Sáng kiến kinh nghiệm kỹ năng sống cho trẻ 3 -- 4 tuổi

skkn một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 3 – 4 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.02 KB, 22 trang )

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO TRẺ
3-4 TUỔI.

Quảng Bình, ngày 20 tháng 5 năm 2017


CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-------------------------------------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO TRẺ
3-4 TUỔI

Họ và tên: Hoàng Thị Tuyết
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường mầm non Phú Thủy

Quảng Bình, tháng 5 năm 2017


I. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Việc bảo vệ và chăm sóc giáo dục trẻ em là trách nhiệm của xã hội, của nhà trường
và của mỗi gia đình. Đối với việc giáo dục và phát triển kỹ năng sống cho trẻ ngay từ
lứa tuổi mầm non thông qua các hoạt động học cũng như hoạt động chơi, giao lưu của
trẻ hàng ngày ở trường, trong gia đình giữ vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển


về mọi mặt cho trẻ như: Thẩm mỹ, đạo đức, trí tuệ, thể lực và lao động. Thông qua các
hoạt động hàng ngày như hoạt động học tập mang tính nghệ thuật, giúp trẻ hoàn thiện
hơn nhân cách cũng như kỹ năng sống của mình ngay từ lứa tuổi mầm non. Trong xã
hội hiện nay, giáo dục kỹ năng sống đã trở thành một nhu cầu thiết yếu. Bởi sự bùng nổ
của thông tin, với những suy thoái về đạo đức, với những đua đòi của thế hệ trẻ, cùng
với những mặt trái của công nghệ thông tin, mặt trái của xã hội, với muôn ngàn cạm bẫy
… giới trẻ hiện nay tiếp cận rất nhiều loại tác động, tốt có, xấu có, thường xuyên chịu
tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn bị đặt vào hoàn cảnh phải
lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với những khó khăn, thách thức, những áp lực
tiêu cực từ gia đình và xã hội. Việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non ngày càng
trở nên thiết yếu nhằm góp phần đào tạo “ Con người mới với đầy đủ các mặt: Đức, trí,
thể, mỹ. Như Bác Hồ đã từng nói : “ Vì lợi ích 10 năm trồng cây- Vì lợi ích trăm năm
trồng người”. Sở dĩ Bác nói như vậy là để khẳng định một lần nữa với chúng ta rằng
việc giáo dục trẻ để trẻ trở thành những công dân tốt cho xã hội cho đất nước là một
nhiệm vụ hàng đầu. Giáo dục kỹ năng sống trẻ lứa tuổi mầm non cũng vô cùng quan
trọng, bởi vì lứa tuổi này đã hình thành những hành vi cá nhân, tính cách, nhân cách. Trẻ
có kiến thức về kỹ năng sống thì trẻ sẽ biết mình phải giao tiếp với ông bà, bố mẹ như
thế nào, biết cách bảo vệ mình trước người lạ ra sao, biết cách phối hợp với các bạn chơi
như thế nào cho đúng. Ngay ở lứa tuổi mầm non trẻ đã bắt đầu nhận thức được thế nào
là đúng, thế nào là sai, điều gì cần làm và điều gì không được làm…Giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ là giúp trẻ biết cách chăm sóc và bảo vệ bản thân mình, tạo sự tự tin cho trẻ
giúp trẻ thích nghi được với môi trường xung quanh, không những thế còn giúp cho trẻ
biết cách giao tiếp và ứng xử trong cuộc sống hàng ngày, trẻ biết cách phối hợp với các
bạn chơi trong nhóm.


Để giúp trẻ có kỹ năng sống không có nghĩa là phải dạy trẻ những gì cao siêu vượt
quá tầm hiểu biết của trẻ, mà chúng ta giúp trẻ trải nghiệm những hoạt động hàng ngày
của một xã hội thu nhỏ như: Làm việc, sinh hoạt, vận động, giao tiếp trong cuộc sống,
xoay quanh bản thân, gia đình, và môi trường xã hội, những người lạ không quen biết.


Để giúp trẻ sống hài hòa, thích nghi và thoải mái trong đời sống xã hội, biết cách đối
phó với những tình huống bất thường phát sinh hay không bị mất bình tĩnh trước những
nguy cơ đột ngột,.. trẻ cần được học và rèn luyện ngay từ nhỏ, từ những bản năng tự
nhiên như việc học ăn, học nói, học đi, đứng, ngủ nghỉ,.. đến việc học để có kiến thức và
nhận thức về bản chất của cuộc sống, tôn trọng môi trường sống, môi trường thiên nhiên
xung quanh ta, và giao tiếp, ứng xử trung thực, khôn ngoan, lịch sự với mọi người.
Giáo dục kỹ năng sống trên thực tế lớp của tôi trẻ chưa được mạnh dạn tự tin, khả
năng tự phục vụ kém, trong khi tham gia các hoạt động trẻ chưa đoàn kết, hợp tác trong
khi học và chơi. Vậy làm thế nào để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 3- 4 tuổi có hiệu quả
và giúp trẻ phát triển một cách toàn diện nhất về mọi mặt, đó là câu hỏi luôn đặt ra cho
tôi. Từ những trăn trở suy nghĩ trên tôi đã chọn đề tài:” Một số biện pháp giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ 3 – 4 tuổi” để nghiên cứu.
* Điểm mới của đề tài.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của “Giáo dục kỹ năng sống” đối với trẻ, tôi thấy
việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là một việc làm vô cùng quan trọng và có ý nghĩa.
Nhưng làm thế nào để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ một cách có hiệu quả? Điều này
quả không dễ dàng đối với tất cả các giáo viên mầm non.
Với đề tài này tôi biết đã được nhiều đồng nghiệp nghiên cứu, nhưng với tôi đề tài
này nó có những điểm mới: Tôi dành sự quan tâm và hình thành ở trẻ những kỹ năng
sống như: Giáo dục kỹ năng sống sẽ bắt đầu từ “động tác”, những hành vi lễ giáo của
trẻ. Ví như với bản thân, trẻ biết tên mình, vị trí của mình ở trường, ở nhà, biết cách đi,
đứng ngồi lịch sự, yêu thương quí mến những người thân. Rồi biết thưa gửi, vâng dạ,
không nói trống không, không nói leo, biết xưng hô thân mật. Giúp trẻ có kinh nghiệm
trong cuộc sống, biết được những điều nên làm và không nên làm, giúp trẻ tự tin, chủ
động và biết cách xử lý các tình huống trong cuộc sống, khơi gợi khả năng tư duy sáng
tạo của trẻ.


1.2. Phạm vi áp dụng đề tài:
Việc rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ thì bất kì nơi đâu, bất kì lúc nào và ở lĩnh vực


nào chúng ta cũng có thể áp dụng được nhưng bản thân tôi là một giáo viên đang dạy lớp
3-4 tuổi nên tôi muốn tập trung khai thác thế mạnh của trẻ trong phạm vi trường mầm
non. Vì thế phạm vi đề tài của tôi áp dụng cho trẻ 3-4 tuổi ở trường mầm non.
II. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Thực trạng trước khi nghiên cứu các biện pháp.
Trong quá trình rèn kỹ năng sống cho trẻ tôi đã gặp những thuận lợi và khó khăn
sau:
Thuận lợi :
Bản thân tôi được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của ban giám hiệu nhà trường về bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng sư phạm và cung cấp đầy đủ các trang thiết bị,
đồ dùng đồ chơi, nhất là hoạt động “Xây dựng môi trường xanh, sạch, đẹp, an toàn và
hiệu quả”, đây chính là hoạt động để giáo viên rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các
tình huống trong cuộc sống cho trẻ, thói quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm;
rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kỹ năng phòng, chống tai nạn giao thông,
đuối nước và các tai nạn thương tích khác: rèn luyện kỹ năng ứng xử văn hóa, chung
sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội.
Trường học nơi tôi công tác là ngôi trường được xây khang trang sạch sẽ nên
thuận lợi trong việc thực hiện nội dung xây dựng môi trường giáo dục sạch đẹp, an toàn
cho trẻ.
Khó khăn:
Về phía các bậc cha mẹ trẻ luôn nóng vội trong việc dạy con; do đó, khi trẻ về nhà
mà chưa biết đọc, viết chữ, hoặc chưa biết làm toán thì lo lắng một cách thái quá! Đồng
thời lại chiều chuộng, cung phụng con cái khiến trẻ không có kỹ năng tự phục vụ, chỉ
chú ý đến khâu dạy, không chú ý đến con mình ăn, uống như thế nào, trẻ có biết sử dụng
những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống hay không? Và vì sao chúng ta cần những đồ
dùng, vật dụng đó? Những đồ dùng đó để làm gì?
Đối với giáo viên.


Giáo viên chưa hiểu nhiều về nội dung phải dạy trẻ lứa tuổi mầm non những kỹ


năng sống cơ bản nào, chưa biết vận dụng từ những kế hoạch định hướng chung để rèn
luyện kỹ năng sống cho trẻ mầm non.
Đa số giáo viên lớn tuổi có nhiều kinh nghiệm nhưng việc đổi mới phương pháp
giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức
vươn lên, rèn luyện khả năng tự học của học sinh còn gặp nhiều khó khăn; giáo viên trẻ
tuổi ít hơn, năng động, sáng tạo nhưng lại khó trong công tác bồi dưỡng do nhận thức về
nghề chưa sâu sắc.
Từ những thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực hiện, tôi đã suy nghĩ, nghiên
cứu tài liệu để tạo điều kiện thuận lợi giúp cha mẹ dạy trẻ mầm non các kỹ năng sống
qua đề tài: “Kinh nghiệm dạy trẻ mầm non kỹ năng sống ”
* Kết quả khảo sát thực tế : Khi chưa thực hiện đề tài kết quả như sau:
TT Khả năng
1
2
3
4
5
6
7
8

+ Mạnh dạn tự tinh
+Kỹ năng hợp tác
+Phát âm rõ lời
+Kỹ năng tự lập, tự phục vụ
+Lễ phép
+Kỹ năng vệ sinh
+Kỹ năng thích khám phá học hỏi
+Kỹ năng tự kiểm soát bản thân


Số

trẻ

KS
13/25
7/25
14/25
10/25
12/25
14/25
13/25
12/25

Đạt
52%
28%
56%
40%
48%
56%
52%
48%

- Nhìn vào bảng khảo sát trên tôi thấy những biện pháp thông thường, chưa có
biện pháp mới tác động thì chất lượng đạt được trên trẻ về các mức độ trung bình và yếu
còn ở mức rất cao, số trẻ kỹ năng tự phục vụ và hợp tác còn thấp. Vì vậy tôi đã suy nghĩ
trăn trở làm thế nào để có biện pháp hữu hiệu nhất trong việc thực hiện nâng cao hiệu
quả cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi có kỹ năng sống đạt hiệu quả cao.


2.2. Các giải pháp
2.2.1: Lập kế hoạch cho trẻ luyện tập thường xuyên để phát triển các kỹ năng
sống.


Tổ chức các hoạt động cho trẻ luyện tập thường xuyên đóng vai trò chủ đạo trong
việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Ở lứa tuổi mẫu giáo 3-4 tuổi, khả năng tập trung chú
ý và ghi nhớ có chủ định rất kém. Trẻ nhanh nhớ nhưng cũng nhanh quên. Nếu các kỹ
năng chúng ta dạy trẻ không được cũng cố bằng cách luyện tập thường xuyên thì chúng
sẽ dần mất đi. Ngược lại nếu ta có kế hoạch cho trẻ luyện tập thường xuyên thì các kỹ
năng đó sẽ thành kỹ xảo, phát triển bền vững và không bị lãng quên. Việc tổ chức cho
trẻ luyện tập phải có kế hoạch cụ thể, được tiến hành thường xuyên và không ngừng
sáng tạo, có như vậy mới gây được hứng thú cho trẻ.
Ví dụ : Hàng tuần vào sáng thứ 2, tôi thường tổ chức hoạt động trò chuyện cùng
trẻ khoảng 10 phút với tên mục là “Chuyện của bé” nhằm phát triển kỹ năng giao tiếp
cho trẻ. Qua hoạt động này trẻ biết tự giới thiệu mình, biết lắng nghe, biết dùng ngôn
ngữ của mình để kể về những chuyện trong 2 ngày nghỉ ở nhà của bé hay trao đổi cùng
cô về chủ đề đang học. Cuối tuần cho trẻ nhận xét câu chuyện nào hay nhất sẽ đựơc
nhận phần thưởng của cô.( Phần thưởng có thể là một bông hoa , một bức tranh vẽ một
con vật hay một hạt giống cây nảy mầm….Các phần thưởng được thay đổi theo từng chủ
đề). Kết quả, trẻ lớp tôi rất hứng thú khi tham gia buổi trò chuyện đầu tuần. Trẻ đã có
thói quen trước khi nói biết thưa cô, chào bạn và đặc biệt rất mạnh dạn tự tin khi kể
“chuyện của mình” cho bạn nghe.
Trong giờ hoạt động chiều của mỗi ngày, sau khi cho trẻ ôn bài cũ hoặc làm quen
với bài mới, tôi luôn dành thời gian khoảng 10 phút để tổ chức cho trẻ luyện tập thực
hành các kỹ năng dưới dạng trò chơi. Cụ thể:
Chiều thứ 2, tôi thường tổ chức cho trẻ thực hành các kỹ năng chăm sóc bản thân
như rửa tay, lấy nước uống, cho đồ vào cặp….Mỗi hoạt động tôi chọn một trò chơi khác
nhau.
Ví dụ: Khi dạy trẻ cách mặc áo, tôi cho trẻ chơi trò chơi “Ai nhanh hơn, khéo


hơn”, cách chơi như sau: Cho 2 trẻ lên thi mặc áo, đầu tiên tôi gợi mở, giới thiệu với trẻ
các thao tác mặc áo sau đó tổ chức cho trẻ chơi. Cả lớp đếm ngược cùng cô từ 10 đến 1,
khi nghe hết giờ phải dừng tay, cô và các bé kiểm tra kết quả và tặng quà. Việc xác định
nội dung cho trẻ thực hành, tôi dựa trên nguyên tắc cho trẻ làm quen từ dễ đến khó, từ
đơn giản đến phức tạp. Chẳng hạn, cũng dạy trẻ cách mặc áo nhưng tuần đầu tôi dạy trẻ


