Hạn hán thường xảy ra ở đâu

Hạn hán là một thời gian kéo dài nhiều tháng hay nhiều năm khi một khu vực trải qua sự thiếu nước do lượng mưa đạt dưới mức trung bình. Nếu tình trạng hạn hán kéo dài sẽ gây ra thiệt hại đáng kể và gây tổn hại nền kinh tế địa phương.

Có nhiều nguyên nhân gây ra hạn hán tại nước ta, song chủ yếu do 2 yếu tố chính:

- Do khí hậu thời tiết bất thường gây nên lượng mưa thường xuyên ít ỏi hoặc nhất thời thiếu hụt.

- Do tác động của con người gây ra: tình trạng phá rừng bừa bãi làm mất nguồn nước ngầm dẫn đến cạn kiệt nguồn nước; Việc trồng cây không phù hợp, vùng ít nước cũng trồng cây cần nhiều nước [như lúa] làm cho việc sử dụng nước quá nhiều, dẫn đến việc cạn kiệt nguồn nước; Công tác quy hoạch sử dụng nước, bố trí công trình không phù hợp, làm cho nhiều công trình không phát huy được tác dụng...

Tình trạng hạn hán, thiếu nước năm nay xảy ra trên diện rất rộng, trải dài từ Bắc Bộ, miền Trung, Tây Nguyên đến Đồng bằng sông Cửu Long và có diễn biến hết sức phức tạp.

Biến đổi khí hậu đang diễn ra sớm và mạnh hơn so với dự báo, là nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng hạn hán, thiếu nước và nhiều hiện tượng cực đoan như thiên tai, lũ lụt khác trên phần lớn các khu vực ở nước ta hiện nay. Hệ quả là thiếu nước, xâm nhập mặn, đặc biệt là thiếu nước sạch phục vụ sinh hoạt của con người ở khu vực miền Tây hiện nay.

Để giảm thiểu nguy cơ thiếu nước trong thời gian còn lại của mùa cạn năm 2020 cũng như ứng phó lâu dài với hạn mặn, điều quan trọng nhất là làm sao thay đổi nhận thức sâu, rộng và nâng cao tinh thần trách nhiệm của người dân, cộng đồng dân cư và các tổ chức, cá nhân trong bảo vệ, chia sẻ nguồn nước và sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, tránh lãng phí nguồn nước. Điều này sẽ làm giảm tác động của hạn hán, xâm nhập mặn đặc biệt là trong điều kiện biến đổi khí hậu.

Trước những thiệt hại do hạn mặn ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay, Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long cần tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp, trong đó tập trung chuyển đổi sản xuất theo hướng phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Bộ TN&MT chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan làm việc với các nước thượng nguồn sông Mê Công thu thập thông tin về nguồn nước, điều tiết các hồ chứa thủy điện ngoài lãnh thổ Việt Nam để phục vụ dự báo xâm nhập mặn; đề xuất tăng cường xả nước từ các hồ chứa thủy điện để đẩy mặn cho Đồng bằng sông Cửu Long trong trường hợp cần thiết. Các địa phương tổ chức vận hành hợp lý công trình thủy lợi để tranh thủ lấy nước khi độ mặn ở mức cho phép, tăng cường tích trữ nước vào nội đồng, khẩn trương đóng cống ngăn mặn xâm nhập khi độ mặn lên cao, đặc biệt tại các cống thuộc hệ thống thủy lợi Bảo Định [Tiền Giang], Nam Măng Thít [Trà Vinh, Vĩnh Long]… Tiến hành khoan giếng bổ sung nguồn nước ngọt, kéo dài các đường ống từ các nhà máy nước tập trung ở vùng nước ngọt cấp cho các vùng dân cư bị ảnh hưởng bởi xâm nhập mặn.

Quang Huy

Page 2

Hạn hán xảy ra chủ yếu do 2 nguyên nhân sau:

1. Nguyên nhân khách quan:

- Mưa rất ít, lượng mưa không đáng kể trong thời gian dài hầu như quanh năm, đây là tình trạng phổ biến trên các vùng khô hạn và bán khô hạn.

- Lượng mưa trong khoảng thời gian dài đáng kể thấp hơn rõ rệt mức trung bình nhiều năm cùng kỳ. Tình trạng này có thể xảy ra trên hầu khắp các vùng, kể cả vùng mưa nhiều.

- Mưa không ít lắm, nhưng trong một thời gian nhất định trước đó không mưa hoặc mưa chỉ đáp ứng nhu cầu tối thiểu của sản xuất và môi trường xung quanh. Đây là tình trạng phổ biến trên các vùng khí hậu gió mùa, có sự khác biệt rõ rệt về mưa giữa mùa mưa và mùa khô.

2. Nguyên nhân chủ quan:

- Do tình trạng phá rừng bừa bãi làm suy giảm nguồn nước ngầm dẫn đến cạn kiệt nguồn nước.

- Do việc quy hoạch phát triển nông nghiệp và thủy sản không phù hợp, dẫn đến sử dụng nước quá nhiều làm cạn kiệt nguồn nước.

- Do không đủ nguồn nước và thiếu những biện pháp cần thiết để phát triển và bảo vệ nguồn nước, đáp ứng nhu cầu sử dụng ngày càng gia tăng của sự phát triển kinh tế-xã hội. 

1.Hạn hán là gì?

Hạn hán là hiện tượng lượng mưa thiếu hụt nghiêm trọng kéo dài, làm giảm hàm lượng ẩm trong không khí và hàm lượng nước trong đất, làm suy kiệt dòng chảy sông suối, hạ thấp mực nước ao hồ, mực nước trong các tầng chứa nước dưới đất gây ảnh hưởng xấu đến sự sinh trưởng của cây trồng, làm môi trường suy thoái gây đói nghèo dịch bệnh...

Hình 1: Vét từng giọt nước nơi khô hạn nứt nẻ

2. Những nguyên nhân nào gây ra hạn hán?

Nguyên nhân gây ra hạn hán có nhiều song tập trung chủ yếu là 2 nguyên nhân chính:

Nguyên nhân khách quan: Do khí hậu thời tiết bất thường gây nên lượng mưa thường xuyên ít ỏi hoặc nhất thời thiếu hụt.

- Mưa rất ít, lượng mưa không đáng kể trong thời gian dài hầu như quanh năm, đây là tình trạng phổ biến trên các vùng khô hạn và bán khô hạn. Lượng mưa trong khoảng thời gian dài đáng kể thấp hơn rõ rệt mức trung bình nhiều năm cùng kỳ. Tình trạng này có thể xảy ra trên hầu khắp các vùng, kể cả vùng mưa nhiều.

- Mưa không ít lắm, nhưng trong một thời gian nhất định trước đó không mưa hoặc mưa chỉ đáp ứng nhu cầu tối thiểu của sản xuất và môi trường xung quanh. Đây là tình trạng phổ biến trên các vùng khí hậu gió mùa, có sự khác biệt rõ rệt về mưa giữa mùa mưa và mùa khô. Bản chất và tác động của hạn hán gắn liền với định loại về hạn hán.

Nguyên nhân chủ quan: Do con người gây ra, trước hết là do tình trạng phá rừng bừa bãi làm mất nguồn nước ngầm dẫn đến cạn kiệt nguồn nước; việc trồng cây không phù hợp, vùng ít nước cũng trồng cây cần nhiều nước [như lúa] làm cho việc sử dụng nước quá nhiều, dẫn đến việc cạn kiệt nguồn nước; thêm vào đó công tác quy hoạch sử dụng nước, bố trí công trình không phù hợp, làm cho nhiều công trình không phát huy được tác dụng... Vùng cần nhiều nước lại bố trí công trình nhỏ, còn vùng thiếu nước [nguồn nước tự nhiên] lại bố trí xây dựng công trình lớn. Cạnh đó, chất lượng thiết kế, thi công công trình chưa được hiện đại hóa và không phù hợp. Thêm nữa, hạn hán thiếu nước trong mùa khô [mùa kiệt] là do không đủ nguồn nước và thiếu những biện pháp cần thiết để đáp ứng nhu cầu sử dụng ngày càng gia tăng do sự phát triển kinh tế-xã hội ở các khu vực, các vùng chưa có quy hoạch hợp lý hoặc quy hoạch phát triển không phù hợp với mức độ phát triển nguồn nước, không hài hoà với tự nhiên, môi trường vốn vẫn tồn tại lâu nay. Mức độ nghiêm trọng của hạn hán thiếu nước càng tăng cao do nguồn nước dễ bị tổn thương, suy thoái lại chịu tác động mạnh của con người.

