Một trong những hình thái của tiền dấu hiệu

Trong suốt thời kỳ phát triển của con người, hình thái của tiền tệ liên tục thay đổi nhằm thích ứng với xã hội và nền kinh tế không ngừng biến chuyển. Tiền mặt (tiền xu, tiền giấy,...) là phương tiện thanh toán được sử dụng hơn hàng nghìn năm qua. Tuy nhiên, vai trò của tiền mặt dần được thay thế bởi các hình thức thanh toán điện tử khác.

Đồng tiền điện tử thông dụng nhất thế giới hiện nay là Bitcoin. Nó có thể được trao đổi, giao dịch trực tiếp mà không cần thông qua một tổ chức tài chính trung gian nào, các giao dịch được thực hiện ngay lập tức & ẩn danh. Tuy nhiên, chúng ít khi được sử dụng trong các hoạt động giao dịch truyền thống vì giá trị không ổn định và dễ bị điều chỉnh dựa trên số lượng người dùng. Dù phát triển mạnh và nắm giữ nhiều tiềm năng, loại tiền kỹ thuật số này vẫn chưa được chào đón tại nhiều quốc gia vì khả năng khó kiểm soát của nó.

Nếu như trước kia, thẻ tín dụng, thẻ ngân hàng là những công cụ chi tiêu nổi bật của người tiêu dùng nhờ vào tính bảo mật và sự tiện lợi, thì ngày nay ví điện tử tích hợp trong điện thoại thông minh lại chiếm ưu thế. Với những tính năng nổi trội như khả năng giao dịch tức thì đi kèm với các hình thức quản lý tài chính hiệu quả, không khó để dự đoán chiếc ví kỹ thuật số này sẽ sớm trở thành công nghệ thanh toán của tương lai.

Ví điện tử phổ biến nhất nhất trên thế giới hiện nay là Paypal. Ở Việt Nam người dân lại quen thuộc hơn với việc thanh toán bằng ví Momo, VTC Pay, Bankplus,...

Sự đón nhận của thế giới:
Càng lúc càng có nhiều quốc gia trên thế giới đang đón đầu xu hướng sử dụng tiền kỹ thuật số. Theo một số khảo sát quốc tế của ngân hàng ING, Hà Lan, năm 2017, 34% người châu Âu và 38% người Mỹ khi được hỏi đã nói rằng, họ sẵn sàng không dùng tới tiền mặt nữa. Báo Le Courrier International cho biết có đến hơn 80% khách hàng tại một cửa hàng cà phê ở Thâm Quyến, Trung Quốc, thanh toán qua điện thoại di động chứ không phải bằng thẻ tín dụng hay tiền mặt. Tại Đan Mạch, đa số các doanh nghiệp bán lẻ đã không còn sử dụng tiền mặt để thanh toán.

Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBOC) thậm chí còn tuyên bố sẽ sớm phát hành loại tiền điện tử riêng của nước này bởi những lợi ích đặc biệt của nó so với loại tiền truyền thống.

Mặt trái của một xã hội phi tiền tệ:
Thanh toán qua dịch vụ qua mạng tuy tiện lợi nhưng cũng tiềm tàng nhiều rủi ro. Năm 2016, khoảng 900 công ty cho vay tiền qua mạng trên thế giới đã gặp sự cố, một số trường hợp gây thiệt hại không nhỏ đối với tài sản điện tử của khách hàng. Kế hoạch loại bỏ hoàn toàn tiền mặt ra khỏi đời sống của người dân trong tương lai cũng gây ảnh hưởng đến nhóm đối tượng sống tại các miền hẻo lánh hoặc nhóm dân cư nghèo tại các quốc gia ở Châu Âu. Tiền mặt, tiền lẻ vẫn tỏ ra hữu dụng hơn trong các giao dịch nhỏ.

Để nắm bắt được xu thế kinh tế toàn cầu, nhiều người đã tìm kiếm cơ hội học hỏi tại các môi trường quốc tế như chương trình cao học bậc Thạc sĩ Kinh tế Ngân Hàng và Tài chính tại CFVG. Với chương trình này, học viên được hỗ trợ giảng dạy các môn học chuyên sâu về phân tích và dự đoán nền tài chính thế giới, các môn học nổi bật có thể kể đến: + Phân tích và Dự đoán Tài chính. + Đánh giá và Quyết định Đầu tư.

