiên cầu mong Tổ tiên phù hộ mang đến vụ mùa thuận lợi cho một năm mới. Dần dần, làm bánh chưng, bánh giầy ngày Tết đã trở thành nét văn hóa đặc trưng trong dịp Tết Cổ truyền của người Việt Nam.

>>> Xem thêm: 

Ý  nghĩa truyền thuyết bánh chưng bánh giầy

Bánh chưng, bánh giầy không chỉ là những món ăn đặc trưng cho ngày Tết Cổ truyền mà trong đó còn chứa đựng những ý nghĩa sâu sắc, thể hiện thế giới quan, nhân sinh quan của cả một nền văn minh lúa nước thời cổ đại. Theo quan niệm của Tổ tiên người Việt, bánh giầy, bánh chưng tượng trưng cho “trời tròn, đất vuông”.

Bánh chưng được làm từ gạo nếp, đậu xanh nhuyễn, thịt lợn, hành... đều là những nguyên liệu nấu ăn truyền thống của người Việt. Tất cả được gói lại bằng những phiến lá dong xanh mướt có thể được hái ngay trong vườn nhà. Bánh giầy được làm từ gạo nếp đồ chín lên rồi giã tay cho nhuyễn mịn sau đó mới nặn cho thành hình.

Bánh chưng, bánh giầy xuất hiện vào ngày Tết Nguyên Đán không chỉ là cách mà người nông dân Việt Nam thể hiện sự biết ơn trời đất đã cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, đem lại cuộc sống ấm no cho con người mà nó còn thể hiện được đạo lý "uống nước nhớ nguồn", thể hiện chữ hiếu của người con với cha mẹ. Phong tục dùng bánh chưng, bánh giầy làm quà biếu dâng lên cha mẹ ngày Tết cũng từ đó mà trở thành nét văn hóa đặc trưng của Việt Nam, được nhiều bạn bè quốc tế yêu thích.

Hy vọng rằng, bài viết trên đây của chúng tôi đã giúp bạn hiểu rõ hơn về nguồn gốc và ý nghĩa của phong tục gói bánh chưng, giã bánh giầy ngày Tết, qua đó góp phần gìn giữ nét đẹp văn hóa dân tộc. Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết và xin hẹn gặp lại trong những bài viết sau. Đừng quên thường xuyên truy cập META.vn để tham khảo thêm nhiều thông tin hữu ích khác cho mùa Tết năm nay bạn nhé!

Tham khảo thêm

Xem thêm 1 bình luận

Xem thêm: ý nghĩa của bánh chưng, quà Tết, tết nguyên đán, đồ gia dụng

Ngày xưa, đời Vua Hùng Vương thứ 6, sau khi đánh dẹp xong giặc Ân, vua có ý định truyền ngôi cho con.

Nhân dịp đầu Xuân, vua mới họp các hoàng tử lại, bảo rằng: “Con nào tìm được thức ăn ngon lành, để bày cỗ cho có ý nghĩa nhất, thì ta sẽ truyền ngôi vua cho”.

Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha, với hy vọng mình lấy được ngai vàng.

Trong khi đó, người con trai thứ 18 của Hùng Vương, là Tiết Liêu [còn gọi là Lang Liêu] có tính tình hiền hậu, lối sống đạo đức, hiếu thảo với cha mẹ. Vì mẹ mất sớm, thiếu người chỉ vẽ, nên ông lo lắng không biết làm thế nào.

Một hôm, Tiết Liêu nằm mộng thấy có vị Thần đến bảo: “Này con, vật trong Trời Đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Con hãy nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng hình Trời và Đất. Hãy lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột bánh, để tượng hình Cha Mẹ sinh thành.”

Tiết Liêu tỉnh dậy, vô cùng mừng rỡ. Ông làm theo lời Thần dặn, chọn gạo nếp thật tốt làm bánh vuông để tượng hình Đất, bỏ vào chõ chưng chín gọi là Bánh Chưng. Và ông giã xôi làm bánh tròn, để tượng hình Trời, gọi là Bánh Dầỵ Còn lá xanh bọc ở ngoài và nhân ở trong ruột bánh là tượng hình cha mẹ yêu thương đùm bọc con cái.

