Cá chiên trong tiếng trung ghi là gì năm 2024

+ Giảng viên tại khoa Tiếng Trung, trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế + Giảng viên thỉnh giảng tại trường Đại học Y Dược, Đại học Huế + Giảng viên thỉnh giảng tại trường Đại học Khoa học, Đại học Huế + Founder và giáo viên tại trung tâm Ngoại ngữ Học học học Tiếng Trung + Số học viên đã giảng dạy: 5000+

Bạn có yêu thích nấu ăn không nào, nấu ăn ngon đem lại cho bạn rất nhiều lợi thế đó. Kết hợp giữa việc nấu ăn và tự học tiếng Trung thì còn gì hay hơn. Các bạn đã biết nấu, xào, nướng tiếng Trung nói thế nào chưa? Bài học hôm nay chúng ta cùng nhau học từ vựng tiếng Trung về các phương pháp nấu nướng nhé. Đề phòng biết đâu có dịp dùng tới nhỉ!

Hấp 蒸 / zhēng / Nướng 烤 / kǎo/ Xào 烧 / shāo / Áp chảo 红烧 /Hóngshāo/ Rim 烹 /Pēng/ Chần 焯 /Chāo/ Chưng 炖 / dùn / Chiên 煎 / Jiān / Luộc 熬 / áo / Rang 炒 / chǎo/ Kho/om 焖 / mèn / Nấu 煮 / zhǔ/ Trộn 拌 / bàn / Muối 腌(肉) / yān (ròu) / Nhúng 涮 /Shuàn/ Xào lăn 油爆 /Yóu bào/

Mẫu câu tiếng Trung trong nấu ăn

你可以介绍我一个好厨师吗? Bạn có thể giới thiệu cho tôi một đầu bếp giỏi được không?

她的烹调手艺弥补了一切。 Kỹ năng nấu nướng của cô ấy bù đắp cho tất cả.

厨师用麦粉使汁变浓。 Đầu bếp làm đặc nước trái cây bằng bột mì.

法国人以烹调著称。 Người Pháp nổi tiếng về nấu ăn.

烧这肉一定不能少于一小时。 Hãy chắc chắn rằng thịt này nấu trong ít nhất một giờ..

我正在学做饭,做着玩儿而已。 Tôi đang học nấu ăn, chỉ để cho vui.

肉不像蛋那样容易煮熟。 Thịt không chín nhanh như trứng.

Bạn thích ăn món ăn được chế biến theo phương pháp nào, riêng tớ thì nấu kiểu gì tớ cũng thích ăn nếu đó làm nguyên liệu mà tớ yêu thích như thịt gà hay cá chẳng hạn. Hãy nói món ăn yêu thích của mình lên đây nhé!

Cá chiên (danh pháp khoa học: Bagarius bagarius) là một loài cá da láng trong chi Bagarius, tìm thấy trong các con sông lớn ở Nam Á và Đông Nam Á, cụ thể trong lưu vực sông Hằng, sông Mê Kông, sông Chao Phraya; và có thông báo cho thấy nó có trong lưu vực các sông Salween, Maeklong và phần Thái Lan bán đảo.

Miêu tả[sửa | sửa mã nguồn]

Chiều dài được thông báo tới 2 m (6,6 ft) có lẽ là không chính xác, do sự nhầm lẫn với loài có quan hệ gần là B. yarrelli, vì hiện tại cả hai loài này vẫn trong tình trạng lộn xộn đáng kể về phân loại. Kích thước dài tới 2 mét này có lẽ là thuộc về B. yarrelli, do một số tác giả coi B. bagarius là loài cá chiên lùn có chiều dài chỉ đạt tới 20 cm (8 inch).