+ Hàng hóa Thị trường

Trang bị cho học viên tri thức và một cái nhìn tổng quan về nền kinh tế thị trường, CFVG tin rằng, các bạn sẽ luôn sẵn sàng và nhạy bén trước những vấn đề thời cuộc như sự chuyển mình của một xã hội phi tiền tệ.

Nếu bạn chưa là hội viên hãy trở thành hội viên của christmasloaded.com để được hỗ trợ và chia sẽ thông tin nhiều hơn. Click Like button để trở thành hội viên của christmasloaded.com trên facebook.

Bạn đang xem: Tiền dấu hiệu là gì, Ưu, nhược Điểm của tiền dấu hiệu chế Độ lưu thông tiền tệ và thực trạng Ở việt nam


Một trong những hình thái của tiền dấu hiệu


Lý thuyết Quản Trị là hệ thống mà christmasloaded.com đã số hoá toàn bộ Sách giáo khoa của chương trình 4 năm đại học và 2 năm sau đại học chuyên ngành Quản trị Kinh doanh.Với hệ thống này, bạn có thể truy xuất tất cả hệ thống lý thuyết chuyên ngành Quản trị Kinh doanh trong quá trình nghe giảng, làm bài tập hoặc thi cử.Hệ thống Lý Thuyết Quản Trị được phát triển bởi Viện MBA, thành viên của MBA Institute Global

Nếu còn thắc mắc hoặc tìm hiểu chuyên sâu hơn về Quản trị Ứng dụng, bạn có thể đặt câu hỏi với Chuyên Gia christmasloaded.com


Kết quả

Tiền danh nghĩa- Tiền là dấu hiệu giá trị:

Khi vàng được sử dụng làm trung gian trong quá trình trao đổi hàng hoá, ban đầu có đầy đủgiá trị. Nhưng trong quá trình lưu thông, nó đã bị cọ sát nhiều và giảm dần trọng lượng và thực chất nó đã giảm giá trị nhưng vẫn được người ta coi là tiền đầy đủ giá như ban đầu. Hiện tượng đó làm nảy sinh khả năng lấy một vật khác thay thế tiền vàng làm phương tiện lưu thông. Khả năng đó đã từng bước thành hiện thực khi người ta phát hành tiền kim loại đúc và sau này là tiền giấy để thực hiện chức năng lưu thông của tiền tệ thay thế cho tiền vàng.

Tiền danh nghĩa là loại tiền tệ mà bản thân tự nó không có giá trị (chỉ là dấu hiệu giá trị) songnhờ sự tín nhiệm của mọi người mà nó được lưu dụng.

Giá trị của tiền danh nghĩa chính là giá trị của vàng mà nó phản ánh, đại diện. Tín tệ gồm cóhai loại: tiền kim loại và tiền giấy.

1. Tiền xu kim loại (coin)

Tiền kim loại thuộc hình thái tín tệ khác với tiền kim loại thuộc hình thái hóa tệ ở chỗ, tronghóa tệ kim loại, giá trị của chất kim loại đúc thành tiền bằng giá trị ghi trên bề mặt của đồng tiền, cũng ở tín tệ kim loại, giá trị của chất kim loại đúc thành tiền và giá trị ghi trên bề mặt của đồng tiền không có liên hệ gì với nhau, có thể gán cho nó một giá trị nào cũng được theo tưởng tượng của con người.

2. Tiền giấy (Paper money or bank notes)

Tiền giấy có 2 loại: tiền giấy khả hoán và tiền giấy bất khả hoán.

a. Tiền giấy khả hoán (Convertible paper money):là một mảnh giấy được in thành tiền để lưuhành, thay thế cho tiền bằng vàng hay tiền bằng bạc (gold certificate, silver certificate). Người có tiền giấy này có thể đến ngân hàng để đổi lấy một số lượng vàng hay bạc tương đương với giá trị ghi trên đồng tờ giấy đó. Sự ra đời tiền giấy khả hoán đã giúp cho việc giao dịch những khoản tiền lớn, cũng như việc vận chuyển chúng trở nên thuận lợi hơn nhiều. Tiến giấy khả hoán được ghi nhận xuất hiện vào thế kỷ 17, do một chủ ngân hàng tại Stockholm, Thụy Điển đưa ra.

