Phụng vị là gì
Hỏi: Phụng vụ là gì? Thưa: Phụng vụ là việc cử hành mầu nhiệm Ðức Kitô, đặc biệt là
cử hành Mầu nhiệm Vượt qua của Người. Trong Phụng vụ, qua trung gian việc thực thi phận vụ tư tế của Ðức Giêsu Kitô, sự thánh hóa con người được biểu lộ và thực hiện qua các dấu chỉ. Thân thể nhiệm mầu của Ðức Kitô, nghĩa là Ðầu và các chi thể, thực thi việc thờ phượng công khai dành cho Thiên Chúa. Hỏi: Phụng vụ có vị trí nào trong đời sống Hội thánh? Thưa: Là hành động tuyệt đối thánh thiêng, Phụng vụ là chóp đỉnh mà mọi hoạt động của Hội thánh đều hướng
tới, đồng thời là nguồn mạch phát sinh mọi năng lực của đời sống Hội thánh. Qua Phụng vụ, Ðức Kitô tiếp tục công trình cứu chuộc chúng ta trong Hội thánh, với Hội thánh và nhờ Hội thánh của Người. (Trích Bản Toát Yếu Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, bản dịch của HĐGM Việt Nam, 2011). Post Views: 2.139 1.Về bản ghi ngày giỗ (kị)Ở quê tôi (Thanh Hóa) đang còn không ít văn bản ghi ngày giỗ bằng chữ Hán viết trên gỗ được sơn son thếp vàng hoặc trên tấm đồng (xem hình 1 và hình 2) Hình 1. Bản ghi ngày giỗ của một gia đình họ Trịnh. Hình 2. Bản ghi ngày giỗ của họ Doãn Trọng Xem ví dụ sau (từ hàng dọc, xin chuyển sang hàng ngang cho dễ trình bày):
Cứ như vậy, hết cụ ông đến cụ bà xa đời nhất thì đến cụ ông, cụ bà đời kế tiếp cho đến đời gần nhất (thường là cha mẹ). Nếu trong một đời nào đó mà 1 trong 2 cụ còn sống thì người ta bỏ trống 1 hàng để sau này bổ sung. Về cụ bà, có thể cụ ông có trên một bà. Thường xảy ra hai trường hợp sau: + Một cụ ông có vợ cả, vợ lẽ. Vợ cả gọi là chính thất (政室), các bà vợ lẽ gọi là á thất (亞室) hoặc trắc thất (側室)… + Một cụ ông có 2 đời vợ, đời vợ trước mất, lấy bà sau làm vợ kế. Người vợ trước của cụ, người ta có thể viết là tỉ (妣) hoặc chính tỉ (政妣). Người vợ sau, người ta thường viết là kế thất (繼室)… Trong trường hợp gia đình ông H có người anh trai, em trai, em gái mất khi còn nhỏ hoặc khi chưa có con v.v.. người ta cũng ghi vào đây để nhớ ngày giỗ. Nam giới, nếu là anh thì ghi thêm chữ đường bá và được viết ở hàng trước ông H, nếu là em, ghi thêm chữ đường thúc và được viết ở hàng sau ông H. Nữ giới, chữ tỉ thay bằng chữ cô và được viết ở hàng sau ông H. Xin tóm lại cách gọi các đời như sau:
2. Hình thứcCó nhiều cách ghi trên bia mộ. Ở dạng đầy đủ nhất, trong bia có các nội dung sau: – Hầu hết bia có hình chữ nhật đứng. Bia được chia thành: trán bia, diềm bia, lòng văn và chân bia – Hoa văn trên bia được khắc nổi, thường thấy như: nhật-nguyệt,mây mác, hoa sen, rồng cách điệu dải hồi văn chữ T,.. 