3. Hạn hán được phân loại như thế nào?

Theo tổ chức Khí tượng Thế giới [WMO] hạn hán được phân ra 4 loại: hạn khí tượng, hạn nông nghiệp, hạn thuỷ văn và hạn kinh tế xã hội.

a. Thế nào là hạn khí tượng?

Thiếu hụt nước trong cán cân lượng mưa, lượng bốc hơi, nhất là trong trường hợp liên tục mất mưa. Ở đây lượng mưa tiêu biểu cho phần thu và lượng bốc hơi tiêu biểu cho phần chi của cán cân nước. Do lượng bốc hơi đồng biến với cường độ bức xạ, nhiệt độ, tốc độ gió và nghịch biến với độ ẩm nên hạn hán gia tăng khi nắng nhiều, nhiệt độ cao, gió mạnh, thời tiết khô ráo.

b. Thế nào là hạn nông nghiệp?

Thiếu hụt mưa dẫn tới mất cân bằng giữa hàm lượng nước thực tế trong đất và nhu cầu nước của cây trồng. Hạn nông nghiệp thực chất là hạn sinh lý được xác định bởi điều kiện nước thích nghi hoặc không thích nghi của cây trồng, hệ canh tác nông nghiệp, thảm thực vật tự nhiên... Ngoài lượng mưa ra, hạn nông nghiệp liên quan với nhiều điều kiện tự nhiên [địa hình, đất,...] và điều kiện xã hội [tưới, chế độ canh tác,...].

c. Thế nào là hạn thuỷ văn?

Dòng chảy sông suối thấp hơn trung bình nhiều năm rõ rệt và mực nước trong các tầng chứa nước dưới đất hạ thấp. Ngoài lượng mưa ra, hạn thuỷ văn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác: dòng chảy mặt, nước ngầm tầng nông, nước ngầm tầng sâu...

Hình 3: Tình trạng thiếu nước trên sông Hồng vào mùa cạn

d. Thế nào là hạn kinh tế xã hội?

Nước không đủ cung cấp cho nhu cầu của các hoạt động kinh tế xã hội.

Hình 4. Gùi nước nơi suối cạn

4. Hạn thuỷ văn được xác định như thế nào?

Hạn thuỷ văn được đặc trưng bằng sự suy giảm dòng chảy sông và thiếu hụt các nguồn nước mặt và nước ngầm. Các chỉ tiêu hạn thuỷ văn tiêu biểu bao gồm: Cán cân nước, hệ số khô, hệ số cạn, hệ số hạn.

Cán cân nước: W=G-L
Trong đó: 

W: Lượng nước có trong hệ thống G: Lượng nước đến

L: Lượng nước tổn thất

- Chỉ số hạn:
Hệ số khô:

Trong đó:

Kkh: Hệ số khô R: Lượng mưa

E: Lượng bốc hơi khả năng

Hệ số cạn

Trong đó:

Kc: Hệ số cạn
Qi: Lưu lượng thời đoạn i của năm j
Qj: Lưu lượng năm
Q0: Lưu lượng trung bình nhiều năm

Hệ số hạn

Trong đó:

Kh: Hệ số hạn
Có thể phân định 3 cấp hạn theo Kh
Hạn nhẹ: Kh4
Cực ẩm

5. Hạn hán được đặc trưng bằng gì?

Để mô tả khái quát tình hình chung về hạn hán trong các khu vực và diễn biến theo thời gian của chúng, người ta đã sử dụng chỉ số khô hạn các tháng và năm:

Ở đây:

Kt: chỉ số khô hạn tháng [năm]
Pt: Lượng bốc hơi theo Piche tháng [năm]
Rt: Lượng mưa tháng [năm]


a. Thế nào là hạn tháng?

Hạn hán trong một tháng nào đó của 12 tháng trong chu kỳ năm được ký hiệu là H[th]t xảy ra khi:
R[th]t 

Chủ Đề