Xem thêm: Sms Marketing Là Gì ? Chiến Lược Sms Marketing Hiệu Quả Sms Marketing Có Lợi Ích Gì Cho Doanh Nghiệp

Thời kỳ đầu, các NHTM là người phát hành các tiền giấy khả hoán. Sau Đại chiến thế giới I,nhằm siết chặt quản lý trong việc phát hành tiền giấy, nhà nước đã ngăn cấm các NHTM phát hành giấy bạc ngân hàng, và quy việc phát hành về 1 NHTW duy nhất. Vì thế ngày nay nói đến giấy bạc ngân hàng phải hiểu là giấy bạc của NHTW. Hàm lượng vàng của đồng tiền được quy định theo luật của ngân hàng từng nước. Vì vậy người ta cũng gọi tiền giấy này là tiền pháp định (Fiat money).

b. Tiền giấy bất khả hoán (Inconvertible paper money):Tiền giấy bất khả hoán là loại tiền màdân chúng không thể đem nó đến ngân hàng để đổi lấy vàng hay bạc. Đây là loại tiền giấy mà ngày nay tất cả các quốc gia trên thế giới đang sử dụng.

Tiền giấy thực chất là các giấy nợ (IOU) của NHTW với người mang nó. Nhưng với tiền bấtkhả hoán, thì đó là các giấy nợ đặc biệt. Chúng chỉ hứa trả cho người mang nó bằng các tờ tiền giấy khác, tức là NHTW thanh toán giấy nợ này bằng giấy nợ khác. Và vì vậy, nếu bạn mang 100.000 đem ra ngân hàng người ta sẽ chỉ đổi cho bạn ra các đồng tiền với mệnh giá nhỏ hơn như 20.000d, 10.000đ ¼ chứ không phải là vàng. Khi phát hành tiền giấy thì tiền giấy trở thành tài sản của người sở hữu chúng, nhưng đối với NHTW lại là một khoản nợ về giá trị (hay sức mua) của lượng tiền phát hành ra. Chính vì vậy, khi phát hành ra một lượng tiền bao giờ lượng tiền này cũng phải ghi vào mục Tài sản Nợ trong bảng tổng kết tài sản của NHTW.

Việc xã hội chấp nhận tiền giấy mặc dù giá trị thực của nó thấp hơn nhiều so với giá trị mà nóđại diện là vì tiền giấy được quy định trong luật là phương tiện trao đổi, vì mọi người tin tưởng vào uy tín của cơ quan phát hành (NHTW), và vì bản thân việc sử dụng tiền giấy rất thuận lợi.

Thế nhưng một khi mất lòng tin vào cơ quan phát hành thì người ta sẽ không sử dụng tiền giấy nữa.

Có thể thấy việc sử dụng tiền dấu hiện giá trị mang lại nhiều lợi ích. Thứ nhất, tiền dấu hiệngiá trị dễ dàng vận chuyển, cất trữ. Thứ hai, tiền dấu hiện giá trị có đủ mệnh giá đáp ứng mọi giao dịch. Thứ ba, về phía Chính phủ: việc in tiền giấy tốn ít chi phí hơn nhiều so với giá trị mà nó đại diện và có thể phát hành không phụ thuộc vào số lượng các hàng hóa dùng làm tiền tệ như trước đây. Ngoài ra chính phủ cũng nhận được khoản chênh lệch giữa giá trị của số tiền in thêm và chi phí phát hành tiền.

Tuy nhiên, tiền dấu hiện giá trị cũng có nhiều nhược điểm như dễ rách và hư hỏng; chi phílưu thông cũng lớn, nhất là đối với các trao đổi diễn ra trên phạm vi rộng (giữa các quốc gia...; dễ bị làm giả và dễ rơi vào tình trạng bất ổn (do không có giá trị nội tại và không thể tự điều tiết được số lượng tiền giấy trong lưu thông như tiền vàng).

(Last Updated On: 12/11/2021 By Lytuong.net)

Tiền tệ và lưu thông tiền tệ theo quan điểm của trường phái hiện đại. Trường phái hiện đại không nghiên cứu tiền vàng mà nghiên cứu hình thái tiền tệ thuộc về một giai đoạn cao hơn của quá trình sản xuất, đó là nghiên cứu các dấu hiệu giá trị.

