Chính sách phát triển nông nghiệp của Mỹ
Đề cử Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ của Biden bị cho là 'không bình thường'. Vậy các chính sách nông nghiệp của Mỹ dưới thời Biden sẽ thế nào?
Tổng thống đắc cử Joe Biden và ông Tom Vilsack, người được đề cử làm Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp, tại cuộc họp Nội các Hoa Kỳ năm 2010. Ảnh: Getty Images. Ngày 14/12, Cử tri đoàn đã triệu tập để chính thức bỏ phiếu xác nhận chiến thắng của Joe Biden trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm 2020. Biden sẽ nhậm chức Tổng thống thứ 46 của Hoa Kỳ vào ngày 20/1 trong một buổi lễ có khả năng sẽ được sửa đổi do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 đang diễn ra. Tổng thống đắc cử Biden, Phó Tổng thống đắc cử Harris và nhóm chuyển tiếp của họ đã làm việc đều đặn trong vài tuần qua để xác định và nêu tên các cá nhân sẽ phục vụ trong các vị trí chính sách quan trọng trong chính quyền sắp tới. Mới tuần trước, ông Biden đã thông báo rằng ông có kế hoạch đề cử cựu Thống đốc bang Iowa Tom Vilsack đảm nhiệm lại vai trò mà ông từng giữ là Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp trong chính quyền Obama. Theo ước tính do Dịch vụ Nghiên cứu Kinh tế của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) công bố vào ngày 2/12, thu nhập ròng từ trang trại cho năm 2020 dự kiến sẽ tăng 24,7 tỷ USD so với năm 2019, mức cao nhất được ghi nhận kể từ năm 2014. Trong số đó, các khoản thanh toán trực tiếp của chính phủ chiếm hơn 1/3, tổng trị giá 46,5 tỷ USD, gần một nửa trong số đó được tạo ra từ các chương trình Coronavirus Food Assistance Payments (CFAP) được ban hành theo thẩm quyền Đạo luật Ngân hàng của Công ty tín dụng nông sản hàng hóa (Commodity Credit Corporation - CCC) do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp nắm giữ. Tính đến ngày 10/12, hai giai đoạn của chương trình đã phân phối 22,1 tỷ USD cho nông dân Hoa Kỳ. Việc Tổng thống Trump tích cực sử dụng thuế quan để thúc đẩy lợi ích của Mỹ trên đấu trường thương mại khiến nông dân Mỹ dễ bị trả đũa bởi một số đối tác thương mại, đặc biệt là Trung Quốc. Chính quyền Biden có khả năng sẽ để áp dụng mức thuế đối với Trung Quốc từ đầu, đồng thời nghiên cứu tác động của chúng và tìm cách lôi kéo các nước khác tham gia các hành động chung chống lại Trung Quốc về việc lạm dụng Quyền sở hữu trí tuệ (IPR) của nước này và các vấn đề khác mà Hiệp định thương mại giai đoạn I kí với Trung Quốc của chính quyền Trump vào đầu năm 2020 đã không giải quyết được. Có vẻ như chính quyền Biden sẽ có một cách tiếp cận thận trọng tương tự với các cuộc đàm phán thương mại chưa hoàn thành đang diễn ra với Liên minh châu Âu, Vương quốc Anh và Kenya. Trong mọi trường hợp, họ sẽ mất vài tháng để đưa đội đàm phán thương mại của họ vào cuộc. Tổng thống đắc cử Biden đã cam kết để Hoa Kỳ tham gia lại thỏa thuận khí hậu Paris ngay khi ông vừa nhậm chức. Có thông tin cho rằng ông Vilsack đang thuyết phục Biden về vai trò chủ động quan trọng mà nông nghiệp Mỹ có thể đóng góp trong việc giúp giảm phát thải khí nhà kính tổng thể của nền kinh tế Mỹ. Nói chung, ông đã cam kết đảm bảo rằng ngành nông nghiệp của nước Mỹ là ngành đầu tiên trên thế giới đạt được mức phát thải ròng bằng 0 và nông dân Hoa Kỳ kiếm được thu nhập từ nỗ lực của họ khi nước Mỹ đạt được cột mốc quan trọng này. Mục tiêu này phần lớn sẽ đạt được bằng cách khuyến khích nhiều nông dân áp dụng các biện pháp như canh tác và trồng trọt với chia sẻ chi phí và hỗ trợ kỹ thuật được cung cấp trong các chương trình hỗ trợ mở rộng do USDA điều hành. Đội ngũ tranh cử của Biden cũng thúc đẩy cam kết mở rộng việc sử dụng "năng lượng sạch" như một phần trong nỗ lực giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu. Điều này bao gồm việc thúc đẩy sử dụng nhiên liệu sinh học tiên tiến dựa trên nông nghiệp, đặc biệt là trong lĩnh vực hàng không. Biden cũng đã công khai ủng hộ Tiêu chuẩn nhiên liệu tái tạo (RFS). Chính quyền mới của Biden cũng sẽ phải đối mặt với quyết định có hay không tìm cách thay đổi hoàn toàn một số quyết định của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp hiện tại - Sonny Perdue. Chúng bao gồm những thay đổi về tổ chức đối với cơ cấu cơ quan của USDA, chẳng hạn như chuyển hai cơ quan, Dịch vụ Nghiên cứu Kinh tế (ERS) và Viện Nông nghiệp và Thực phẩm Quốc gia (NIFA) từ Washington DC đến Thành phố Kansas, cho nhiều nhân viên của cả hai cơ quan nghỉ việc trong quá trình này, và chuyển Cơ quan Kiểm tra Ngũ cốc, Đóng bì và Dự trữ thành Dịch vụ Tiếp thị Nông nghiệp. Ngoài ra, họ còn ban hành các quy định mới cho phép các cơ sở đóng gói thịt tăng tốc dây chuyền lắp ráp, làm suy yếu các tiêu chuẩn dinh dưỡng cho các chương trình bữa trưa và bữa sáng ở trường học quốc gia, và mở thêm các khu vực mới trong hệ thống Rừng Quốc gia để khai thác thương mại. Các nỗ lực hạn chế điều kiện được hưởng theo Chương trình Hỗ trợ Dinh dưỡng Bổ sung (SNAP) phần lớn đã bị dừng lại bởi các phán quyết của tòa án liên bang, nhưng bất kỳ nỗ lực xây dựng quy tắc nào trong lĩnh vực này cũng có thể bị đảo ngược. (Theo Farm Journal Foundation) Mỹ là nước có GDP/PPP tới 14 660 tỷ USD (2010), nông nghiệp chỉ chiếm tỷ lệ có 1,1% trong GDP. Lao động làm nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản chỉ chiếm có 0,7% trong tổng số 153,9 triệu lao động trên toàn nước Mỹ. Vậy mà nông nghiệp Mỹ lại là một mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa rất điển hình. Cư dân nông thôn Mỹ chỉ chiếm có 18% , cư dân thành thị chiếm 82% trong tổng số trên 313,23 triệu dân (2011) Họ không phải là nông dân theo cách hiểu thông thường, họ là công nhân nông nghiệp vì lao động hoàn toàn bằng các phương tiện cơ giới hóa. Khi cần thu hoạch cà chua hay các sản phẩm không sử dụng được máy móc người ta thuê lao động từ nước Mexico láng giềng. Nước Mỹ có khoảng 2,1 triệu trang trại (farm), với diện tích bình quân mỗi trang trại là 446 acres (1 acre= 0,4ha). Các trang trại chiếm mật độ cao ở một số bang ở vùng Trung Tây nước Mỹ (ví dụ ở Texas là 230 nghìn trang trại, Montana- 105 nghìn, Indiana- 88,6 nghìn, Kentucky- 84,0 nghìn…). Đối với toàn nước Mỹ thì diện tích đất trồng trọt chỉ chiếm có 18,01% đất đai, trong đó diện tích trồng trọt thường xuyên chỉ chiếm có 0,21% đất đai (!). Nước Mỹ rất rộng lớn (9.161.923 km2 đất đai- không kể diện tích nước). Chính nhờ cơ giới hóa triệt để nên sản lượng nông nghiệp của Mỹ là rất lớn tuy với số lao động không nhiều. Lấy số liệu năm 2010 làm ví dụ , tổng kim ngạch xuất khẩu là 1.289 tỷ USD và tuy tỷ lệ nông sản phẩm xuất khẩu chỉ chiếm 9,2% cũng đã là 118,58 tỷ USD (chủ yếu là ngô, đậu tương, hoa quả…). Lương thực được sản xuất ra rất an toàn, có chất lượng cao, phong phú và giá cả phải chăng.