cách mặc áo có khuy bấm, tuần tiếp theo tôi dạy trẻ cách mặc áo có khuy cài và những
tuần sau là áo có khoá kéo. Lúc đầu trẻ thực hiện rất vụng về lúng túng nhưng do luyện
tập thường xuyên và có kế hoạch nên các thao tác của trẻ dần chính xác hơn. với cách tổ
chức có hệ thống và linh hoạt như vậy trẻ lớp tôi đã có kỹ năng chăm sóc bản thân tương
đối tốt.
Chiều thứ 4, tôi tổ chức cho trẻ xem băng đĩa hoặc tranh ảnh có kèm những câu
chuyện về các hành vi ứng xử đúng sai giữa con người với con người, giữa con người
với môi trường xung quanh trong chủ đề. Qua đó giáo dục trẻ kỹ năng ứng xử phù hợp
với xung quanh.
Ví dụ: Dạy trẻ biết xếp ghế đúng nơi quy định như xếp nhẹ nhàng, không gây ồn,
khi xếp ghế ngồi học phải xếp thẳng hàng theo đúng tổ của mình, khi ngồi ăn ghế phải
xếp sát bàn, khi ra về phải xếp ghế vào góc lớp. Hoặc khi xếp dép phải xếp kẹp đôi, tổ
chim non xếp ngăn trên của giá dép, tổ hoa hồng xếp ngăn giữa, tổ thỏ con xếp ngăn
dưới… Nhờ được tham gia và nhắc nhở thường xuyên nên ý thức của trẻ trong việc chấp
hành các quy tắc cô đưa ra rất tốt.
Chiều thứ 6, tôi tổ chức cho trẻ sắp xếp lại đồ dùng đồ chơi ở các góc nhằm phát
triền kỹ năng hợp tác và rèn thói quen sống gọn gàng ngăn nắp. Những tuần đầu, tôi cho
trẻ quan sát cô và nghe cô giải thích vì sao phải làm như vậy? Cách sắp xếp như thế nào
cho đẹp? Những tuần tiếp theo tôi chia tổ, yêu cầu mỗi tổ tự xếp mỗi góc chơi, thi xem
đội nào xếp đúng, xếp đẹp và nhanh nhất. Rõ ràng khi tham gia hoạt động này, các kỹ
năng hợp tác của trẻ được phát triển. Trẻ biết giúp đỡ nhau và nhắc nhở nhau cùng hoàn
thành nhiệm vụ một cách nhanh chóng. Từ việc tổ chức thường xuyên như vậy, các mối
quan hệ cũng như kỹ năng làm việc nhóm của trẻ được củng cố, bên cạnh đó đồ dùng đồ


chơi của lớp tôi luôn được xếp gọn gàng, ngăn nắp và rất khoa học.Với biện pháp này,
các kỹ năng cần có luôn được củng cố và hoàn thiện một cách chính xác.
2.2.2: Xác định nhiệm vụ cơ bản trong việc dạy trẻ kỹ năng sống
Giáo viên có thể làm được gì để dạy kỹ năng sống cho trẻ?
- Giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự
chuyên cần, tích cực của trẻ, giáo viên cần phải biết khai thác phát huy năng khiếu, tiềm


năng sáng tạo ở mỗi trẻ. Vì mỗi đứa trẻ là một nhân vật đặc biệt, phải giáo dục trẻ như
thế nào để trẻ cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống.
- Giáo viên cần thường xuyên tổ chức các họat động giáo dục chăm sóc giáo dục
trẻ một cách thích hợp tuân theo một số quan điểm: Giúp trẻ phát triển đồng đều các lĩnh
vực: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm- xã hội và thẩm mỹ. Phát huy tính tích cực
của trẻ, giúp trẻ hứng thú, chủ động khám phá tim tòi, biết vận dụng vốn kiến thức, kỹ
năng vào việc giải quyết các tinh huống khác nhau.
- Giáo viên cần giúp trẻ có được những mối liên kết mật thiết với những bạn khác
trong lớp, trẻ biết chia sẻ chăm sóc, trẻ cần phải học về cách hành xử, biết lắng nghe
trình bày và diễn đạt được ý của mình khi vào trong các nhóm trẻ khác nhau, giúp trẻ
luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới. Điều này liên quan tới việc đứa trẻ
có cảm thấy thoải mái, tự tin hay không đối với mọi người xung quanh, cũng như việc
mọi người xung quanh chấp nhận đứa trẻ đó như thế nào? Cần chuẩn bị cho trẻ sự tự tin,
thoải mái trong mọi trường hợp nhất là trong việc ăn uống để chúng ta không phải xấu
hổ vì những hành vi không đẹp của trẻ.
- Thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình của trẻ, trao đổi
với phụ huynh những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục trẻ tại nhà, bàn bạc
cách giải quyết những khó khăn gặp phải.
2.2.3: Cụ thể hóa nội dung của những kỹ năng cơ bản mà giáo viên cần dạy
trẻ:
+ Kỹ năng sống tự tin : Một trong những kỹ năng đầu tiên cần chú tâm là phát
triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về


cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kỹ năng sống này giúp trẻ
luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi.
+ Kỹ năng sống hợp tác: Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát giúp trẻ học cách
cùng làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với trẻ lứa tuổi này. Khả
năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn.
+ Kỹ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một trong những
kỹ năng quan trọng nhất cần có ở trẻ vào giai đoạn này là sự khát khao được học, sử


dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khêu gợi tính tò mò tự nhiên của trẻ. Nhiều
nghiên cứu cho thấy rằng, các câu chuyện hoặc các hoạt động và tư liệu mang tính chất
khác lạ thường khêu gợi trí não nhiều hơn là những thứ có thể đoán trước được.
+ Kỹ năng giao tiếp: cần dạy trẻ biết thể hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng của
mình cho người khác hiểu, trẻ cần cảm nhận được vị trí, kiến thức của mình trong thế
giới xung quanh nó.
Đây là một kỹ năng cơ bản và khá quan trọng đối với trẻ. Nó có vị trí chính yếu
khi so với tất cả các kỹ năng khác như đọc, viết, làm toán và nghiên cứu khoa học. Nếu
trẻ cảm thấy thoải mái khi nói về một ý tưởng hay chính kiến nào đó, trẻ sẽ trở nên dễ
dàng học và sẽ sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để
giúp trẻ sẳn sàng học mọi thứ.
Ví dụ: Giờ đón trẻ tôi trò chuyện cùng trẻ về cách giao tiếp để tự bảo vệ mình:
Nếu lạc đường con sẽ tìm đến ai để hỏi? con hỏi như thế nào?
Nếu bị ai bắt nạt con kêu cứu như thế nào?
Hay có khách đến lớp các con phải làm gì?...
Ngoài ra, ở trường mầm non giáo viên cần dạy trẻ nghi thức văn hóa trong ăn
uống qua đó dạy trẻ kỹ năng lao động tự phục vụ, rèn tính tự lập như: Biết tự rửa tay
sạch sẽ trước khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn ăn, biết cách sử dụng những đồ dùng, vật dụng
trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ không
gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, cảm ơn sau khi ăn,
biết tự dọn, cất đúng chỗ bát, chén, thìa … hoặc biết giúp người lớn dọn dẹp, ngồi ngay


ngắn, ăn hết suất. không làm ảnh hưởng đến người xung quanh.
2.2.4 : Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mọi lúc mọi nơi. Phát triển các kỹ năng
sống qua việc tổ chức các hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh trong nhà trường.
Từ việc phối hợp với phụ huynh, tôi có thêm thông tin về các kỹ năng sống của
trẻ ở nhà . Từ đó tôi có kế hoạch cụ thể và lựa chọn phương pháp giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ phù hợp bằng cách giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mọi lúc mọi nơi.
Để việc làm có hiệu quả, trước tiên tôi thực hiện nghiêm túc chế độ giờ giấc trong
sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Đây là một trong những nhân tố giáo dục có tác dụng thúc
đẩy mạnh mẽ phẩm chất cá nhân, khả năng tuân thủ yêu cầu của người lớn và khả năng


định hướng về thời gian cho trẻ. Tôi đã căn cứ vào nội dung cụ thể của từng hoạt động
để lựa chọn nội dung lồng ghép cho phù hợp.
Thông qua giờ đón trẻ, tôi lồng ghép giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ ( Biết lễ
phép chào cô, chào bố mẹ, hỏi han bạn….Hoặc tôi lồng ghép kỹ năng tự phục vụ bản
thân và chấp hành quy định của lớp.
Ví dụ: Tôi dạy trẻ biết cất cặp vào giá, biết xếp dép lên giá, đi vệ sinh đúng nơi
quy định…..)
Thông qua hoạt động có chủ định, đây là một trong những hoạt động để tôi tích
hợp có hiệu quả nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Tôi căn cứ vào nội dung của
từng tiết học để tích hợp một cách hài hoà, không ôm đồm.
Ví dụ: Qua việc trò chuyện quan sát Cầu trượt. Trẻ nhận biết được một số nguyên
nhân gây ngã, gây tai nạn và biết cách phòng tránh nguy cơ gây ngã. Các kỹ năng tôi
dạy trẻ đó là:
- Kỹ năng giao tiếp: Trẻ biết lắng nghe cô, bạn, nêu ý kiến, chia sẻ thông tin.
- Kỹ năng xử lý tình huống: Khi ngồi trên cầu trượt bé cần làm gì?( Vịn hai tay vào 2
thành của cầu trượt, rồi đẩy người cho trượt xuống. Nếu bạn nào trượt nhanh bị ngã thì
thì bạn chơi cùng nhanh chóng đở bạn dậy hoặc chạy đến gọi cô …)
- Kỹ năng ra quyết định: Làm gì hay không làm gì để phòng tránh ngã? ( Không trượt
quá nhanh, không xô đẩy bạn khi ngồi trên Cầu trượt, vịn chắc thanh cầu trượt…)


Ví dụ : Qua tiết học KPKH: Trò chuyện một số bộ phận trên cơ thể, tôi dạy trẻ kỹ
năng sau: Kỹ năng chăm sóc bản thân: Trẻ có một số kỹ năng và có ý thức giữ gìn, bảo
vệ các bộ phận trên cơ thể. Kỹ năng giao tiếp tự tin: Khi trả lời phải đứng thẳng, mắt
nhìn thẳng vào cô, nói to, rõ ràng….Kỹ năng tuân thủ quy tắc giờ học như muốn nói
phải giơ tay, chờ đến lượt cô mời mới được nói, không nói leo, tập chung chú ý nghe
cô…Chính vì thế trẻ lớp tôi học rất ngoan, trong giờ học biết chú ý lắng nghe, tuân thủ
theo sự hướng dẫn của cô và đặc biệt rất tự tin khi trả lời câu hỏi cô đưa ra.
-Thông qua hoạt động ngoài trời tôi đã lồng ghép dạy trẻ nhiều kỹ năng khác nhau.
Ví dụ: Thông qua giờ hoạt động góc, chúng ta biết rằng: “Trẻ học bằng chơi, chơi
mà học”. Vì thế qua việc tham ra chơi ở các góc thì các kỹ năng sống đựơc trẻ tiếp thu
một cách dễ dàng nhất. Hoạt động chủ đạo của trẻ mầm non đó là hoạt động vui chơi,


“Học mà chơi, chơi mà học”. Trong quá trình vui chơi trẻ được thể hiện mình. Đồng thời
vui chơi cũng giúp trẻ được ôn luyện, củng cố những kiến thức đã được học của trẻ giúp
trẻ ghi nhớ lâu nhất những gì trẻ tiếp thu được. Khi nội dung chơi lành mạnh hình thành
cho trẻ có thái độ tích cực đối với hiện thực, có tinh thần trách nhiệm với người khác, có
lòng thương người…Thông qua chơi hình thành những hành vi xã hội, hình thành những
phẩm chất đạo đức quý giá và đúng đắn. Xuất phát từ đặc điểm trên của trẻ tôi nhận thấy
trong quá trình hướng dẫn trẻ chơi, thông qua trò chơi người giáo viên tác động lên mọi
mặt của cá nhân trẻ và đặc biệt là hành vi lễ giáo của trẻ. Do vậy không thể cho trẻ chơi
tự do mà cô giáo hướng dẫn trẻ chơi để kịp thời uốn nắn những hành vi chưa tốt của trẻ.
Ví dụ : Qua góc chơi phân vai mẹ con, trẻ học được các kỹ năng như: Kỹ năng
giao tiếp ( giao tiếp giữa mẹ với con, trẻ biết nói nựng con, dặn dò con), kỹ năng chăm
sóc ( biết lấy nước cho con uống, xúc bột cho con ăn), kỹ năng hợp tác ( trẻ học được
cách chơi trong nhóm như biết trò chuyện chia sẻ với bạn bên cạnh…. Sau khi chơi
xong trẻ biết cất đồ chơi đúng nơi quy định.
Không chỉ ở góc phân vai trẻ mới học được các kỹ năng sống mà ở tất cả các góc
chơi khác thì các kỹ năng của trẻ đều có thể được cũng cố và phát huy.
Ví dụ: Ở góc xây dựng, trẻ có kỹ năng hợp tác, làm việc theo nhóm. Trẻ ở lớp tôi


đã biết tự phân vai chơi cho nhau và chơi rất đoàn kết, không tranh giành đồ chơi của
nhau và đã biết cùng nhau tạo nên công trình đẹp.
Qua việc tổ chức bữa ăn cho trẻ, tôi tập cho trẻ làm một số công việc tự phục vụ
qua đó hình thành ở trẻ một số kỹ năng sử dụng đồ dùng ăn, uống đúng cách và hành vi
văn hoá văn minh như:
- Cách dùng ca, cốc, bát, thìa.
- Cách rót nước, chia thức ăn.
- Chuẩn bị bàn ghế cho bữa ăn (gấp khăn lau, tự chia đĩa, chia bát…)
- Trẻ được tập luyện một số thói quen hành vi văn minh trong ăn uống ( Trẻ biết mời cô,
mời bạn, biết vệ sinh cá nhân trước và sau khi ăn, biết giữ vệ sinh chung và hành vi văn
hoá như không nói chuyện khi ăn, ho hoặc ngáp phải quay ra ngoài đồng thời lấy tay che
miệng, biết nhặt cơm rơi bỏ vào đĩa và lau tay…)