3. Chương pháp bia mộChương pháp trên bia thường theo một số quy tắc, phần nội dung được khắc chìm chia làm hai: chính văn và lạc khoản. Được viết ở giữa lòng bia có kích thước chữ lớn hơn so với phần lạc khoản và chỉ viết trên một dòng. Nếu bia được viết nhiều chữ, thì chiều cao và khoảng cách giữa các chữ được thu hẹp lại.Nội dung gồm: chức, tước, thuỵ, hiệu, tính… của người quá cố, và kết thúc bằng chữ “chi mộ”(之/亗墓). 2. Phần lạc khoản Không phải bia mộ nào cũng phải có, lạc khoản được viết hai bên phần chính văn, bao giờ bên phải cũng cao hơn so với bên trái. – Phần bên phải thường ghi niên hiệu, tuế thứ, nguyệt, nhật; – Phần bên trái ghi người tạo lập bia. * Phần phụ
– Kích thước bia theo Lỗ Ban 39(âm phần) “越 故” 顯 考 [廣 南 將 臣 吏 司 該 合] 陳 貴 公 之 墓 VD: nội dung mộ bà họ Trần 28 chữ: “越 故” 顯 妣 [阮 侯 正 室] 陳 氏 夫 人 之 墓
* 顯 Hiển + [祖 Tổ] 考 khảo + [chức tước] + Họ + [phần đệm]+ chi mộ[之/亗墓] * 顯 Hiển + [祖 Tổ] 妣 tỷ + [chức tước theo chồng] + Họ + [phần đệm]+ chi mộ[之/亗墓] * 嵗/歲 tuế 在/次 tại/thứ + [can chi]年 +[tháng] + 吉日 VD: Chính văn có hoặc không tên húy(giấu), tự, thụy, hiệu,.. * 顯 曾祖考 阮 貴公 諱AB 字CD 諡EF 號GH [府君] 之墓. VD: Lạc khoản * 歲次壬戌年季冬吉日 (Tuế thứ, Nhâm Tuất niên, quý đông, cát nhật)
* Cụm từ chỉ tôn xưng (bậc niên trưởng có gia thất): * Chỉ thứ cấp họ hàng + tôn xưng 4. Tên Húy – Tự – Hiệu – Thụy 4.a – Tên húy: Tên húy là tên cha mẹ đặt cho từ lúc còn nhỏ, ta còn gọi là tên tục. Ngày nay là tên khai sinh, tên thường gọi. 諱 Húy = phụ mẫu đặt dùng để viết 4.c – Tên hiệu: * Cách đặt tên Hiệu
4.d – Tên thụy: Hiệu ở đây là thụy hiệu, hiệu bụt mà dân gian ta thường gọi là tên hèm, tên cúng cơm. Sau khi đặt tên thụy, khi đến ngày giỗ, người ta thường chỉ xướng tên thụy để mời về thụ hưởng đồ lễ con cháu cúng tế. Nhìn chung, trong dân dã thường chỉ có tên húy (tên tục, tên thường gọi). Còn tên tự, hiệu, thụy là tên mà các nhà quyền quý, quan lại, trí thức mới đặt. Và trong số này, không phải ai cũng có đầy đủ tên tự, hiệu, thụy. * Quy cách đặt Thụy dân gian (Nam-tự/Nữ-hiệu) 享壽 hưởng thọ >60 * Thứ cấp trong họ tộc * 族(tộc) > 支(chi) > 派(phái) = 梗(ngành/cành/nhánh) = 分/小支(phân/tiểu chi) Bài vị, còn gọi là linh vị, thần chủ… là một bản ghi tên người được thờ cúng, thường đặt sau bát hương hoặc đặt trong ngai thờ. Hãy xem các hình 5, 6, 7 dưới đây: Nhìn chung, một bài vị đầy đủ ghi gần giống như bia mộ, chỉ khác là chữ mộ được thay bằng chữ vị, hay linh vị, thần vị, thần chủ… * Hai chữ hàng ngang trên cùng là Phụng vị: Tương đương với nghĩa phụng thờ. – Nội dung tổng chữ chia 4 ‘nam linh’ dư 3, ‘nữ thính’ dư 0 * Hàng
giữa (Nội dung câu chữ còn tùy theo hoàn cảnh, đại ý đều giống như trên có thể tham khảo.) ——————————————- Bài viết có dùng tư liệu của nhà nghiên cứu Trịnh Duy Tuân và website trinhtoc.com Post Views: 2.684 |