1. Sự phát triển các hình thái tiền tệ:

1.1. Hóa tệ

Đây là hình thái tiền tệ đầu tiên và được sử dụng trong điều kiện khi mà nền kinh tế hàng hóa tiền tệ chưa phát triển. Hóa tệ là một loại hàng hóa thông thường nào đó được sử dụng làm vật ngang giá chung, hay nổi một cách khác hóa tệ là hàng hóa thông thường được sử dụng làm tiền tệ.

Có hai loại hóa tệ.

Hóa tệ không kim: Hóa tệ không kim là những hàng hóa bình thường không phải là kim loại được sử dụng để làm tiền tệ như vỏ ốc, vỏ sò, hạt ca cao, da thú, gạo… Sử dụng hóa tệ không kim có nhiều bất tiện như: mau hư hỏng, khó phân chia hoặc khó gộp lại, vì vậy hóa tệ không kim chỉ được công nhận trong từng khu vực, từng địa phương chứ không được công nhận trong phạm vi cả nước và phạm vi quốc tế, chính vì lý do này mà tất cả các hóa tệ không kim loại đều bị loại bỏ và được thay thế bởi hóa tệ bằng kim loại.

Hóa tệ bằng kim: Hóa tệ bằng kim hay còn gọi là kim tệ là sử dụng một thứ kim loại nào đó làm vật ngang giá, người ta dùng kim loại làm nguyên liệu đúc tiền, như: đồng, bạc, vàng.

1.2. Chỉ tệ (hay còn gọi là tín tệ)

Chỉ tệ là hình thái tiền tệ mà trong đó giá trị nội tại của tiền không phù hợp với giá trị danh nghĩa, hay nói cách khác chỉ tệ là loại tiền tệ mà bản thân tiền tệ không có giá trị, nhưng nhờ sự tín nhiệm của con người mà nó được lưu thông nên còn gọi là tín tệ.

Tổn tệ là một loại vật chất được con người gán cho hay chỉ định cho nó có một giá trị nhất định để đóng vai trò tiền tệ, bởi vậy tuy chỉ tệ không có giá trị nội tại nhưng nó vẫn lưu thông được do sự tín nhiệm của con người hoặc do quy định của Pháp luật Nhà nước nên có giá trị lưu thông.

Có hai loại chỉ tệ điển hình:

Tiền kim loại (coin): Là tiền được làm bằng các kim loại kém giá như: Chì (Pb), Nhôm (Al), Kèm (Zn) . và được sử dụng làm tiền xu, tiền lẻ để giao dịch những khoản hàng hóa, dịch vụ có giá trị nhỏ hoặc dùng để trả lại. Trong hình thái chỉ tệ kim loại, mệnh giả của tiến tệ (giá trị ghi trên mặt đồng tiến) là do con người định đoạt cho nó một giả trị nào cũng được. Thông thường giá trị danh nghĩa (mệnh giá) của tín tệ kim loại cao hơn giá trị thực của nó rất nhiều.

Tiền giấy (paper): Là tiền được làm bằng giấy do ngân hàng trung ương của các nước độc quyền phát hành. Tiền giấy gồm hai lại sau đây:

– Tiền giấy khả hoán: Tiền giấy khả hoán là tiền giấy được lưu hành trên cơ sở thay thế cho tiền vàng hay tiền bằng bạc mà người ta ký gửi ở ngân hàng.

Tiền giấy khả hoán là tiền giấy được tự do chuyển đổi ra vàng với bất kỳ khối lượng nào theo đúng tiêu chuẩn giá cả. Điều đó có nghĩa là ai có tiền giấy khả hoán, thì bất cứ lúc nào cũng có quyền đến ngân hàng để đổi lấy một số vàng hay bạc mà nó làm đại biểu theo đúng tiêu chuẩn giá cả hoặc ngược lại.

Tiền giấy khả hoán ngày nay không còn nước nào trên thế giới lưu thông nữa.

– Tiền giấy bất khả hoán: Tiền giấy bất khả hoán là tiền giấy không được tự do chuyển đổi ra vàng. Khi sử dụng tiền giấy bất khả hoán, dân cư không có quyền đem đến ngân hàng để đổi lấy vàng hay bạc.

Ngày nay, tiền giấy bất khả hoán là loại tiền được lưu hành phổ biến ở tất cả các nước, tiền giấy bất khả hoán không được đổi lấy vàng hay bạc, nên dễ bị mất giá, lưu thông không ổn định, dễ có lạm phát và thiểu phát.