Khi tổ chức giấc ngủ cho trẻ, tôi dạy trẻ biết tự mình lấy cất gối đúng nơi quy
định, biết lau chùi chân trước khi lên sạp, đi nhẹ, nói khẽ, không làm ồn khi bạn đang
ngủ.
Ngoài ra tôi còn lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ vào các hoạt động khác
trong ngày như ăn phụ chiều, hoạt động chiều, vệ sinh, trả trẻ....Bằng việc tạo tình
huống có vấn đề để trẻ suy nghĩ và giải quyết qua đó trẻ được cũng cố các kỹ năng của
mình.
Tóm lại, cần giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mọi lúc mọi nơi, đảm bảo tính liên
tục để mỗi kỹ năng, phẩm chất mới được hình thành sẽ trở thành thói quen, thành thuộc
tính vững chắc trong nhân cách trẻ. Tuy nhiên không nên lạm dụng tích hợp quá nhiều
sẽ làm ảnh hưởng đến kết quả của hoạt động chính cũng như sẽ gây tâm lý nặng nề cho
trẻ khi tham ra vào các hoạt động đó. Sau mỗi hoạt động, tôi nhận xét đánh giá các kỹ
năng đạt được trên trẻ bởi đây cũng là một trong những biện pháp giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ rất hiệu quả.
Nội dung phong trào“ Xây dựng môi trường xanh, sạch, đẹp, an toàn và hiệu
quả”, trong đó có nội dung: Nhà trường cần tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao


một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của học sinh. Tổ chức
các trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với lứa
tuổi của học sinh.
- Làm đồ chơi dân gian; sáng tác bài hát, điệu múa thể loại dân ca cho trẻ ở lứa
tuổi mầm non.
- Tăng cường tổ chức các trò chơi dân gian và các hoạt động văn nghệ, vui chơi
giải trí tích cực khác phù hợp với lứa tuổi của trẻ mầm non. Đưa ca dao hò khoan Lệ
Thuỷ vào chương trình giáo dục trẻ.
- Duy trì biện pháp tăng cường cho trẻ chơi các trò chơi dân gian trong giờ hoạt
động ngoài trời, trẻ được xem các câu chuyện cổ tích, hỏi đáp về nội dung các câu
chuyện.
- Tổ chức các hoạt động văn nghệ, vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với lứa
tuổi của trẻ mầm non. Huy động và tạo điều kiện để có sự tham gia hoạt động đa dạng


và phong phú của cha mẹ trẻ em, các tổ chức, lực lượng xã hội, cá nhân trong việc giáo
dục văn hóa, truyền thống, giáo dục lòng yêu nước cho trẻ.
-Tổ chức hoạt động nghệ thuật cho trẻ, tổ chức hoạt động phát triển tư duy để phát
triển kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sống tự tin, phát triển tình cảm, nhận thức ở trẻ.
- Tổ chức văn nghệ gồm nhiều thể loại, đa dạng nội dung, hình thức biểu diễn
nhằm huy động sự tham gia của cha mẹ trẻ em, các tổ chức, lực lượng xã hội, cá nhân
trong việc giáo dục văn hóa, truyền thống, giáo dục lòng yêu nước cho trẻ và qua đó
tuyên truyền về hiệu quả giáo dục mầm non
Đồng thời hàng tuần vào sáng thứ hai tổ chức cho toàn trường tập thể dục buổi sáng qua
những các nền nhạc, qua đó giúp trẻ phát triển kỹ năng vận động và giáo dục trẻ lòng
yêu quê hương, đất nước.
2.2. 5: Tuyên truyền các bậc cha mẹ cách dạy trẻ kỹ năng sống cơ bản.
Trước hết, giáo viên, phụ huynh phải là tấm gương cho trẻ noi theo, luôn gương mẫu,
yêu thương, tôn trọng và đối xử công bằng với trẻ, tạo điều kiện tốt nhất để trẻ được vui
chơi, học tập với môi trường an toàn, thân thiện.


Cô giáo và cha mẹ cần thống nhất phương pháp để giáo dục trẻ như vậy trẻ mới học và
áp dụng được các kỹ năng trong cuộc sống hàng ngày.
Việc dạy trẻ những kỹ năng đó phải là một quá trình. Nhiều phụ huynh cho rằng con
mình còn quá bé để hiểu được những điều đó cũng như nghĩ rằng trẻ mẫu giáo vẫn được
sống trong sự bao bọc, bảo vệ tuyệt đối của bố mẹ. Những trên thực tế, không phải lúc
nào cha mẹ cũng ở bên con khi có tình huống xấu. Cô giáo phối hợp cùng phụ huynh
khéo léo dạy trẻ cách giữ gìn và bảo vệ các cơ quan, bộ phận trên cơ thể, giúp trẻ chủ
động, cảnh giác với tình huống khi có người quan tâm thái quá đến cơ thể của trẻ. Dạy
trẻ một số cách phản kháng và bảo vệ bản thân.
Song song với việc thực hiện biện pháp giáo dục trên, là giáo viên chủ nhiệm lớp, tôi
luôn ý thức được tầm quan trọng của việc phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường. Việc
dạy kỹ năng sống cho trẻ không phải là chuyện một sớm một chiều mà là cả một quá
trình. Các kỹ năng sống phải được giáo dục, rèn luyện đồng nhất thì mới bền vững và
thành kỹ xảo. Nếu chỉ dạy kỹ năng sống cho trẻ ở trường thôi thì chưa đủ. Bên cạnh đó,


môi trường gia đình rất thích hợp để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Trẻ được tiếp thu
các kỹ năng thông qua gia đình một cách tự nhiên, nhẹ nhàng mà lại hiệu quả cao. Mặt
khác, nuôi dạy con luôn là mối quan tâm hàng đầu của các bậc phụ huynh nhất là trong
thời buổi hiện nay, ai cũng muốn con mình đạt thành tích cao trong học tập cũng như
trưởng thành hơn về mặt nhân cách. Tuy nhiên việc làm thế nào để có thể giúp trẻ phát
huy được khả năng tiềm ẩn? Làm thế nào để trẻ có những kỹ năng sống tốt nhất thì
nhiều phụ huynh còn lúng túng trong vấn đề này. Trên thực tế nhiều phụ huynh chưa có
kiến thức về kỹ năng sống, không biết kỹ năng sống bao gồm những kỹ năng nào? Cần
giáo dục trẻ từ đâu, dạy trẻ những gì? Chính vì vậy mà tôi phải tuyên truyền đến các bậc
phụ huynh để họ hiểu tầm quan trọng của kỹ năng sống, những kiến thức cần dạy trẻ,
phương pháp dạy trẻ như thế nào để trẻ tiếp thu một cách thoải mái, tự nhiên. Việc tuyên
truyền đến các bậc phụ huynh được tiến hành trong giờ đón, trả trẻ, thông qua bảng
tuyên truyền, thông qua việc mời phụ huynh tham quan hoặc tham ra trực tiếp vào các
hoạt động của lớp hay thông qua buổi họp phụ huynh. Cụ thể:


Thông qua giờ đón trẻ, tôi đã trao đổi với phụ huynh về tình hình sức khoẻ, vệ sinh cá
nhân, những phản ứng kém linh hoạt cũng như những kỹ năng của trẻ để cùng phụ
huynh giáo dục trẻ, giúp trẻ chủ động trong các hoạt động..
Thông qua bảng tuyên truyền với phụ huynh. Đây là nơi trao đổi thông tin với phụ
huynh rất hiệu quả. Theo từng chủ đề tôi có đánh máy nội dung giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ mà cô đang dạy trẻ ở trên lớp. .
Thông qua các buổi hợp phụ huynh, tôi cũng đã chủ động lồng ghép nội dung giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ đến các bậc phụ huynh.
Cha mẹ cần phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ và hợp lý bằng việc tham gia
vào quá trình giáo dục trong nhà trường. Giáo viên mời cha mẹ tham gia vào các buổi
trao đổi, tọa đàm, tham gia đầy đủ các buổi họp phụ huynh học sinh và dự một số hoạt
động học của trẻ ở lớp.
Tăng cường kể cho trẻ nghe các câu chuyện cổ tích qua đó rèn luyện đạo đức cho
trẻ, giúp trẻ hoàn thiện mình, biết đọc sách, dạy trẻ yêu thương bạn bè, yêu thương con
người. Tạo hứng thú cho trẻ nhỏ qua các truyện bằng tranh tùy theo lứa tuổi, gợi mở tính
tò mò, ham học hỏi, phát triển khả năng thấu hiểu ở trẻ.


Khi còn nhỏ cha mẹ cần dành ra 15 phút / ngày để trò chuyện, đọc sách cho trẻ
nghe các loại sách phù hợp với lứa tuổi. Khi trẻ có thể tự đọc được lúc đó việc đọc sách
trở thành là niềm vui có giá trị và có ý nghĩa hơn giúp trẻ phát triển sự ham hiểu biết,
tìm tòi phát triển nhân cách của trẻ.
Cô giáo, cha mẹ giúp trẻ phát triển sở thích, ý thích của mình và đảm bảo rằng
người lớn có thể cung cấp thêm phương tiện để trẻ thực hiện ý thích đó.
Ví dụ: như trẻ thích vẽ, ngoài việc cho trẻ học năng khiếu vẽ thì cô giáo, cha mẹ
có thể cho trẻ thêm bút màu, giấy vẽ và hãy chỉ cho trẻ cách lưu giữ các bức tranh để tạo
thành một bộ sưu tập tranh vẽ của chính trẻ hoặc triển lãm tranh của trẻ ở góc nhỏ trong
nhà.
Cô giáo, cha mẹ cần dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống, biết cách sử
dụng các đồ dùng ăn uống; hơn nữa trẻ sẽ được dạy cách sử dụng các đồ dung đúng


chức năng một cách chính xác và thuần thục.Việc này được thực hiện trong giờ học, giờ
sinh hoạt hàng ngày của trẻ tại lớp và trong bửa cơm gia đình.
Cụ thể: Trẻ được làm quen với những đồ dùng, vật dụng khác nhau, (bộ đồ bếp,
bộ đồ ăn, bộ đồ uống). Sự sạch sẽ, gọn gàng, một thói quen nề nếp, sự sắp đặt ngăn nắp,
ngay ngắn những bộ đồ dùng, vật dụng, thái độ, ăn uống từ tốn, không vội vã, không khí
cởi mở, thoải mái và đầm ấm, những cuộc trao đổi nhẹ nhàng, dễ chịu… tất cả những
yếu tố trên sẽ giúp trẻ có thói quen tốt để hình thành kỷ năng tự phục vụ và ý nghĩa hơn
là kỹ năng sống tự lập sau này.
2.2. 6: Thực hiện nhiệm vụ dạy trẻ kỹ năng sống.
Tôi thực hiện kế hoạch giáo dục, kế hoạch đánh giá trẻ bằng việc bảng đánh giá
trẻ, quan sát ghi chép hàng ngày từng chi tiết về sự tiến bộ của trẻ, các mối quan hệ với
cô, với bạn, ghi chép những kỹ năng trẻ đạt được trong mỗi ngày làm căn cứ, thước đo
để đánh giá cuối mỗi độ tuổi, cuối giai đoạn phát triển của trẻ theo từng độ tuổi. Cũng từ
biện pháp này, giáo viên sẽ có điều kiện lưu trữ dữ liệu, sản phẩm để đánh giá trẻ, đồng
thời có cơ sở để thay đổi, bổ sung các biện pháp giáo dục từng trẻ vì trẻ con rất khác
nhau và giúp trẻ hình thành các kỹ năng sống.
Nhiều bậc cha mẹ rất e ngại khi tham gia vào quá trình giáo dục trẻ, hơn nữa
phần lớn cha mẹ thường lúng túng khi lựa chọn hình thức thực hiện. Tôi đã trang bị các


bảng thông tin dành cho phụ huynh , các bậc cha mẹ có thể đọc, quan sát theo dõi dễ
dàng giúp nhà trường tuyên truyền đến cha mẹ của trẻ những kết quả giáo dục ở con
mình, tạo điều kiện cho giáo viên trao đổi hai chiều với các bậc cha mẹ những vấn đề có
liên quan đến trẻ, các thông tin của lớp, thông tin sức khỏe, ngược lại các bậc cha mẹ có
thể ghi chép những yêu cầu, đề nghị, thông tin cần trao đổi với giáo viên.
Nhằm tạo môi trường đọc sách cho con trẻ, tôi đã trang bị, đóng các kệ sách thư
viện tại góc học tập, trang trí đẹp với nhiều tên gọi khác nhau theo chủ đề : “Thư viện
trường mầm non”; “tủ sách gia đình”; “dinh dưỡng trẻ thơ”; “những con vật đáng yêu”;
thiết kế phân chia nhiều ngăn để sách, truyện nhiều kích cở, vừa tầm trẻ. Khuyến khích
các bậc cha mẹ tăng cường đọc sách cho trẻ nghe.


Tham gia hội thảo“ Trường học thân thiện, an toàn và hiệu quả” khi nhà trường tổ
chức. Đây cũng là cơ hội giúp tôi đúc rút kinh nghiệm mà tôi đang nghiên cứu, khai thác
để đánh giá kết quả, rút ra bài học kinh nghiệm.
Lập kế hoạch, phổ biến những thông tin hỏi đáp trong việc thực hiện xây dựng
phong trào“ Trường học xanh, sạch, đẹp, an toàn và hiệu quả”; lập phương án triển khai
đến giáo viên, nhân viên về công tác đảm bảo an toàn cho trẻ, xây dựng các tiêu chí
đánh giá và thực hiện cam kết đảm bảo an toàn cho trẻ giữa Hiệu trưởng và giáo viên,
nhân viên nhằm giúp đội ngũ có định hướng thực hiện kế hoạch cụ thể và đạt kết quả.
Trang trí sân trường các khẩu hiệu nhắc nhở giáo viên, người lớn phải gương mẫu
như: “Mỗi cô giáo là tấm gương sáng về đạo đức, tự học, sáng tạo” bằng chính hình ảnh
giáo viên và học sinh của trường, đặc biệt chú ý đưa hình ảnh đẹp của các trẻ giúp trẻ tự
điều chỉnh hành vi, giúp trẻ thể hiện bản thân và luôn biết giữ gìn, là điều kiện để khen
ngợi sự cố gắng của trẻ.
*KẾT QUẢ
Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự đồng thuận
hợp tác của tập thể sư phạm, sự ủng hộ tích cực của các bậc cha mẹ đã giúp tôi đạt được
một số kết quả trong việc dạy trẻ mầm non các kỹ năng sống cơ bản thể hiện ở các kết
quả sau:
- Kết quả trên trẻ:


- 100% trẻ đều được cha mẹ tạo mọi điều kiện khuyến khích khơi dậy tình tò mò,
phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin, 100% trẻ 3-4 tuổi được rèn
luyện khả năng sẳn sàng học tập ở trường phổ thông hiệu quả ngày càng cao.
- 100% trẻ có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kỹ năng tự lập; kỹ
năng nhận thức; kỹ năng vận động thô, vận động tinh thông qua các hoạt động hàng
ngày trong cuộc sống của trẻ;
- 100% trẻ được rèn luyện kỹ năng xã hội; kỹ năng về cảm xúc, giao tiếp; chung
sống hòa bình, và tuyệt đối không xảy ra bạo hành trẻ em ở trường cũng như ở gia đình.
- 100 % trẻ được giáo dục, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, được bảo vệ sức khỏe, được


bảo đảm an toàn, phòng bệnh, được theo dõi cân đo bằng biểu đồ phát triển.
- Trẻ đi học đều hơn, đạt tỷ lệ chuyên cần đạt từ 97% trở lên và ít gặp khó khăn khi
đến lớp, có kỹ năng lao động tự phục vụ, trực nhật, sắp xếp bàn ăn, tự chuẩn bị khăn ăn,
chén, tô, muỗng ….trong các giờ ăn, biết phân công trực nhật sắp xếp bàn ăn, tự xếp gối
trước và sau khi ngủ ...
Qua việc thực hiện các biện pháp mới sáng tạo trong việc dạy trẻ các kỹ năng
sống tôi đã thu được kết quả sau:
* Kết quả khảo sát cuối năm của lớp tôi như sau:
TT
1
2
3
4
5
6
7
8