Trong khoảng thời gian 1996-2005 cây trồng chuyển gen đã được triển khai trên một diện tích rất rộng lớn – khoảng 900 000 km2, trong đó có tới 55% là ở Mỹ. Diện tích cây trồng chuyển gen đến năm 2007 đã tăng lên đến 114,3 triệu ha. Riêng Mỹ diện tích cây GMC năm 2007 đã là 57,7 triệu ha. Việc trồng cây biến đổi gen (GMC) tăng lên rõ rệt trên toàn cầu trong năm 2009. So với năm 2008, diện tích giao trồng GMC đã tăng 9 triệu ha trong tổng số 134 triệu ha. Sự tăng trưởng này đạt 3% ở các nước công nghiệp (2 triệu ha) và 13% ở các quốc gia đang phát triển (7 triệu ha) Nông dân nhiều nước đã trồng các cây chuyển gen mang nhiều đặc tính (stacked traits), vì vậy nếu tính diện tích cây trồng chuyển gen theo đặc tính thì tăng thêm 22% , nghĩa là đạt diện tích 22%. Đã có tới 12 triệu nông dân trên thế giới tham gia vào việc trồng cây chuyển gen, trong số này có tới 90% là những nông dân nghèo thuộc các nước đang phát triển (khoảng 11 triệu người).Trong 11 năm từ 1996 đến 2006 cây trồng chuyển gen đã làm tăng thêm thu nhập tới 33,8 tỷ USD (trong đó riêng Mỹ là 15,8 tỷ USD). Giống đu đủ Hawaii (Mỹ) đề kháng với virut gây bệnh khảm lá nên cho nhiều quả với chất lượng cao đã được trồng rộng rãi ở Mỹ.Cải dầu (Canola) chuyển gen có tính đề kháng cao với thuốc trừ cỏ glyphosate hay glufosinate được trồng rộng rãi ở Mỹ.Củ cải đường kháng thuốc trừ cỏ glyphosate hay glufosinate đã được trồng rộng rãi ở Mỹ. Các quốc gia phát triển GMC lớn nhất là Mỹ (64 triệu ha), Brazil (21.4 triệu ha), Argentina (21,3 triệu ha), Ấn Độ (8,4 triệu ha) và Canada (8,2 triệu ha)... Theo thống kê năm 2010 thì tại Mỹ diện tích trồng cây chuyển đổi gen là rất lớn: đậu tương HT (đề kháng với thuốc trừ cỏ) chiếm tới 93% diện tích; bông HT- 78%; bông Bt (chống sâu hại)- 73%; ngô Bt- 63%; ngô HT- 70%. Các Công ty Công nghệ sinh học ở Mỹ đang phấn đấu biến cây trồng chuyển gen (GMC) ngoài chuyện kháng thuốc trừ cỏ, chống chịu sâu bệnh còn hướng tới nhiều mục tiêu khác (kháng mặn, chịu hạn, chịu lạnh, kháng nấm, kháng vi khuẩn, kháng virut, tăng giá trị dinh dưỡng, kéo dài thời gian bảo quản. Ngoài ra cây trồng chuyển gen còn được sử dụng như những nồi phản ứng sinh học (bioreactors) vì mang các gen sản sinh kháng nguyên thay cho vacxin hoặc các protein có tác dụng chữa nhiều bệnh hiểm nghèo. Một phần sản phẩm nông nghiệp được sử dụng làm nguồn carbon để nuôi cấy ở quy mô công nghiệp các vi sinh vật mang gen tái tổ hợp nhằm sản xuất ra hàng loạt các sản phẩm quýy giá phục vụ cho chản đoán và điều trị trên 200 loại bệnh tật khác nhau. Nổi bật nhất là các sinh dược phẩm (biopharmaceuticals). Đó là insulin, kích tố sinh trưởng người (HGH), nhân tố tương quan dến kích tố sinh trưởng (GHRF),interferon (IFFNα, IFNβ, IFNγ ) lymphokine, interleukin-2, interleukine-3,nhân tố kích hoạt đại thực bào (MAF), nhân tố sinh trưởng tế bào-B (B-cell GF), streptokinase, urokinase, nhân tố kích hoạt plasmonogen mô, thymosis, albumin, nhân tố máu (BF) eythropoietin, thrombopoietin, nhân tố kích thích tạo tập đoàn (CSF, G-CSF), kích tố giải phóng gonadotropin (GnRH), ganodotropin kỳ mãn kinh (MGn), calcitonin, nhân tố sinh trưởng biểu bì (EGF), nhân tố hoại tử khối u (TNF), α-11 antitrypsin, atrial natriuetic peptide, kháng thể đơn dòng (MABs), gene chip, các loại vaccine, kháng sinh ,aminoacid thế hệ mới …Mỹ hiện có tới khoảng 1000 Công ty Công nghệ sinh học và riêng 8 tháng đầu năm 2008 đã thu về tới 360 tỷ USD (!) Một đất nước đông tới 313,232 triệu dân, nông nghiệp chỉ chiếm 1,1% trong cơ cấu GDP, tỷ lệ lao động nông nghiệp chỉ chiếm 0,7% lực lượng lao động cả nước (2010) nhưng lại là nước xuất khẩu nhiều nông sản phẩm, là nước dẫn đầu về các sản phẩm Công nghệ sinh học hiện đại và bình quân thu nhập đầu người (GDP/PPP) hiện là 47 200 USD. Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và nông dân ở Mỹ rất đáng được coi là một mô hình đáng để chúng ta nghiên cứu và tham khảo. GS.TS Nguyễn Lân Dũng |