Trong lịch sử lưu hành tiền giấy bất khả hoán. Trung Quốc là một trong những quốc gia sáng chế ra tiền giấy bất khả hoán sớm nhất vào thế kỷ thứ IX. Ở Mỹ tiền giấy xuất hiện vào năm 1690.

Lịch sử lưu hành tiền tệ Việt Nam, trong các triều đại phong kiến chủ yếu lưu thông tiến đúc bằng đồng, nhưng có một hiện tượng thật độc đáo, là tiền giấy xuất hiện khá sớm vào năm 1896, sớm hơn các nước phương Tây. Người có sáng kiến phát hành tiến giấy ở Việt Nam là Hồ Quý Ly, ông là người đầu tiên đưa ra một số chế độ cải cách trong triều Trần, trong đó có chế độ cải cách tiền tệ với nội dung phát hành tiền giấy để thay thế cho tiến đúc bằng đồng. Nhưng chế độ tiến giấy và lưu hành tiền giấy cũng chỉ tồn tại ba năm cùng thời gian Hồ Quý Ly trị vì đất nước. Tiền giấy dưới triều đại Hồ Quý Ly được mang danh là “Thông Bảo Hội Sao”.

1.3. Bút tệ

Bút tệ – tiền tệ ngân hàng hay còn gọi là tiền tài khoản hoặc tiền trương mục.

Bút tệ là loại tiền tệ vô hình được tạo lập qua các bút toán, nó tồn tại trên sổ sách kế toán của ngân hàng nên còn gọi là tiền ngân hàng.

Thực chất đây là tiền gửi của khách hàng thể hiện ở số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán nên còn có tên gọi là tiền trương mục hay tiền gửi giao dịch.

1.4. Các phương tiện tiền tệ điện tử

Tiền tệ điện tử tồn tại dưới dạng thẻ (cards): Các loại thẻ phổ biến như: Visa card, credit card, payment card.

Lưu ý: Ngày nay toàn thế giới lưu hành các dấu hiệu giá trị, mà các dấu hiệu giá trị không có giá trị nội tại, nên không thực hiện được đầy đủ năm chức năng của tiền tệ mà chỉ thực hiện được các chức năng không cần đòi hỏi phải có của tiền vàng, như:

– Chức năng phương tiện biểu hiện giá cả hàng hóa.

Tiền tệ được sử dụng để tính toán hao phí sản xuất hàng hóa, trên cơ sở đó tính giá thành sản phẩm và xác định giá bán.

– Chức năng phương tiện trao đổi

Tiến tệ được sử dụng để làm phương tiện mua bán, trao đổi hàng hóa dịch vụ và các khoản khác. Trong chức năng này có thể tiền mặt vận động, có thể tiến chuyển khoản vận động, đảm bảo sự vận động ngược chiều của hàng hóa, dịch vụ, các khoản khác.

– Chức năng phương tiện dự trữ giá trị

Tiền tệ được sử dụng để tích lũy, để dành, tiết kiệm bằng nhiều cách: gửi tiết kiệm, dự trữ các tài sản tài chính, các giấy tờ có giá trị khác, — việc dự trữ giá trị của các chủ thể trong nền kinh tế với mục đích chính là để nhắm đến khả năng sinh lời của đồng tiền.

2. Phân loại tiền tệ

Có rất nhiều căn cứ để phân loại tiền tệ, tùy theo mỗi góc nhìn của nhà nghiên cứu.

2.1. Căn cứ vào hình thái giá trị

Nếu căn cứ vào hình thái giá trị của tiền tệ, chia tiền tệ ra làm hai loại, đó là tiền thực và các dấu hiệu giá trị

– Tiền thực: Tiền thực là hình thái tiền tệ có đầy đủ giá trị nội tại, giá trị danh nghĩa và giá trị nội tại của tiền tệ luôn luôn phù hợp nhau, tiền thực lưu thông được là nhờ vào chính giá trị của bản thân nó – người ta còn hiểu tiền thực là tiến tệ hàng hóa, là tiền đúc bằng vàng hay gọi là tiền bản vị.