Khả năng

Số trẻ KS

đầu năm
+ Mạnh dạn tự tinh
13/25
+Kỹ năng hợp tác
7/25
+Phát âm rõ lời
14/25
+Kỹ năng tự lập, tự phục vụ 10/25


+Lễ phép
12/25
+Kỹ năng vệ sinh
14/25
+Kỹ năng thích khám phá
13/25
học hỏi
+Kỹ năng tự kiểm soát bản
12/25
thân

Đạt

Số trẻ KS

Đạt

52%
28%
56%
40%
48%
56%

cuối năm
23/25
21/25
23/25
22/25
23/25


24/25

52%

23/25

92%

48%

22/25

88%

92%
84%
92%
88%
92%
96%

Nhìn vào bảng khảo sát trên tôi thấy số trẻ có các kỹ năng tự phục vụ trong cuộc sống
tăng lên rõ rệt, số trẻ ở các mức độ trung bình và yếu giảm xuống đáng kể. Vì vậy có thể
kết luận rằng với những biện pháp thông thường rập khuôn, máy móc như thực trạng


hiện nay thì chất lượng thu được trên trẻ rất thấp. Nếu chúng ta biết vận dụng sáng tạo
linh hoạt các biện pháp như tôi đã làm ở trên thì hiệu quả của việc dạy trẻ các kỹ năng
sống sẽ được nâng lên rõ rệt.
-Kết quả từ phía các bậc cha mẹ:


- Các bậc cha mẹ đã có thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với cô giáo trong việc
dạy trẻ các kỹ năng sống, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức thông qua bảng
thông tin dành cho cha mẹ, bảng đánh giá trẻ ở lớp, sổ bé ngoan;
- Giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tốt hơn, đa số cha mẹ dịu dàng, ít la mắng trẻ,
thay đổi trong cách rèn kỹ năng cho trẻ, phân việc cho trẻ, không cung phụng trẻ thái
quá, không còn hình ảnh ba bế con, mẹ đi sau xách cặp cho con, tranh thủ đút cho con
ăn, ngược lại xuất hiện khá nhiều hình ảnh trẻ tự đeo ba lô, tự đi lên lầu, tự xúc cơm …..
- Cha mẹ cảm thấy mản nguyện với thành công của trẻ, tin tưởng vào kết quả giáo
dục của nhà trường, chia sẻ những khó khăn của cô giáo, cung cấp vật liệu, phụ giúp
giáo viên trang trí lớp, làm đồ chơi.
- Về phía giáo viên và nhà trường
Cô giáo thường xuyên trò chuyện với trẻ, trả lời những câu hỏi của trẻ đặt ra
không la mắng, giải quyết hợp lý, công bằng với mọi tình huống xảy ra giữa các trẻ
trong lớp.
Trong giảng dạy, chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều hơn,
Mạnh dạn, tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh, biết tự chuẩn bị,
phối hợp chặt chẽ, trao đổi thừơng xuyên với cha mẹ trẻ.
Trong các năm qua, nhà trừơng đã tổ chức nhiều phong trào, hội thi, lễ hội dành
cho trẻ như: Lễ hội trăng rằm, hội thi tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi dân gian…
III. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa của đề tài:
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non là quá trình giáo dục lâu dài , ở mọi lúc
mọi nơi và rất quan trọng vì giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên trong hệ thống giáo
dục quốc dân tạo những tiền đề cho việc hình thành nhân cách con người mới. Việc giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ 3-4 tuổi thông qua mọi hoạt động trong cuộc sống sinh hoạt
hàng ngày ở trường mầm non và ở gia đình trẻ. Vì vậy để giáo dục trẻ 3-4 tuổi kỹ năng


sống ngay từ nhỏ giúp trẻ hiểu biết về môi trường giáo dục và môi trường xã hội, có ý
thức, hành vi tốt và biết sống thân thiện, có trách nhiệm với cộng đồng xã hội.


trẻ em như một tờ giấy trắng, ngây thơ, trong trắng nếu ta viết lên đó những điều tốt thì
trẻ sẽ tốt, nhưng khi ta viết lên đó những điều xấu thì tương lai của các em sẽ không tốt
đẹp. trẻ em góp phần không nhỏ trong việc tiếp nối, lĩnh hội những tri thức mới là nền
tảng của sự phát triển của đất nước sau này. Giáo dục trẻ biết chào hỏi khi gặp người
lớn, biết dạ thưa khi trả lời, biết nhận lỗi và nói lời xin lỗi, cám ơn đúng tình huống.
Giáo dục trẻ biết xếp hàng chờ tới lượt, không tranh giành đồ chơi của bạn, biết chia sẽ,
nhường nhịn và giúp đỡ bạn cùng chơi. Môi trường trong nhà trường phải theo phương
châm lấy trẻ làm trung tâm, tạo cho trẻ biết cách giải quyết vấn đề. Môi trường hoạt
động để giáo dục trẻ ở đó người lớn phải luôn mẫu mực và làm gương cho trẻ noi theo.
Tạo môi trường thân thiện với trẻ, gần gũi thương yêu và luôn giúp đỡ trẻ thấy tự tin ,
thoải mái. Việc dạy cho trẻ biết lễ phép không chỉ có tác dụng uốn nắn khuôn khổ cho
trẻ từ nhỏ mà còn có tác dụng giúp cho trẻ ngoan ngoãn và nghe lời cô giáo và bố mẹ
nhiều hơn.
Với vai trò là người làm công tác giáo dục tôi nhận thức đúng đắn về vai trò và
tầm quan trọng của công tác giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Qua việc áp dụng những
biện pháp mới, tôi thấy trẻ linh động hơn, nhanh nhẹn hơn, Nhân cách ý chí tình cảm
của trẻ được hình thành. Bằng sự chủ động linh hoạt vận dụng các nội dung giáo dục kỹ
năng sống vào các hoạt động khác nhau làm cho trẻ hứng thú, tập trung, giúp trẻ thể hiện
được sự khéo léo, óc tưởng tượng, sự giao lưu giữa bạn bè. Giáo viên sáng tạo hơn trong
việc làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ, biết tìm ra các giải pháp để thực hiện tốt chất lượng
chăm sóc giáo dục trẻ. Bản thân tôi sẽ cố gắng học hỏi hơn nữa để tìm ra những giải
pháp tối ưu nhằm đem lại kết quả tốt nhất cho trẻ.
Cần khẳng định việc đứa trẻ thích nghi nhanh hay chậm, hình thành những kỹ
năng sống diễn ra lâu hay mau phụ thuộc rất nhiều vào mức độ đúng đắn trong việc
chuẩn của người lớn đối với đứa trẻ và góp phần hình thành cho trẻ những hành vi văn
minh để dần dần hoàn thiện nhân cách tốt đẹp của truyền thống con người Việt Nam phù
hợp với mọi chuẩn mực đạo đức xã hội một cách tự nguyện.


3.2. Kiến nghị, đề xuất:


Từ những việc làm cụ thể và kết quả đạt được như vậy để nâng cao chất lượng
dạy kỹ năng sống cho trẻ ở các trường mầm non nói chung và trường mầm non nơi tôi
giảng dạy nói riêng. Tôi xin mạnh dạn đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng
dạy kỹ năng sống cho trẻ. Cụ thể như sau:
*Đối với Ban Giám hiệu:
- Ban Giám hiệu luôn tổ chức các buổi hội thảo về chuyên đề dạy trẻ kỹ năng sống để
giáo viên được trao đổi những vướng mắc trong việc dạy trẻ.
* Đối với giáo viên:
- Trong quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ, giáo viên phải linh hoạt, có
óc sáng tạo. Thường xuyên thay đổi các hình thức và sử dụng các thủ thuật, giúp trẻ
hứng thú và hoạt động một cách tích cực.
- Thường xuyên bổ sung và thay đổi các hình thức trong dạy kỹ năng sống cho trẻ
một cách sáng tạo.
- Biết vận dụng biện pháp lồng ghép tích cực các hình thức tổ chức một cách khoa
học, nhẹ nhàng, thoải mái để khai thác tối đa hoạt động nhận thức về kỷ năng sống cho
trẻ.
- Bản thân mỗi giáo viên không ngừng học tập, trau dồi kiến thức để nâng cao
chuyên môn nghiệp vụ và trình độ nhận thức.
* Đối với phụ huynh:
- Đưa đón con em đi học đúng giờ và chuyên cần để đảm bảo trẻ được tiếp thu
kiến thức một cách có hệ thống, liên tục.
- Phụ huynh cần trao đổi, phối hợp với giáo viên trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng
và giáo dục trẻ để có biện pháp giáo dục mềm dẻo, phù hợp với trẻ ở nhà.
- Phụ huynh cần tạo điều kiện giúp đỡ cho giáo viên trong việc sưu tầm các
nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương để phục vụ cho việc làm đồ dùng đồ chơi phát huy
được khả năng sáng tạo của trẻ.
Trên đây là một số kinh nghiệm dạy trẻ kỷ năng sống mà tôi đã rút ra được trong
quá trình giảng dạy nhằm giúp trẻ phát triển về mọi mặt đạo đức, nhân cách, phẩm chất,
thẩm mỹ, trí tuệ và ngôn ngữ. Đồng thời trong quá trình viết vẫn còn những thiếu sót



nhất định, tôi rất mong được sự góp ý xây dựng của các bạn đồng nghiệp, các cấp lãnh
đạo giúp tôi ngày càng có nhiều sáng kiến kinh nghiệm hay trong giảng dạy bộ môn yêu
thích.
Tôi xin chân thành cảm ơn !



Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo bé 3 4 tuổi trong trường mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.4 MB, 40 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Có thể nói rằng việc bảo vệ và chăm sóc giáo dục trẻ em là trách nhiệm
của nhà nước, của xã hội, của nhà trường và của mỗi gia đình. Đối với việc giáo
dục và phát triển kỹ năng sống cho trẻ ngay từ lứa tuổi mầm non thông quac các
hoạt động học cũng như hoạt động chơi, giao lưu của trẻ hàng ngày ở trường,
trong gia đình giữ vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển trẻ nhỏ về mọi
mặt như: thẩm mỹ, đạo đức, trí tuệ, thể lực và lao động. Thông qua các hoạt
động hàng ngày như hoạt động học tập mang tính nghệ thuật, giúp trẻ hoàn
thiện hơn nhân cách cũng như kỹ năng sống của mình ngay từ lứa tuổi mầm
non
Trong xã hội hiện nay, giáo dục kỹ năng sống đã trở thành một nhu cầu
thiết yếu. Bởi sự bùng nổ của thông tin, với những văn hóa không phù hợp thuần
phong mỹ tục của dân tộc, với những suy thoái về đạo đức, với những đua đòi
của thế hệ trẻ, cùng với những mặt trái của công nghệ thông tin, mặt trái của xã
hội, với muôn ngàn cạm bẫy … giới trẻ hiện nay tiếp cận rất nhiều loại tác động,
tốt có, xấu có, thường xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và
tiêu cực, luôn bị đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu
với những khó khăn, thách thức, những áp lực tiêu cực từ gia đình và xã hội.
Việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non ngày càng trở nên thiết yếu
nhằm góp phần đào tạo " con người mới " với đầy đủ các mặt: " đức, trí, thể, mỹ
". Như Bác Hồ đã từng nói : “ Vì lợi ích 10 năm trồng cây – Vì lợi ích trăm năm
trồng người”. Sở dĩ Bác nói như vậy là để khẳng định một lần nữa với chúng ta
rằng việc giáo dục trẻ để trẻ trở thành những công dân tốt cho xã hội cho đất
nước là một nhiệm vụ hàng đầu. Giáo dục kỹ năng sống trẻ lứa tuổi mầm non
cũng vô cùng quan trọng, bởi vì lứa tuổi này đã hình thành những hành vi cá
nhân, tính cách, nhân cách. Trẻ có kiến thức về kỹ năng sống thì trẻ sẽ biết mình
phải giao tiếp với ông bà, bố mẹ như thế nào, biết cách bảo vệ mình trước người
lạ ra sao, biết cách phối hợp với các bạn chơi như thế nào cho đúng. Ngay ở lứa
tuổi mầm non trẻ đã bắt đầu nhận thức được thế nào là đúng, thế nào là sai, điều
gì cần làm và điều gì không được làm…Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là giúp
1




trẻ biết cách chăm sóc và bảo vệ bản thân mình, tạo sự tự tin cho trẻ giúp trẻ
thích nghi được với môi trường xung quanh, không những thế còn giúp cho trẻ
biết cách giao tiếp và ứng xử trong cuộc sống hàng ngày, trẻ biết cách phối hợp
với các bạn chơi trong nhóm.
Để giúp trẻ có kỹ năng sống không có nghĩa là phải dạy trẻ những gì cao
siêu vượt quá tầm hiểu biết của trẻ, mà chúng ta giúp trẻ trải nghiệm những hoạt
động hàng ngày của một xã hội thu nhỏ như: làm việc, sinh hoạt, vận động, giao
tiếp trong cuộc sống, xoay quanh bản thân, gia đình, và môi trường xã hội,
những người lạ không quen biết. Để giúp trẻ sống hài hòa, thích nghi và thoải
mái trong đời sống xã hội, biết cách đối phó với những tình huống bất thường
phát sinh hay không bị mất bình tĩnh trước những nguy cơ đột ngột,.. trẻ cần
được học và rèn luyện ngay từ nhỏ, từ những bản năng tự nhiên như việc học ăn,
học nói, học đi, đứng, ngủ nghỉ,.. đến việc học để có kiến thức và nhận thức về
bản chất của cuộc sống, tôn trọng môi trường sống, môi trường thiên nhiên xung
quanh ta, và giao tiếp, ứng xử trung thực, khôn ngoan, lịch sự với mọi người.
Giáo dục kỹ năng sống trên thực tế lớp C3 của tôi trẻ chưa được mạnh
dạn tự tin, khả năng tự phục vụ kém, trong khi tham gia các hoạt động trẻ chưa
đoàn kết, hợp tác trong khi học và chơi. Vậy làm thế nào để giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ 3 - 4 tuổi có hiệu quả và giúp trẻ phát triển một cách toàn diện nhất
về mọi mặt, đó là câu hỏi luôn đặt ra cho tôi. Từ những trăn trở suy nghĩ trên tôi
đã chọn đề tài:" Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu

giáo bé 3 - 4 tuổi trong trường mầm non "
* Mục đích nghiên cứu:
Khảo sát thực trạng kỹ năng sống của trẻ mẫu giáo bé 3 – 4 tuổi ở
trường mầm non Duyên Hà.
Xây dựng một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo
bé 3 - 4 tuổi tại trường mầm non Duyên Hà.