Đến ngày hẹn, các hoàng tử đều đem thức ăn đến bày trên mâm cỗ. Ôi thôi, đủ cả sơn hào hải vị, nhiều món ngon lành. Hoàng tử Tiết Liêu thì chỉ có Bánh Dầy và Bánh Chưng. Vua Hùng Vương lấy làm lạ hỏi, thì Tiết Liêu đem chuyện Thần báo mộng kể, giải thích ý nghĩa của Bánh Dầy Bánh Chưng. Vua cha nếm thử, thấy bánh ngon, khen có ý nghĩa, bèn truyền ngôi Vua lại cho Tiết Liêu con trai thứ 18.

Kể từ đó, mỗi khi đến Tết Nguyên Đán, thì dân chúng làm bánh Chưng và bánh Dầy để dâng cúng Tổ Tiên và Trời Đất.

Tagged

Bánh chưng là một sản vật xuất hiện từ rất xa xưa, từ thời đại Vua Hùng cho đến nay. Có thể nói, bánh chưng là một trong những sản vật mang đậm tính truyền thống, vừa có sức trường tồn cùng với thời gian, theo những tháng năm lịch sử của dân tộc vừa rất gần gũi với đời sống thường nhật trong lĩnh vực văn hóa ẩm thực và tâm linh của người Việt Nam. Tuy nhiên, trong xã hội ngày càng hiện đại, đã có nhiều truyền thống đang bị mai một, bên cạnh đó cũng còn một số giá trị truyền thống vẫn được người Việt lưu giữ cho đến tận bây giờ đó là phong tục gói bánh chưng vào những dịp Tết đến xuân về.


Theo truyền thuyết “Bánh chưng, bánh dầy”, vào đời Hùng Vương thứ 6, nhân dịp giỗ tổ vua Hùng và nhà vua muốn truyền ngôi cho con nên đã triệu tập các quan lang [các con của nhà vua] đến và truyền rằng: “ Vị quan Lang nào tìm được món lễ vật dâng lên tổ tiên hợp ý với nhà vua sẽ được nhà vua nhường ngôi”. Cac vị quan Lang cùng nhau lên rừng, xuống biển tìm kiếm những món ngon vật lạ và các sản vật quý để làm lễ vật dâng lên nhà vua mới hy vọng được nhà vua nhường ngôi cho. Trong đó có người con trai thứ mười tám của vua Hùng tên là Lang Liêu, là người nghèo khó nhất trong số các người con của Vua. Với tính tình hiền lành, chí hiếu, mẹ lại mất sơm, nên không thể tìm những sản vật quý hiếm về dâng cho vua cha. Chàng lo lắng không biết phải làm sao thì bổng nằm mơ thấy ông Tiên bảo: “ Vật trong trời đất không có gì quý bằng gạo, là thức ăn nuôi sống người. Nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng trưng Trời Đất. Lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột để tượng hình cha mẹ sinh thành”.Lang liêu tỉnh dậy mừng rỡ và làm theo lời Tiên ông đã dặn, chàng đã dùng những nông sản thường ngày gồm gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn và lá dong để tạo ra hai loại bánh Chưng và bánh dầy tượng trưng cho trời và đất làm lễ vật dâng vua. Đến ngày hẹn, các vị quan lang đều đem cỗ tới nào là sơn hào hải vị,…Riêng lễ vật của Lang Liêu chỉ có bánh trưng bánh dầy. Vua cha lấy làm lạ nên hỏi, Lang lêu bèn đem “Thần mộng” tâu lên. Vua nếm bánh thấy ngon, lại khen có ý nghĩa, rất hợp ý vua Hùng, và vua đã truyền ngôi cho Lang Liêu, tức là đời vua Hùng Vương thứ 7.