Gai vây lưng: 1; tia mềm vây lưng: 6; tia mềm vây hậu môn: 13-14; đốt sống: 38-42. Vây chậu bắt đàu trước gốc tia vây lưng cuối cùng; vây béo bắt đầu phía sau nơi bắt đầu vây hậu môn. Gai thần kinh thuôn dài, số lượng 4-8, đốt sống phần bụng mở rộng về phía xa trục, số lượng 17-20. Không có rãnh sắc nét trên đỉnh đầu; không có bướu trên đường giữa sống lưng phía sau gốc vây lưng. Miệng to, hạ và hình cung.

Cá trưởng thành sinh sống trong các vũng chảy nhanh và nhiều đá sỏi của các con sông lớn và trung bình. Thức ăn chủ yếu là côn trùng, cá nhỏ, ếch nhái và tôm tép. Sinh đẻ trong các con sông trước khi bắt đầu mùa ngập lụt hàng năm.

Giá trị kinh tế[sửa | sửa mã nguồn]

Được đánh bắt và mua bán ở chợ dưới dạng cá tươi, là loài cá thực phẩm quan trọng nhưng không được đánh giá cao do thịt cá bở, nhanh ươn và vì thế có thể gây bệnh.

Do thịt thơm ngon, có giá trị kinh tế, cá chiên thường được mua với giá cả chục triệu đồng mỗi con, trung bình mỗi kg khoảng 400-500 nghìn đồng (số liệu 2017), có trường hợp đến 1 triệu đồng/kg.

Tình trạng phân loại[sửa | sửa mã nguồn]

Bagarius bagarius được Hamilton miêu tả năm 1822 từ mẫu vật thu được tại sông Hằng. Kể từ nghiên cứu sửa đổi của Roberts (1983), tên gọi này được áp dụng cho loài dường như chỉ có kích thước chiều dài chuẩn không quá 20 cm so với các đồng loài và được coi là phổ biến tại miền bắc tiểu lục địa Ấn Độ và phần lớn Đông Dương.

Tuy nhiên, việc nghiên cứu chi tiết hồ sơ tài liệu trong khắp khu vực Nam Á và Đông Nam Á cho thấy các mẫu vật của các quần thể được nhận dạng như là loài này tại Đông Dương là không đồng loài với quần thể tại tiểu lục địa Ấn Độ. Bên cạnh đó, không có chứng cứ nào cho thấy có hơn 1 loài Bagarius trong lưu vực sông Hằng-Brahmaputra (và có lẽ là trong khắp cả tiểu lục địa Ấn Độ). Điều này có nghĩa là toàn bộ các tài liệu hiện nhận dạng mẫu vật như là B. yarrelli tại Ấn Độ rất có thể phải được gán lại vào loài này, và toàn bộ các tài liệu tại Đông Nam Á hiện nhận dạng mẫu vật như là loài này rất có thể là đại diện cho (các) loài không phải B. bagarius (hoặc B. yarrelli). Nghiên cứu sửa đổi duy nhất của Roberts năm 1983 là sự đơn giản hóa thái quá trong phân loại của nhóm cá này và tình trạng phân loại chi Bagarius trong khắp tiểu lục địa Ấn Độ rất cấp thiết phải có nghiên cứu mang tính quyết định để giải quyết.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  • ^ Ng, H.H. (2010). “Bagarius bagarius”. Sách Đỏ IUCN các loài bị đe dọa. Phiên bản 2011.2. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2013.
  • ^ Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Bagarius bagarius trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2013.
  • Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Bagarius yarrelli trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2013.
  • “Cá chiên”. Báo Vnexpress. Ngày 12 tháng 3 năm 2017.
  • “Cận cảnh cá Chiên "khủng" giá 40 triệu đồng tại Hà Nội”. Bao dân trí. Ngày 18 tháng 6 năm 2015.
  • Hamilton F. 1822. An account of the fishes found in the river Ganges and its branches. Constable and Co, Edinburgh, UK. Roberts T.R. 1983. Revision of the south and southeast Asian sisorid catfish genus Bagarius, with description of a new species from the Mekong. Copeia 1983(2): 435-445.