* Đối tượng nghiên cứu:
Các biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo bé 3 -4 tuổi.
* Phạm vi áp dụng:
2


Lớp mẫu giáo bé C3 trường Mầm Non Duyên Hà – Thanh Trì – Hà
Nội năm học 2013 – 2014.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
3


I. CƠ SỞ LÝ LUẬN

Giáo dục kỹ năng sống là một phần quan trọng trong chương trình chăm
sóc và giáo dục trẻ mầm non. Hiện nay, việc đưa giaó dục kỹ năng sống vào nhà
trường, nhất là từ bậc học mầm non đã được thực hiện ở hầu hết các nước trên
thế giới và mỗi nước có một phương thức giáo dục khác nhau. Tại Việt Nam thì
việc đưa giáo dục kỹ năng sống vào lứa tuổi mầm non cũng được chú trọng vào
các năm gần đây.
Có thể nói rằng môi trường xã hội có tác động, ảnh hưởng rất lớn tới
việc hình thành kỹ năng sống cho trẻ. Điều đó được biểu hiện qua hành vi phù
hợp và tích cực khi tương tác với người khác, với văn hoá và môi trường
xung quanh. Vì vậy thế giới xung quanh trẻ luôn luôn muôn sắc màu. Trẻ sẽ
nắm bắt và cảm nhận từ từ. Bởi vậy vai trò của xã hội, gia đình, nhà trường
và đặc biệt là cô giáo có vai trò quan trọng trong việc phát triển sức khoẻ theo
nghĩa rộng nhất về mặt thể chất, tinh thần và xã hội. Kỹ năng sống là khả
năng thể hiện, thực thi năng lực tâm lý xã hội này.
Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi nói riêng,


việc dạy trẻ kỹ năng sống là rất cần thiết nhưng dạy trẻ kỹ năng gì? Dạy như
thế nào? Thì người giáo viển phải biết lựa chọn nội dung cho phù hợp với lứa
tuổi và nhận thức của trẻ như:
- Tự nhận thức bản thân là dạy trẻ tự nhận ra những sở trường, năng lực
của bản thân.
- Kỹ năng hợp tác với bạn bè là dạy trẻ tham gia các hoạt động cùng
các bạn, trẻ luôn biết nhường nhịn, cùng hợp tác với các bạn để hoàn thành
nhiệm vụ tốt nhất.
- Kỹ năng sống tự tin dạy trẻ luôn mạnh dạn, tự tin tham gia mọi hoạt
động của trường, của lớp.
- Kỹ năng tự lập là dạy trẻ biết hành động một cách chủ động, năng
động.
- Tính trách nhiệm là dạy trẻ biết hoàn thành công việc được giao.
4


- Kỹ năng quan hệ xã hội là dạy trẻ các mối quan hệ trong xã hội, biết
giao tiếp và hòa hợp với mọi người
- Kỹ năng thích tò mò ham học hỏi, khả năng thấu hiểu là dạy trẻ biết
tò mò, khám phá những điều mới lạ về mọi vật xung quanh. Qua đó, phát
triển cho trẻ toàn diện về Đức, Trí, Thể, Mĩ.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN

Trường mầm non Duyên Hà nằm ven sông Hồng ngoài bãi. Trường được
phân bổ ở 3 khu theo địa bàn dân cư 3 thôn trong xã.
Năm học 2013 – 2014 tôi được nhà trường phân công dạy lớp mẫu giáo
bé – C3. Lớp có 2 cô , 1 cô đạt trình độ trên chuẩn, 1 cô đang theo học đại học.
Lớp có 25 cháu, 12 cháu nam , 13 cháu nữ trong đó có 2 cháu tự kỷ, trong số đó
có nhiều trẻ được bố mẹ nuông chiều từ nhỏ dẫn đến tính ỷ lại và một số trẻ lại
nhút nhát quá không tham gia vào các hoạt động của trường, của lớp.


Với đặc điểm tình hình như vậy khi thực hiện đề tài này tôi thấy có một số
thuận lợi và khó khăn sau:
1. Thuận lợi:
- Luôn được sự hướng dẫn, chỉ đạo sát sao về chuyên môn của phòng giáo
dục huyện, ban giám hiệu nhà trường.
- Được sự quan tâm, tạo điều kiện về cơ sở vật chất của ban giám hiệu nhà
trường.
- Bản thân tôi có trình độ đại học nhiều năm dạy lớp 3 tuổi, có tinh thần trách
nhiệm, luôn quan sát nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lý, thói quen của từng trẻ
trong lớp. Là một giáo viên tâm huyết với nghề, có lòng yêu thương trẻ, tận tình
với công việc. Luôn có ý thức phấn đấu vươn lên, thường xuyên tìm tòi, nghiên
cứu tài liệu tạp chí, thông tin trên mạng có liên quan đến việc chăm sóc giáo dục
trẻ để áp dụng vào việc chăm sóc giáo dục trẻ hằng ngày nhất là việc giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ.
- Giáo viên trong lớp đoàn kết biết cùng nhau đưa ra các biện pháp giáo dục
kỹ năng sống sao cho phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ.
5


- Một số phụ huynh nhiệt tình chia sẻ với giáo viên ở lớp về tình hình của trẻ
ở nhà và luôn quan tâm đến trẻ, thường xuyên dành thời gian trao đổi với cô
giáo để cùng chăm sóc và giáo dục trẻ.
- Học sinh của lớp đều được học qua các khối từ nhà trẻ, mẫu giáo bé, nhỡ
- Trẻ có kiến thức của các lứa tuổi.
- 100% trẻ học bán trú tại trường.
2. Khó khăn:
- Cơ sở vật chất nhà trường còn khó khăn, diện tích lớp chật hẹp.
- Chưa có nhiều tài liệu sách báo về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ để giáo
viên nghiên cứu , tham khảo.
- Đối với giáo viên: chưa biết vận dụng từ những kế hoạch định hướng chung


để rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ mầm non.
- Trẻ vẫn còn nhút nhát, chưa mạnh dạn trong các hoạt động .
- Trẻ được bố mẹ nuông chiều nên chưa có những kỹ năng sống cần thiết phù
hợp theo độ tuổi.
- Xuất phát từ đặc điểm chung của trường, của lớp và tầm quan trọng của
việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trẻ tôi đã
nghiên cứu.
III. BIỆN PHÁP.

1. Xác định những kỹ năng sống cơ bản cần dạy trẻ:
a. Xác định những kỹ năng sống.
Để dạy trẻ, giúp trẻ hoàn thiện tốt hơn kỹ năng sống của mình là một giáo
viên mầm non trước tiên chúng ta phải hiểu được khái niệm thế nào là kỹ năng
sống. Kỹ năng sống là khả năng thích nghi và hành vi tích cực cho phép cá nhân
có khả năng đối phó hiệu quả với nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng
ngày. Đối với trẻ lứa tuổi mầm non thì kỹ năng sống là tất cả những kiến thức,
những hành vi, ngôn ngữ, cách ứng xử mà trẻ đã học hỏi được qua những giờ
học, giờ chơi, qua giao tiếp với mọi người xung quanh mình.Đặc điểm tâm sinh
lý trẻ em dưới sáu tuổi thì có nhiều kỹ năng quan trọng mà trẻ cần phải biết
trước khi tập trung vào học văn hoá. Thực tế kết quả của nhiều nghiên cứu đều
6


cho thấy các kỹ năng quan trọng nhất trẻ phải học vào thời gian đầu của năm
học chính là những kỹ năng sống như: Nhận thức, sự hợp tác, tính tự tin, tự lập,
tinh thần trách nhiệm, quan hệ xã hội. Cụ thể:
- Kỹ năng tự nhận thức: Đây là một trong những kỹ năng quan trọng cần
có ở trẻ vào giai đoạn này. Tự nhận thức giúp trẻ nhận ra năng lực, sở trường
của bản thân để phát huy một cách tối đa đồng thời nhận ra những điểm yếu để
trẻ lường trước những khó khăn, thách thức qua đó trẻ chủ động tìm cách khắc


phục những thiếu sót .
Xem xét và tìm hiểu đặc điểm của các sự vật, hiện tượng: tò mò, khám
phá các sự vật xung quanh như đặt câu hỏi, tại sao? Vì sao?
Nhận biết mối quan hệ đơn giản của các sự vật hiện tượng, giải quyết các
vấn đề đơn giản.
VD: Cháu nhận biết được tên gọi, đặc điểm của bản thân mình, biết sở
thích và những đồ dùng đồ chơi mà mình yêu thích.
- Kỹ năng sống tự tin : Một trong những kỹ năng đầu tiên là phát triển
sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Giáo viên thường xuyên trò chuyện, cùng chơi,
cùng học với trẻ để phát triển sự tự tin ở trẻ, trẻ cần được yêu thương và tôn
trọng. Qua đó, giúp cháu biết mạnh dạn, không sợ nói trước đông người, trẻ cảm
thấy tự tin trong mọi tình huống, dám làm điều mình nghĩ và biết bày tỏ cảm xúc
của mình với người khác mà không e ngại. Biết giới thiệu về bản thân và gia
đình mình trước đám đông, biết mình đang học lớp nào, thích cái gì và điạ chỉ
nhà mình ở đâu. Nhận biết các ưu khuyết điểm của bản thân. Biết cách ứng xử
với mọi người xung quanh. Học cách lắng nghe mọi người và đối đáp.Nhận biết
những hoàn cảnh không an toàn, cách giữ an toàn cho mình nơi công cộng
(trong sân trường, công viên, siêu thị, ngoài đường, khi gặp người lạ,…)
VD: Trẻ tự giới thiệu về bản thân mình trước bạn bè hoặc tự tin múa hát,
biểu diễn văn nghệ.
- Kỹ năng tự lập: Tự lập giúp trẻ trở thành những con người năng động,
có khả năng tự bắt đầu hoạt động học tập và sinh hoạt hàng ngày, biết hành động
một cách chủ động, năng động.
7


- Tính trách nhiệm: giúp trẻ cố gắng làm hết khả năng, luôn hoàn thành
công việc của mình và biết quan tâm, giúp đỡ, chăm sóc người khác
VD: Trẻ biết giúp cô sắp xếp đồ chơi gọn gàng hay thể hiện tốt vai chơi của
mình.


Ngoài ra nghi thức văn hóa trong ăn uống là một nét văn hóa mà trong
thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng ít được quan tâm chú ý tới và ít
người biết được rằng: Văn hóa trong ăn uống là một trong những tiêu chí đánh
giá nhân cánh của con người. Vì thế, trẻ cần được rèn luyện kỹ năng thực hiện
các nghi thức văn hóa ăn uống.
- Kỹ năng sống hợp tác: Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát tôi giúp
trẻ học cách cùng làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với trẻ
lứa tuổi này. Khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc với
các bạn.
VD: Trẻ cùng nhau vẽ một bức tranh hoặc trẻ cùng tham gia chơi ở góc
xây dựng.
- Kỹ năng quan hệ xã hội: Cần dạy trẻ biết hợp tác để làm việc, để chơi
với nhau, sống hòa thuận với các bạn….. Đây là một kỹ năng cơ bản và khá
quan trọng đối với trẻ. Trẻ cần những kỹ năng quan hệ xã hội như làm thế nào
để hòa hợp với mọi người, để giao tiếp, để chọn hành vi đúng đắn.
VD: Qua các hoạt động như lễ hội, các giờ chơi, giờ hoạt động góc trẻ
biết đóng vai người khác, học cách sử xự, trao đổi ý kiến, chia sẻ với người
khác, biết nhường nhịn đồ chơi, hướng dẫn bạn chơi nếu bạn chưa làm được.
- Kỹ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một kỹ
năng quan trọng cần có ở trẻ vào giai đoạn này là trẻ khao khát được học. Giáo
viên cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để gợi tính tò mò, tự nhiên
của trẻ. Nhiều nghiên cứu và các câu chuyện cho thấy rằng các hoạt động và các
tư liệu khác lạ thường gợi suy nghĩ nhiều hơn những thứ có thể đoán trước được
VD: Qua câu hỏi của trẻ thắc mắc nói với cô: Cô ơi tại sao mùa hè lại
mưa nhiều. Có trẻ lại hỏi: Cô ơi sao mùa đông lại lạnh .
b.Khảo sát
8


Sau khi nghiên cứu và xác định đúng kỹ năng sống tôi đã tiến hành khảo


sát để đánh giá kỹ năng sống của trẻ ở lớp, kết quả khảo sát như sau:

Số
trẻ

KN

KN

nhận

sống tự

thức

tin
C


25

TL

9
7

64

tự lập


C

Tính

KN

trách

sống

nhiệm

hợp tác

C

C

KN

KN ham

QHXH

học hỏi

C

C


C

CĐ Đ CĐ Đ CĐ Đ CĐ Đ CĐ Đ CĐ Đ CĐ
1
8
1
1
1
9
1
9
1
9
1
8
1
1

16
T

Kỹ năng

15
2

36

10
6



60

16
4

40

9
6

64

15
3

36

10
6

60

17
3

40

8
6



68

17
3

32

8
6

68

15
3

32

10
6

60

3
40

%
Kết quả: Việc xác định được các kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi đã
giúp tôi luôn chủ động, sáng tạo vận dụng các phương pháp giáo dục phù hợp
với đặc điểm tâm sinh lý trẻ, lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm để dạy trẻ


những kỹ năng sống cơ bản, giúp trẻ nắm được kiến thức độ tuổi có hệ thống.
2.Tạo môi trường thân thiện dạy trẻ về kỹ năng sống:
Sau khi khảo sát xác định được những kĩ năng mà trẻ đang có tôi nhân
thấy những kĩ năng sống của trẻ còn rất hạn chế. Việc rèn kĩ năng sống cho trẻ
không chỉ thông qua các hoạt động mà môi trường thân thiện cũng giúp trẻ tiếp
nhận những kĩ năng sống một cách thân thiện, tự nhiên, thoải mái. Vậy môi
trường thân thiện là gì? Phải làm như thế nào để có được môi trường thân thiện
để giáo dục kĩ năng sống tốt nhất cho trẻ?
Môi trường thân thiện giữa cô giáo và phụ huynh: Thông tin thường
xuyên, kịp thời với cha mẹ học sinh. Phối hợp để tạo sự thống nhất trong chăm
sóc và giáo dục. Tìm hiểu thông tin về trẻ. Tạo mối quan hệ thân thiện giữa giáo
viên và cha mẹ. Tạo sự an tâm cho cha mẹ đó là vai trò dẫn dắt của giáo viên.
9