– Dấu hiệu giả trị: Dấu hiệu giá trị là hình thái tiền tệ không có đầy đủ giá trị nội tại, giá trị danh nghĩa và giá trị nội tại của tiến tệ không có sự phù hợp nhau, do được đưa vào lưu thông để thay thế cho tiến thực nên các dấu hiệu giá trị có được giá trị lưu thông, nên người ta còn hiểu dấu hiệu giá trị là tiền tệ Pháp định.

Tiền tệ lưu thông được không nhờ vào giá trị của chính bản thân tiến mà là do sự quy ước của xã hội, do luật pháp công nhận tiền tệ đó được phép lưu thông.

2.2. Căn cứ vào hình thái vật chất của tiền tệ

Nếu căn cứ vào hình thái vật chất của tiền tệ, chia tiền tệ ra làm hai loại, đó là tiền mặt và tiến chuyển khoản.

– Tiền mặt: Là tiền tồn tại dưới dạng vật chất, tiền mặt được làm bằng nguyên liệu cụ thể, có trọng lượng, hình dáng, kích thước, hoa văn, màu sắc, do Luật pháp quy định và trực tiếp lưu thông.

– Tiền chuyển khoản: Huy còn gọi là bút tệ, là dạng tiền tệ phí vật chất, được tồn tại trên hệ thống tài khoản ở ngân hàng nên còn gọi là tiền ngân hàng.

2.3. Căn cứ vào nguồn gốc xuất xứ

Nếu căn cứ vào nguồn gốc xuất xứ của tiền tệ, chia tiền tệ ra làm hai loại, đó là hóa tệ và tín tệ.

– Hóa tệ: Hóa tệ là tiền tệ có nguồn gốc từ hàng hóa, tiền tệ trực tiếp sinh ra từ sản xuất và lưu thông hàng hóa.

– Tin tệ: Tin tệ là tiền tệ không có nguồn gốc từ hàng hóa, tín tệ ra đời là để thay thế cho tiền vàng thực hiện một số các chức năng của tiền tệ, còn gọi là tiền tệ pháp định.

2.4. Căn cứ vào phạm vi lưu thông

Nếu căn cứ vào phạm vi lưu thông của tiền tệ, chia tiền tệ ra làm hai loại đó, là nội tệ và ngoại tệ.

– Nội tệ: Nội tệ là tiền tệ lưu thông trong một nước, do ngân hàng trung ương của một nước độc quyền phát hành, tiền tệ được lưu hành tự do và có khả năng thanh toán không hạn chế trong phạm vi của nước đó mà thôi.

– Ngoại tệ: Ngoại tệ là tiền nước ngoài.

Tóm lại, có nhiều căn cứ để phân loại tiền tệ, vấn đề là nhà nghiên cứu đang quan tâm đến tiền tệ ở góc độ nào và cũng cần lưu ý rằng việc phân loại này cũng chỉ là tương đối.

3. Vai trò của tiền tệ

– Tiền tệ là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô:

Chính phủ sử dụng tiền tệ để hoạch định kế hoạch phát triển Kinh tế – Xã hội và thiết lập các mối quan hệ cân đối về phương diện giá trị cho nền kinh tế thị trường.

Sử dụng để tiền tệ xây dựng các chính sách kinh tế vĩ mô, như: chính sách tài chính; chính sách tiền tệ; chính sách tín dụng; chính sách giá cả – tiến lương; chính sách thuế và các chính sách kinh tế, xã hội khác. Các chính sách này được thực hiện sẽ có tác động vào các biến số kinh tế vĩ mô như: thu nhập; chỉ tiêu; giá cả; tỷ giá hối đoái; thuế, phí, lệ phí lãi suất và mức cung ứng tiền tệ qua các biến số này mà đạt được các mục tiêu phát triển Kinh tế – Xã hội đã định.

– Tiền tệ được sử dụng để thực hiện chế độ hạch toán kinh tế:

Tiền tệ được sử dụng làm công cụ hạch toán chi phí sản suất, kinh doanh hàng hóa và dịch vụ theo phương án lấy thu bù chỉ và có doanh lợi.

Tiền tệ phát huy tích cực các chức năng vốn có đặc biệt là chức năng phương tiện thanh toán đã góp phần tiết kiệm tiền mặt và tiết kiệm các chi phí lưu thông tiền tệ.

– Góp phần đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung vốn cho nền kinh tế.

– Góp phần phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại.

(Nguồn tài liệu: TS. Lê Thị Mận, Lý thuyết Tài chính Tiền tệ, 2010)