Từ đó bánh chưng, bánh dầy đã trở thành lễ vật không thể thiếu trong các nghi thức thờ cúng tổ tiên, để thể hiện tấm lòng uống nước nhớ nguồn đối với cha ông. Bánh chưng có hình vuông, màu xanh tượng trưng cho Đất, đây cũng là món ăn, là nét đẹp truyền thống không thể thiếu vào mỗi dịp tết đến xuân về, mọi người cùng nhau quây quần bên nồi bánh chưng nghi ngút khói.
Những chiếc bánh chưng xanh hình vuông rất độc đáo, sáng tạo mang đậm bản sắc dân tộc còn nhờ vào nguyên liệu, cách gói và nấu lẩu. Nguyên liệu chính là lúa gạo, đây là tượng trưng cho nền văn hóa lúa nước nhiệt đới, với khí hậu nhiệt đới, quanh năm nóng ẩm, nên những chiếc bánh hình vuông có màu xanh được chế biến với nhiều hình thức khác nhau nhưng vẫn mang tính truyền thống, đậm đà bản sắc dân tộc. Phần nhân của bánh được làm từ thịt lợn mềm thơm được ướp gia vị đậm đà, nhân đậu xanh vừa ngon lành vừa bổ dưỡng. Và công đoạn gói bánh chứng cũng rất cầu kỳ, lá gói bánh phải là lá dong và cách gói phải thật kín, thật đẹp sao cho nước không thể vào trong, bánh mới ngon. Lạt phải buộc thật chật, chắc, không gói lỏng tay, cũng không quá chắc quá, bánh cũng không ngon.
Điều độc đáo hơn nữa là khoảng thời gian nấu bánh, không giống như những loại bánh khác, thời gian nấu bánh kéo dài 10 tiếng đồng hồ. Đây là lúc mọi người sum hợp cùng nhau quây quần ngồi trông nồi bánh bên bếp lửa hồng trong không khí lạnh của những đêm giáp tết, những em nhỏ hay nghịch thường hay lấy những củ khoai vùi sâu vào trong bếp than hồng rực cũng là kỷ niệm không thể quên được trong lòng mọi người.
Bánh chưng là món ăn không thể thiếu trong mâm cơm được dâng lên cúng ông bà tổ tiên vào ngày mùng 3 tết. Mâm cơm mang ra mời khách đều có sắc màu xanh mướt của bánh chưng, mỗi gia chủ đều muốn mời khách thử bánh chưng nhà mình, đó được coi như một điều may mắn với gia chủ và như một lời chúc “ăn nên làm ra”. Khi ăn bánh chưng người ta thường dùng với các loại mật hay nước mắm ngon, cũng có thể dùng kèm dưa hành muối, củ cải mầm, dưa món,…
Vào những ngày sau Tết, bánh chưng còn lại được đem đi rán cũng rất ngon trở thành món ăn ưa thích của nhiều người, đặc biệt là những em nhỏ. Khi ăn có cảm giác “trong dai, ngoài giòn” hòa quyện cùng mùi thơm đặc trưng của bánh chưng rán là một cảm giác rất dễ “gây nghiện” với nhiều người. Và họ tìm đến bánh chưng rán ngoun vào mỗi buổi sáng như một món ăn quen thuộc chứ không riền gì dịp Tết.
Ngày tết, ăn một miếng bánh chưng sau khi cúng lễ tổ tiên, ông bà, dư vị thời gian, không gian của lịch sử như cùng quy tụ trong màu xanh của bánh, mùi thơm thảo của hạt nếp tiền nhân để cùng suy ngẫm về ý nghĩa triết học và giá trị nhân văn của các truyền thuyết, các sự tích về bánh chưng của người Việt. Đó cũng là một cách di dưỡng tinh thần, làm giàu thêm bản sắc văn hóa tâm linh và văn hóa ẩm thực Việt Nam.


Bánh chưng là món bánh Tết đặc trưng người dân các tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ. Riêng với các tỉnh miền Nam, thì món bánh phố biến trong những ngày Tết là bánh Tét, một loại bánh hình tụ tròn, được gói bằng lá chuối, với nguyên liệu là gạo nếp, thịt lợn và nhân bánh làm từ đỗ xanh, đỗ đen hay chuối. Hương vị của bánh tét cũng không khác nhiều so với bánh chưng. Theo lời ông bà xưa tương truyền rằng, do sự đối đầu giữa chúa Trịnh và chúa Nguyễn vào cuối thời nhà Lê, nên chúa Nguyễn đã cho nhân dân “đàng Trong” làm bánh Tét để tạo ra sự khác biệt với bánh chưng của “đàng Ngoài”
Hiện nay, cùng với sự phát triển của xả hội, thì bánh chưng cũng ngày càng trở nên phong phú đa dạng với vị mặn hay ngọt, đều này cũng làm giàu thêm bản sắc văn hóa tâm linh và ẩm thực của người Việt Nam.
 

Video liên quan

Chủ Đề