Thường xuyên tổ chức các hoạt động chung với phụ huynh trong lớp để tăng
thêm sự hiểu biết và sự gần gũi. Thu hút, mở rộng sự tham dự của phụ huynh
vào quá trình giáo dục. Không nhận xét sự tiêu cực của trẻ với cha mẹ. Thông
báo tình hình và cùng đưa ra giải pháp tích cực
Môi trường thân thiện giữa cô giáo và học sinh: Tôi luôn nhẹ nhàng,
gần gũi trẻ. Là người bạn thân thiết của trẻ, quan tâm, luôn lắng nghe và chia sẻ
với trẻ. Tôn trọng sở thích riêng của trẻ. Động viên, khuyến khích trẻ khi trẻ làm
sai.
Môi trường thân thiện giữa trẻ với trẻ: Tạo cho trẻ môi trường giao tiếp
thông qua các giờ học, giờ chơi. Trẻ được giao lưu với nhau. Tạo nhiều tình
huống, tổ chức các trò chơi giúp trẻ gần gũi với nhau.
Trang trí môi trường lớp học: Trường, lớp học an toàn, sạch sẽ, thoáng
mát, ánh sáng, đủ đồ dùng, đồ chơi phù hợp với lứa tuổi …là những điều kiện
thuận lợi giúp trẻ hoạt động. Chính vì vậy môi trường học tập là yếu tố không
thể thiếu trong quá trình hình thành và giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Vì vậy


giải pháp không thể thiếu là tạo môi trường phù hợp để giáo dục. Môi trường
trong nhà trường phải theo phương châm lấy trẻ làm trung tâm, tạo cho trẻ biết
cách giải quyết vấn đề. Môi trường hoạt động để giáo dục trẻ ở đó người lớn
phải luôn mẫu mực và làm gương cho trẻ noi theo. Tạo môi trường thân thiện
với trẻ ,gần gũi thương yêu và luôn giúp đỡ để trẻ thấy tự tin , thoải mái, cụ thể
tôi đã xây dựng như sau:
Đối với góc văn học tôi đã xây dựng và tạo ra các kệ để nhiều sách báo
kết hợp trang trí theo nhiều chủ đề khác nhau: “ Thư viện trường mầm non” “ tủ
sách gia đình” “ dinh dưỡng cho trẻ thơ ” “ mùa hè của bé ”. Tôi thiết kế nhiều
ngăn để sách, truyện nhiều kích cỡ, vừa tầm tay với trẻ. Ngoài ra tôi tiếp tục
thực hiện việc xây dựng thư viện cho bé tại nhóm lớp. Khuyến khích các bậc cha
mẹ tăng cường đọc sách cho trẻ nghe
Thiết kế, bố trí tạo không gian hợp lý ở các góc chơi, xây dựng nội dung
chơi cụ thể ở các góc theo từng chủ đề, đặt tên góc sao cho dễ hiểu nhưng lại
hấp dẫn như “Họa sĩ tí hon”, “Bé tập làm bác sĩ”, “ bé kể chuyện sáng tạo”…
10


Sau mỗi chủ đề tôi thay đổi cách trang trí và hoạt động ở các góc để tạo cảm
giác mới lạ hấp dẫn trẻ
Cùng với các cô giáo trong trường tham gia tổng vệ sinh môi trường, dọn
dẹp trường lớp vào chiều thứ hai và chiều thứ sáu hàng tuần, thường xuyên vệ
sinh lớp học, đồ dùng cá nhân của trẻ theo đúng lịch vệ sinh của nhà trường.
Tôi dành thời gian làm đồ dùng đồ chơi từ các nguyên vật liệu của phụ
huynh ủng hộ và thu gom được để phục vụ cho các hoạt động chăm sóc và giáo
dục trẻ. Ngoài ra tôi thường động viên các cháu tham gia làm đồ dùng đồ chơi
sáng tạo và trang trí góc cùng cô. Qua đó giúp trẻ cảm thấy mình là người có
ích, vui vẻ tự hào khi giúp đỡ được cho người khác, đó cũng chính là một hình
thức truyền tải kỹ năng sống cho trẻ nhẹ nhàng mà lại hiệu quả.


Hình ảnh rối dây góc văn học
Kết quả: Qua việc xây dựng môi trường lớp học tôi thấy trẻ hứng thú
tham gia vào các hoạt động, có sáng tạo trong các hoạt động, cố gắng đạt
được mục đích của mình, đây chính là những kỹ năng cơ bản để sống và làm
việc sau này.
3. Thông qua các hoạt động dạy trẻ kỹ năng sống:
11


Có thể nói rằng thời gian trẻ bên cô giáo rất nhiều cùng sinh hoạt học tập
với cô, vì vậy cô giáo phải tạo cho trẻ một môi trường thân thiện, cô vừa là cô,
vừa là bạn của trẻ. Thông qua các hoạt động hàng ngày, trong giờ học, giờ chơi,
khi đi dạo ngoài trời…. cô luôn khuyến khích động viên trẻ để trẻ tích cực tham
gia các hoạt động từ đó tạo nên vốn sống phong phú sau này cho trẻ.
a.Trong các giờ học: Tạo sự tự tin, mạnh dạn cho trẻ, biết hoạt động độc
lập và hoàn thành sản phẩm của mình
Tự tin là hoàn toàn tin tưởng vào bản thân mình. Tôi vẫn nhớ một câu nói
mà tôi luôn luôn tâm đắc: " Một người làm chủ và một người không làm chủ
thường khác nhau ở chỗ họ có hay không có ý chí và lòng tự tin". Vậy thì cha
mẹ cũng như các cô có thể giúp trẻ tạo sự tự tin bằng cách tạo cho chúng thật
nhiều cơ hội để rèn luyện và thành thục các kỹ năng sống mới. Hãy tỏ ra thích
thú và vui mừng mỗi khi trẻ thể hiện cho mình thấy trẻ đã tạo thành một kỹ năng
mới và khen ngợi trẻ khi trẻ đạt được mục tiêu mình đề ra. Bởi lẽ trẻ con không
phải trẻ nào cũng có sự tự tin luôn mà còn rất nhiều trẻ nhút nhát, sợ mình làm
không được việc cô giao và sợ bị cô mắng, sợ các bạn cười chê cho nên dẫn đến
việc trẻ không dám làm, dám nói và dám phát biểu.
VD : Giờ âm nhạc: Bài hát “ Chị ong nâu và em bé ” dạy trẻ biết cùng làm
việc chăm chỉ, cần mẫn giúp ích cho đời.
Bài hát “Vui đến trường” Dạy trẻ trước khi đi học biết đánh răng, rửa
mặt, thay quần áo… để chuẩn bị đến trường.


Trẻ được cô giáo dạy hát và vận động bài “ Gia đình nhà gấu” chủ đề
“ Bé và gia đình”. Qua trò chơi trẻ yêu quý gia đình mình hơn. Sau khi
dạy trẻ hát xong, dạy vận động trẻ cùng bắt tay nhau, trẻ ở vòng tròn nhỏ sẽ
xoay đi một vị trí để mỗi trẻ sẽ gặp một bạn khác và tiếp tục chào hỏi nhau. Như
vậy với tiết học âm nhạc tôi đã lồng ghép nội dung phát triển quan hệ xã hội ở
trẻ.
Khám phá khoa học: Chủ đề bản thân tôi giáo dục trẻ biết giữ gìn vệ
sinh các nhân như: biết tự đánh răng, rửa mặt, thay quần áo, biết tắm gội sạch sẽ,
biết rửa tay khi bẩn, có nhu cầu thay quần áo khi bị ướt…
12


Chủ đề thế giới động vật tôi tổ chức cho trẻ quan sát khám phá con cá
vàng, tìm hiểu về các con vật, qua đó trẻ rất tò mò, muốn khám phá để thỏa mãn
khát khao có được sự hiểu biết.
Trong giờ tạo hình tôi luôn động viên, gợi ý, giúp đỡ trẻ yếu hoàn thành
sản phẩm của mình để trẻ cảm thấy tự tin vào chính bản thân mình rằng mình
cũng có thể làm được như các bạn
Văn học: Bài thơ “ Bé làm bao nhiêu nghề ” giáo dục trẻ biết chăm chỉ lao
động, yêu quý các nghề trong xã hội, biết giúp đỡ mọi người.
Để giúp trẻ tự nhận thức về mình, tôi thường trò chuyện với trẻ để trẻ nói
lên ý muốn của mình, sau đó động viên trẻ để trẻ thực hiện. Trong các giờ học,
tôi động viên khuyến khích trẻ để trẻ trả lời câu hỏi, kể chuyện, múa hát, gợi ý
để trẻ nói những điều mà trẻ biết qua đó trẻ tự khẳng định mình, tự tin vững
vàng hơn.
VD: Trong lớp tôi cháu Gia Huy là cháu tự kỷ, rất nhút nhát ít tham gia
vào các hoạt động của lớp. Qua quá trình quan sát, nắm bắt được điều đó tôi đã
nghiên cứu và đưa ra một số biện pháp để giúp cháu tiến bộ hơn. Trong các giờ
học khi đặt ra câu hỏi tôi thường gọi cháu trả lời, giờ âm nhạc một mình cháu
không dám lên múa hát, tôi cho cháu lên biểu diễn cùng các bạn. Trong khi cháu


biểu diễn tôi luôn luôn tạo cho trẻ thật thoải mái đó là cho cháu lên chọn những
đạo cụ âm nhạc mà trẻ yêu thích nhất . Bên cạnh đó tôi cùng lên hát và biểu diễn
với trẻ. Mỗi khi trẻ hát xong tôi động viên và cho các bạn vỗ tay thật to. Nhờ
vậy trẻ đã tự tin hơn rất nhiều, thích tham gia các hoạt động của lớp…Đến thời
điểm này cháu đã mạnh dạn rất nhiều, thường xuyên trả lời các câu hỏi của cô
trong các tiết học.

13


Cháu Gia Huy hát cùng với cô
Ngoài việc động viên, khen ngợi, tạo nhiều cơ hội để trẻ thêm tự tin thì
việc kích thích sự tò mò ở trẻ để giúp trẻ trở nên tự tin hơn. Bởi vì đó chính là
lúc bé khám phá thế giới xung quanh và kiểm nghiệm xem mình có thể làm gì.
Những lúc trẻ tìm tòi, khám phá như vậy, tôi cần luôn theo sát để đảm bảo sự an
toàn cho trẻ và những lúc trẻ không hiểu hết những sự vật, hiện tượng xung
quanh mình cô sẽ giải thích để trẻ dễ hiểu hơn. Nhưng để giúp trẻ học được một
kĩ năng mới, tôi không trực tiếp tham gia vào hoạt động của trẻ mà tạo điều kiện
để trẻ tự thử nghiệm, trải nghiệm. Để phát triển lòng tự tin của trẻ, tôi quan sát
kỹ lưỡng những đặc tính nổi bật ở mỗi trẻ và khuyến khích trẻ tham gia vào các
hoạt động thích hợp với năng khiếu của bản thân. Rất nhiều trẻ thích khám phá
thế giới xung quanh và tìm hiểu về sự vật hiện tượng đó như: Tại sao thìa inốc
lại chìm trong nước, tại sao thìa nhựa lại nổi trên mặt nước…có những trẻ lớp
tôi chỉ thích chơi trò lắp ghép và sau một thời gian trẻ đã biết lắp ghép ra các đồ
dùng có ý nghĩa
14


b. Thông qua mọi lúc, mọi nơi.
* Thông qua giờ đón trẻ:


Trên thực tế tôi nhận thấy những trẻ tự tin mạnh dạn thì trẻ tự tìm được
cho mình một trò chơi phù hợp nếu trẻ đã biết cách trẻ có thể lừa chọn cho mình
một trò chơi mới khác lạ hấp dẫn hơn, nhưng những trẻ nhút nhát thì có khi cả
giờ chỉ ngồi một chỗ, không dám chơi với cô, với bạn hoặc có những trẻ do
công việc gia đình hoặc ốm đau phải nghỉ học lâu ngày thì khi đi học trở lại trẻ
thường rất lạ lẫm không được tự tin khi giao tiếp với cô và bạn khi bắt đầu một
ngày hoạt động mới. Ngoài ra tôi luôn chú trọng việc tổ chức chơi trong giờ đón
trẻ nhằm để thỏa mãn nhu cầu vui chơi của trẻ giúp trẻ có tâm trạng vui vẻ để
bước vào một ngày mới, tạo cho trẻ tình yêu đối với lớp. Ở giờ đón trẻ, lớp tôi
có 2 giáo viên nên chúng tôi thường phân công nhau đón trẻ. Một cô ở ngoài cửa
lớp để đón trẻ, cô còn lại sẽ ở trong lớp để ổn định trẻ và tổ chức một số trò chơi
cho trẻ hoạt động. Giờ đón không quy định hay ép buộc trẻ phải chơi trò này
hay trò kia mà trẻ được chơi theo nhu cầu và sở thích của mình. Có trẻ thì về
góc hoạt động, có trẻ lại thích xem đĩa hoạt hình của mình đem đến lớp nhưng
có những trẻ thì lại rất thích gần gũi với cô giáo để trò chuyện...
Ví dụ : Khi đón trẻ vào lớp để thu hút trẻ tạo cho trẻ cảm giác thoải mái
tôi có thể kể cho trẻ nghe câu truyện về một bạn nhỏ khi ở nhà bạn đã làm được
những việc gì giúp đỡ ông, bà, bố, mẹ . Qua đó để trẻ biết cách lắng nghe mọi
người và đối đáp. Sau khi kể xong tôi yêu cầu trẻ kể lại trình tự những sự việc
xảy ra trong ngày nghỉ của trẻ. Điều này giúp trẻ sử dụng lời nói trong giao tiếp
hàng ngày, phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ: kể rõ ràng, có trình tự về sự vật,
hiện tượng nào đó để người nghe có thể hiểu được. Thông qua câu truyện kể tôi
đặt câu hỏi giúp các trẻ khác đưa ra ý kiến thảo luận, trả lời, đưa ra ý kiến của
mình về câu truyện bạn vừa kể. Qua đó giáo dục trẻ mạnh dạn, tự tin, biết cách
giao tiếp ứng sử với mọi người xung quanh.
* Thông qua hoạt động góc:
Đối với trẻ mẫu giáo hoạt động chơi là hoạt động vô cùng quan trọng
trong cuộc sống và là hoạt động chủ đạo với trẻ mẫu giáo. Qua chơi trẻ được
15



giao tiếp với các bạn và cô giáo, trẻ phản ánh thế giới xung quanh thông qua vai
chơi, các hình tượng. Vì vậy khi tổ chức giờ chơi, trong quá trình thỏa thuận
chơi tôi cho trẻ nêu các góc chơi trong lớp và giúp trẻ nói được thao tác, kỹ năng
thể hiện từng vai chơi.
Ví dụ: Ở góc phân vai tôi đặt câu hỏi gợi mở: Hôm nay gia đình có dự
định gì? Bố mẹ làm gì? Làm như thế nào? Con làm gì? Qua đó giáo dục trẻ biết
quan tâm chia sẻ, yêu bạn và người thân trong gia đình.
Ở góc xây dựng: Tôi phân công một trẻ làm nhóm trưởng có nhiệm vụ
thỏa thuận và phân công công việc cho các bạn trong nhóm. Cô có thể hỏi trẻ
nếu đang xây dựng mà bác thợ bị đau tay thì phải làm gì?. Tương tự như vậy ở
góc bác sỹ cô gợi mở cho trẻ bằng cách hỏi trẻ: Bác sỹ khám bệnh cho bệnh
nhân phải có thái độ như thế nào? Nhẹ nhàng, niềm nở hay cáu gắt? Các bác góc
gia đình nấu những món ăn gì? Qua đó giúp trẻ thiết lập mối quan hệ giữa các
nhóm chơi với nhau, sau khi chơi cất đồ chơi đúng nơi quy định.
Khi đến góc xây dựng tôi hỏi trẻ: “các bác đang làm gì đấy? Khi khát
nước các bác làm gì? Có thể trẻ trả lời theo các cách khác nhau. Mặc dù trẻ chưa
biết cách giải quyết nào là hợp lý nhất nhưng đã tìm ra cách giải quyết cho
nhiệm vụ chơi của mình. Như vậy đã liên kết các nhóm chơi với nhau từ đó giúp
trẻ mở rộng vốn hiểu biết về xã hội, trẻ biết hợp tác với nhau trong khi chơi,
phát triển khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ cho trẻ.

16


Giao lưu giữa các góc
Trong giờ chơi tôi hướng dẫn trẻ giao nhiệm vụ cho các bạn trong nhóm
chơi qua đó trẻ đã có ý thức trách nhiệm về công việc của mình và tìm cách
hoàn thành tốt công việc được giao.
* Thông qua hoạt động ngoài trời:


Với trẻ lứa tuổi mầm non tâm hồn như một tờ giấy trắng. Các cháu thấy
mọi vật xung quanh mình đều rất lạ, muốn khám phá. Trẻ mầm non khi đến lớp
được tham gia rất nhiều các hoạt động khác nhau. Là một cô giáo tôi luôn đề cao
hiệu quả của từng hoạt động. Khi cho trẻ tham gia hoạt động tôi luôn đặt ra cho
mình một câu hỏi : Để mỗi một hoạt động tôi phải dùng những biện pháp phù
hợp nhất để đạt hiệu quả. Qua hoạt động đó các cháu được học hỏi và tiếp thu
điều gì?. Chính vì vậy với tôi không chỉ chú trọng giờ học mà tôi luôn chú trọng
vào các hoạt động chơi của trẻ. Nếu như trong các tiết học và hoạt động góc,
môi trường của trẻ thường xuyên ở trong lớp. Với hoạt động ngoài trời trẻ được
ra ngoài , được tận hưởng những điều kiện của tự nhiên như: Nước, ánh nắng
mặt trời, không khí trong lành, được vận động tự do thoải mái, đáp ứng nhu cầu
vận động của trẻ. Đây là một hoạt động giúp cô giáo dục kỹ năng sống cho trẻ

17


rất hiệu quả đặc biệt là các kỹ năng như: Nhận thức, giao tiếp, tình cảm quan hệ
xã hội, thẩm mỹ.
Khi tổ chức cho trẻ hoạt động lao động, tôi không để trẻ làm tập chung về
một nhóm mà tôi phân công tổ 1 tưới cây, tổ 2 nhổ cỏ, tổ 3 nhặt rác và lá vàng.
Khi trẻ đang làm,tôi cùng làm với trẻ và trò chuyện với trẻ: Tại sao phải tưới
nước cho cây? Nhổ cỏ để làm gì? Sao lại phải nhặt rác cho vào thùng rác? Ở nhà
con cũng trồng cây thì con phải làm gì cho cây phát triển tốt? Qua đó cô giáo
dục trẻ thực hiện một số quy định ở lớp, gia đình như vâng lời ông, bà, bố, mẹ,
nơi công cộng như ăn bánh kẹo phải bỏ vỏ vào thùng rác. Khi cho trẻ tham gia
vào hoạt động lao động: Trẻ được chăm sóc cây xanh: tưới nước, làm cỏ cho
cây. Khi trẻ thực hiện tôi luôn quan sát, hướng dẫn và trò chuyện với trẻ. Các
con đang làm gì? Tưới cây để làm gì? Trồng cây có ích lợi gì? Với hình thức trò
chuyện nhẹ nhàng như vậy trẻ hiểu hơn về kỹ năng sống: Trẻ biết quan tâm đến
mọi người, mọi vật xung quanh. Trẻ biết tầm quan trọng của việc mình làm, có ý


thức hơn trong cuộc sống. Trẻ không hái hoa, bẻ cành ngược lại trẻ biết giữ cho
môi trường luôn xanh, sạch, đẹp. Từ đó làm nhiểu việc có ích cho xã hội.

Ảnh: trẻ lao động và chăm sóc vườn trường
18


* Thông qua giờ ăn:
Đối với trẻ mầm non giờ ăn có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giáo
dục kỹ năng tự phục vụ và kỹ năng vệ sinh văn minh trong ăn uống. Chính vì
vậy thông qua giờ ăn tôi đã lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống trên trẻ.
Tôi dạy trẻ cách sử dụng các đồ dùng, vật dụng khác nhau trong ăn uống để sử
dụng đúng với chức năng một cách chính xác. Dạy trẻ biết giữ gìn những đồ
dùng đó sạch sẽ, gọn gàng, ngăn nắp. Dạy trẻ ăn uống từ tốn không vội vã, biết
nhặt cơm rơi để vào đĩa. Biết giúp cô xếp thìa vào đĩa, bê về từng bàn, biết chia
cơm cho bạn. Dạy trẻ ăn uống đầy đủ các nhóm thực phẩm để có đủ chất cho cơ
thể phát triển khỏe mạnh. Thông qua đó dạy trẻ một số món ăn, thực phẩm
thông thường và ích lợi của chúng. Biết công sức lao động của các cô, các bác
nông dân, quý trọng sức lao độngThực hiện được một số việc tự phục vụ trong
sinh hoạt, có một số thói quen và hành vi tốt trong sinh hoạt.
Thói quen này chỉ hình thành ở mỗi cá nhân trẻ khi chúng ta cho trẻ hàng
ngày được thực hiện. Một ngày, hai ngày trẻ có thể không nhớ nhưng nhiều
ngày trẻ sẽ có thói quen và ý thức khi tham gia bất cứ hoạt động nào của lớp.
Kết quả đạt được đó là giờ ăn lớp tôi các cháu không còn nói chuyện riêng,
không rơi vãi cơm ra bàn. Các cháu ăn ngon miệng, ăn nhanh, ăn hết suất của
mình.

19



Hình ảnh trẻ trong giờ ăn
* Các hoạt động khác
Ngoài giờ học, các hoạt động chơi, hoạt động ăn cô cần giáo dục kỹ năng
cho trẻ mọi lúc mọi nơi, trong mọi hoạt động khác nhau. Khi ở nhà bé vẫn được
bố mẹ lau mặt hoặc khát nước bé lại được bố mẹ lấy nước cho trẻ uống. Còn
mỗi khi trẻ ngã bẩn tay, chân quần áo bé lại được bố mẹ bế đi thay quần áo, rửa
tay chân sạch sẽ. Nhưng khi bé đến trường phải thực hiện theo đúng chế độ sinh
hoạt một ngày của trẻ. Một ngày của trẻ bao gồm những công việc gì mà trẻ phải
tự làm như: trẻ phải biết tự mình rửa tay trước khi ăn cơm và sau khi đi vệ sinh,
phải biết xúc cơm như thế nào cho đúng, biết lấy khăn lau miệng…Đây là công
việc trẻ phải tự làm chứ không thể nhờ ai làm hộ mình được và đó là kỹ năng
không thể thiếu trong mỗi trẻ vì nó còn giúp trẻ hình thành hành vi và thói quen
tốt cho trẻ sau này.

20


Trẻ rửa tay trước giờ ăn

Trẻ xúc miệng nước muối sau giờ ăn

Trẻ tự cởi áo khi thấy nóng

Trẻ đang học cách gấp

Tôi làm bảng phân công và theo dõi trẻ trực nhật, nói rõ công việc, vai trò
của những trẻ trực nhật. Người thực hiện nhiệm nhật vụ trực phải làm chu đáo
và có trách nhiệm với việc được phân công. Trong giờ học tổ trực nhật lấy đồ
dùng phát cho các bạn, thu dọn và cất đồ dùng đồ chơi …Qua đó rèn cho trẻ thói
quen nề nếp, sự cố gắng, sáng tạo và đề cao tinh thần trách nhiệm với tập thể


VD: Trong các hoạt động hàng ngày tôi cho trẻ chia bút, vở, kê bàn, xếp
ghế, lau bảng, thu bài, phơi khăn mặt,sắp xếp đồ chơi, giờ ngủ cho trẻ giúp cô kê
giát giường, trải chiếu …
21


Hình ảnh trẻ giúp cô sắp xếp đồ chơi
Trong các giờ hoạt động ngoài trời, vệ sinh cá nhân tôi luôn hướng dẫn và
thực hiện cùng trẻ, tôi vừa làm vừa trò chuyện cùng trẻ tạo cho trẻ môi trường
gần gũi, thân mật, từ đó trẻ tự tin, mạnh dạn, hoạt bát hơn.
VD: Tôi cùng trẻ nhổ cỏ, chăm sóc cây cảnh, nhặt rác trên sân trường, lau
rửa, sắp xếp các giá đồ chơi, gấp chăn chiếu, phơi khăn rửa mặt, kê giát
giường….Bác Hồ đã nói “ Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tùy theo sức của mình”.Vì
vậy tôi luôn khuyến khích động viên trẻ tự hoạt động, tự phục vụ bản thân mình
từ những công việc nhỏ nhất để hình thành cho trẻ tính tự lập
Ngoài ra trường còn tổ chức các ngày hội, ngày lễ: Trung thu, noel, ngày
quốc tế phụ nữ mùng 8 tháng 3, ngày nhà giáo Việt Nam 20 – 11. Trong năm
học 2014 vừa qua các con đã được sang Bát tràng thăm quan. Qua hoạt động
ngoại khóa này trẻ hiểu hơn và thêm yêu những nghề truyền thống của dân tộc
mình… Việc cho trẻ đi tham quan, cũng là giáo dục trẻ các kỹ năng sống rất cần
thiết như đi lại nơi công cộng, cách ứng xử - hành vi văn minh đối với mọi
người. Qua đó giúp trẻ trải nghiệm thực tế và những kỹ năng sống cũng được
hình thành tốt hơn.
22


Cô giúp trẻ tập gói bánh trưng trong ngày tết nguyên đán
Kết quả: Qua việc tổ chức các giờ học, các các hoạt động trong ngày ở
trường mầm non, qua các hoạt động ngoại khóa cho trẻ đã rèn luyện cho trẻ nề
nếp thói quen tốt, rèn tính kiên nhẫn, kỹ năng hợp tác với mọi người, phát triển


cho trẻ kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sống tự tin, phát triển tình cảm nhận thức ở
trẻ, hình thành cho trẻ tính tự lập không ỷ lại vào người khác, đây chính là
những kỹ năng cơ bản để sống và làm việc sau này.
4. Kết hợp phương pháp dùng trò chơi, tạo tình huống:
Trẻ học được các kỹ năng bằng cách tham gia vào các trò chơi. Thông qua
trò chơi, giúp cháu có sự tự tin, biết phối hợp chơi cùng bạn và có trách nhiệm với
nhóm chơi của mình. Nên tôi đã tìm và cho trẻ chơi nhiều trò chơi như:
Trò chơi đóng vai, khi đóng vai trẻ được hòa nhập vào xã hội thu nhỏ,
biết bản thân mình thể hiện vai gì và có những ứng xử và hành động phù hợp.
Hoặc các trò chơi có luật như: Trò chơi vận động, trò chơi dân gian, giúp trẻ có
23


sự hợp tác với nhau trong nhóm chơi, biết phối hợp và đoàn kết chơi với nhau.
Qua đó tôi giáo dục cháu các kỹ năng sống như: Nhường nhịn, chia sẻ, mạnh
dạn, tự tin thể hiện mình.
VD; Trong giờ hoạt động giao lưu tôi tổ chức cho trẻ chơi trò chơi “ Đội
nào chiến thắng”,Trò chơi kéo co, bịt mắt bắt dê…Qua trò chơi này tôi rèn cho
trẻ kỹ năng hợp tác, tinh thần đoàn kết .

Hình ảnh trẻ chơi trò chơi “Cùng tìm nhanh”
VD : Trong một ca hoạt động lao động của lớp tôi có 25 trẻ. Với buổi hoạt
động lao động gồm các nội dung lau lá cây, tưới cây. Khi chuẩn bị đồ cùng cho
hoạt động lao động tôi cố tình chuẩn bị không đủ đồ dùng cho trẻ sử dụng Khi
xảy ra tình huống đó tôi thấy các nhóm trẻ đã bàn bạc, thỏa thuận và đưa ra các
cách giải quyết khác nhau.
+ Trẻ có thể nhường nhau
+ Trẻ có thể thưa cô để cô giải quết
+ Có thể trẻ sẽ tranh giành đồ dùng của nhau
24




Như vậy chỉ với một tình huống rất nhỏ mà tôi đưa ra tôi đã rèn cho trẻ
cách xử trí thông minh, nhanh nhẹn và tìm giải pháp đúng đắn nhất
Ngoài hoạt động trên tôi thường tạo những tình huống cho trẻ xử lý để tập
tính nhanh nhẹn, bình tĩnh tìm giải pháp đúng đắn nhất.
Kết quả: Đây là phương pháp có hiệu quả nhất. Bởi qua trò chơi trẻ sẽ có
được những thái độ, hành vi tích cực, những kỹ năng ứng xử đúng đắn, phù hợp,
nâng cao tinh thần trách nhiệm của mình đối với tập thể. Và đặc biệt trò chơi
còn giúp cho trẻ tăng cường khả năng giao tiếp với bạn, với cô, với người lớn
dần mang đến sự tự tin, mạnh dạn cho trẻ. Như vậy, qua hoạt động này, tôi thấy
trẻ lớp tôi đã “trưởng thành” hơn hẳn. Trẻ độc lập, chủ động giải quyết các tình
huống có vấn đề và hơn hết là biết giải quyết cùng nhau, biết bàn luận, mạnh
dạn đưa ra ý kiến của mình, lắng nghe ý kiến của bạn và lựa chọn giải pháp phù
hợp.
5. Động viên, khuyến khích, nêu gương, khen thưởng kịp thời:
Một điều không thể thiếu để giúp trẻ phát triển khả năng giao tiếp của mình
đó chính là bầu không khí trong lớp học rất ảnh hưởng tới sự giao tiếp của trẻ.

25


Skkn dạy kỹ năng sống cho trẻ 3 - 4 tuổi ở trường mần non

  • doc
  • 17 trang

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:
“DẠY KỸ NĂNG SỐNG CHO TRẺ 3 - 4 TUỔI Ở TRƯỜNG MẦN
NON”

I./ NHẬN THỨC :
Cơ sở lý luận:
Nghiên cứu gần đây về sự phát triển của não trẻ cho thấy rằng khả năng giao tiếp
với mọi người, khả năng biết tự kiểm soát, thể hiện các cảm giác của mình, biết cách ứng
xử phù hợp với các yêu cầu, biết giải quyết các vấn đề cơ bản một cách tự lập có những
ảnh hưởng rất quan trọng đối với kết quả học tập của trẻ tại trường. Vì thế, ngày nay trên
thế giới rất nhiều trường mầm non áp dụng phương pháp học trung tính là phương pháp
học tập thông qua các giao tiếp tích cực với những người khác.
Cơ sở thực tiển:
Ở Việt nam, từ năm học 2008-2009, Bộ Giáo dục- Đào tạo đã phát động phong trào
“Xây dựng trường học thân thiện- học sinh tích cực”, với yêu cầu tăng cường sự tham gia
một cách hứng thú của học sinh trong các hoạt động giáo dục trong nhà trường và tại
cộng đồng với thái độ tự giác, chủ động và ý thức sáng tạo. Trong năm nội dung thực
hiện có nội dung rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh.
Về phía các bậc cha mẹ trẻ em luôn quan tâm đến việc làm sao để kích thích tính
tích cực học tập của trẻ, ai cũng muốn con mình được học đọc và học viết ngay trong
những năm tháng học ở mẫu giáo, đặc biệt là các bậc cha mẹ có con chuẩn bị vào lớp
một.
Đối với giáo viên mầm non thường tập trung lo lắng cho những trẻ có những vấn đề
về hành vi và khả năng tập trung trong những năm tháng đầu tiên trẻ đến trường. Đơn
giản là vì những trẻ này thường không có khả năng chờ đến lượt, không biết chú ý lắng
nghe và làm việc theo nhóm, điều này làm cho trẻ không thể tập trung lĩnh hội những
điều cô giáo dạy! Vì vậy, giáo viên phải tốn rất nhiều thời gian vào đầu năm học để giúp
trẻ có được những kỹ năng sống cơ bản ở trường mầm non.
Nghi thức văn hóa trong ăn uống là một nét văn hóa mà trong thời đại công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nhưng ít được quan tâm chú ý tới và ít người biết được rằng: Văn hóa
trong ăn uống là một trong những tiêu chí đánh giá nhân cánh của con người. Vì thế, trẻ
cần được rèn luyện kỹ năng thực hiện các nghi thức văn hóa ăn uống.
Trong quá trình rèn kỹ năng sống cho trẻ nhằm thực hiện nội dung phong trào“ Xây
dựng trường học thân thiện-học sinh tích cực”, tôi đã gặp những thuận lợi và khó khăn
sau:
1. Thuận lợi:

Bộ Giáo dục- Đào tạo đã phát động phong trào“ Xây dựng trường học thân thiệnhọc sinh tích cực” với những kế hoạch nhất quán từ trung ương đến địa phương, Phòng
giáo dục- Đào tạo cũng đã có kế hoạch từng năm học với những biện pháp cụ thể để rèn
kỹ năng sống cho học sinh một cách chung nhất cho các bậc học, đây chính là những
định hướng giúp giáo viên thực hiện như: Rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình
huống trong cuộc sống, thói quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm; rèn luyện
sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kỹ năng phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước
và các tai nạn thương tích khác; rèn luyện kỹ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình,
phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội.
Trường học nơi tôi công tác là ngôi trường được xây mới, đạt chuẩn quốc gia nên
thuận lợi trong việc thực hiện nội dung xây dựng môi trường giáo dục sạch đẹp, an toàn
cho trẻ.
* Thuận lợi chủ quan
Trong thực tế năm học 2007-2008, với yêu cầu sử dụng công nghệ thông tin đổi
mới hình thức phương pháp dạy học, giáo viên thừơng lãng quên các trò chơi dân gian,
ngại đưa vào kế hoạch, thậm chí không có thời gian cho trẻ vui chơi. Tôi đã có biện pháp
đề ra kế hoạch, cung cấp tài liệu để giáo viên tăng cừơng cho trẻ chơi các trò chơi dân
gian. Đồng thời, tôi đã phát động phong trào làm đồ chơi dân gian, kết qủa có hai bộ đồ
chơi dân gian của hai giáo viên đạt giải A thị xã. Vì thế, năm học 2008-2009, khi có chỉ
đạo thực hiện nội dung tăng cừơng tổ chức các trò chơi dân gian cho trẻ, tôi đã có sự
chuẩn bị về mặt nhận thức của giáo viên, có sẳn rất nhiều đồ chơi, các bộ cờ dân gian cho
trẻ chơi.
2. Khó khăn
Về phía các bậc cha mẹ trẻ em luôn nóng vội trong việc dạy con; do đó, khi trẻ về
nhà mà chưa biết đọc, viết chữ, hoặc chưa biết làm toán thì lo lắng một cách thái quá!
Đồng thời lại chiều chuộng, cung phụng con cái khiến trẻ không có kỹ năng tự phục vụ,
chỉ chú ý đến khâu dạy, không chú ý đến con mình ăn, uống như thế nào, trẻ có biết sử
dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống hay không? Và vì sao chúng ta cần những
đồ dùng, vật dụng đó? Những đồ dùng đó để làm gì?
Đối với giáo viên mầm non
Phong trào“ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” tập trung nhiều nội
dung chung cho các bậc học, giáo viên chưa hiểu nhiều về nội dung phải dạy trẻ lứa tuổi
mầm non những kỹ năng sống cơ bản nào, chưa biết vận dụng từ những kế hoạch định
hướng chung để rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ mầm non.

Đa số giáo viên lớn tuổi có nhiều kinh nghiệm nhưng việc đổi mới phương pháp
giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức vươn
lên, rèn luyện khả năng tự học của học sinh còn gặp nhiều khó khăn; giáo viên trẻ tuổi ít
hơn, năng động, sáng tạo nhưng lại khó trong công tác bồi dưỡng do nhận thức về nghề
chưa sâu sắc lại do loại hình trường bán công nên giáo viên mới thường không an tâm
công tác.
Từ cơ sở lý luận và thực tiển, từ những thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực
hiện phong trào “Xây dựng trường học thân thiện-học sinh tích cực”, tôi đã suy nghĩ,
nghiên cứu tài liệu để tạo điều kiện thuận lợi giúp giáo viên, các bậc cha mẹ dạy trẻ mầm
non các kỹ năng sống qua đề tài: “Kinh nghiệm dạy trẻ mầm non kỹ năng sống ”
II./ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
A BIỆN PHÁP CHUNG
Trong quá trình nghiên cứu đề tài và qua thực tế quản lý nhà trừơng, tôi đã thực
hiện các biện pháp chung để giải quyết vấn đề như sau:
1./ Giúp giáo viên nhận thức sâu sắc về việc dạy trẻ kỷ năng sống
2./ Xác định những kỹ năng sống cơ bản cần dạy trẻ ở lứa tuổi mầm non
3./ Cụ thể hóa nội dung những kỹ năng cơ bản mà giáo viên cần dạy trẻ
4./ Xác định nhiệm vụ cơ bản đối với từng đối tượng trong việc dạy trẻ kỹ năng
sống
5./ Biện pháp tuyên truyền với các bậc cha mẹ cách dạy trẻ kỷ năng sống trong gia
đình
6./ Đề ra những biện pháp hướng dẫn giáo viên, giúp các bậc cha mẹ thực hiện
dạy trẻ các kỷ năng sống cơ bản
7./ Biện pháp giúp trẻ phát triển các kỹ năng sống qua việc tổ chức các hoạt động
tập thể vui tươi, lành mạnh trong nhà trừơng.
8./ Tạo môi trừơng giúp giáo viên thực hiện nhiệm vụ dạy trẻ kỹ năng sống
B. BIỆN PHÁP CỤ THỂ
1./ Biện pháp giúp giáo viên nhận thức sâu sắc về việc dạy trẻ kỷ năng sống
Đầu năm học, tôi tổ chức hội thảo về thực trạng và giải pháp ở đơn vị trong việc
hưởng ứng phong trào“ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” do Bộ Giáo
dục- Đào tạo phát động; qua đó giúp giáo viên hiểu được rằng chương trình học chính
khoá thường cho trẻ tiếp xúc từ từ với các kiến thức văn hoá trong suốt năm học, còn

thực tế trẻ sẽ học tốt nhất khi có được cách tiếp cận một cách cân bằng, biết cách phát
triển các kỹ năng nhận thức, cảm xúc và xã hội. Vì thế, khi trẻ tiếp thu được những kỹ
năng giao tiếp xã hội và các hành vi ứng xử cơ bản trong nhóm bạn, thì trẻ sẽ nhanh
chóng sẵn sàng và có khả năng tập trung vào việc học văn hoá một cách tốt nhất.
2./ Biện pháp giúp giáo viên xác định những kỹ năng sống cơ bản cần dạy trẻ ở lứa
tuổi mầm non:
Đối với tâm sinh lý trẻ em dưới sáu tuổi thì có nhiều kỹ năng quan trọng mà trẻ cần
phải biết trước khi tập trung vào học văn hoá. Thực tế kết quả của nhiều nghiên cứu đều
cho thấy các kỹ năng quan trọng nhất trẻ phải học vào thời gian đầu của năm học là chính
là những kỹ năng sống như: sự hợp tác, tự kiểm soát, tính tự tin, tự lập, tò mò, khả năng
thấu hiểu và giao tiếp. Việc xác định được các kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ
giúp giáo viên lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm để dạy trẻ .
3./ Biệp pháp cụ thể hóa nội dung của những kỹ năng cơ bản mà giáo viên cần dạy
trẻ:
+ Kỹ năng sống tự tin : Một trong những kỹ năng đầu tiên mà giáo viên cần chú
tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là
ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kỹ năng sống này
giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi.
+ Kỹ năng sống hợp tác: Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát giáo viên giúp trẻ
học cách cùng làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với trẻ lứa tuổi này.
Khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn.
+ Kỹ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một trong những
kỹ năng quan trọng nhất cần có ở trẻ vào giai đoạn này là sự khát khao được học. Giáo
viên cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khêu gợi tính tò mò tự nhiên của
trẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu chuyện hoặc các hoạt động và tư liệu mang
tính chất khác lạ thường khêu gợi trí não nhiều hơn là những thứ có thể đoán trước được.
+ Kỹ năng giao tiếp: Giáo viên cần dạy trẻ biết thể hiện bản thân và diễn đạt ý
tưởng của mình cho người khác hiểu, trẻ cần cảm nhận được vị trí, kiến thức của mình
trong thế giới xung quanh nó. Đây là một kỹ năng cơ bản và khá quan trọng đối với trẻ.
Nó có vị trí chính yếu khi so với tất cả các kỹ năng khác như đọc, viết, làm toán và
nghiên cứu khoa học. Nếu trẻ cảm thấy thoải mái khi nói về một ý tưởng hay chính kiến
nào đó, trẻ sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây
chính là yếu tố cần thiết để giúp trẻ sẳn sàng học mọi thứ.

Ngoài ra, ở trường mần non giáo viên cần dạy trẻ nghi thức văn hóa trong ăn uống
qua đó dạy trẻ kỹ năng lao động tự phục vụ, rèn tính tự lập như: Biết tự rửa tay sạch sẽ
trước khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn ăn, biết cách sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn
uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng
ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, cảm ơn sau khi ăn, biết tự dọn,
cất đúng chỗ bát, chén, thìa … hoặc biết giúp người lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn, ăn hết
suất. không làm ảnh hưởng đến người xung quanh.
4./ Biện pháp xác định nhiệm vụ cơ bản và phân công trách nhiệm trong việc dạy
trẻ kỹ năng sống
4.1./ Trách nhiệm của trường mầm non
- Ban giám hiệu trao đổi với giáo viên để xác định mục tiêu của trường, kết quả
mong đợi phù hợp với tiềm năng phát triển của trẻ và xây dựng kế hoạch năm học cho
từng độ tuổi phù hợp với đặc điểm của chương trình.
- Tạo điều kiện cho giáo viên tổ chức tốt các họat động nuôi dưỡng, chăm sóc giáo
dục trẻ theo thời gian biểu của nhà trường đã đưa ra.
- Tập huấn cho giáo viên về các kỹ năng làm việc với cha mẹ, tạo cơ hội, tổ chức
nhiều hoạt động nhằm giúp giáo viên tăng cường phối hợp nhất quán với gia đình để dạy
trẻ kỹ năng sống đạt hiệu quả.
4.2./ Giáo viên có thể làm được gì để dạy kỹ năng sống cho trẻ?
- Giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự
chuyên cần, tích cực của trẻ, giáo viên cần phải biết khai thác phát huy năng khiếu, tiềm
năng sáng tạo ở mỗi trẻ. Vì mỗi đứa trẻ là một nhân vật đặc biệt, phải giáo dục trẻ như
thế nào để trẻ cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống.
- Giáo viên cần thường xuyên tổ chức các họat động giáo dục chăm sóc giáo dục trẻ
một cách thích hợp tuân theo một số quan điểm: Giúp trẻ phát triển đồng đều các lĩnh
vực: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm- xã hội và thẩm mỹ. Phát huy tính tích cực
của trẻ, giúp trẻ hứng thú, chủ động khám phá tim tòi, biết vận dụng vốn kiến thức, kỹ
năng vào việc giải quyết các tinh huống khác nhau.
- Giáo viên cần giúp trẻ có được những mối liên kết mật thiết với những bạn khác
trong lớp, trẻ biết chia sẻ chăm sóc, trẻ cần phải học về cách hành xử, biết lắng nghe trình
bày và diễn đạt được ý của mình khi vào trong các nhóm trẻ khác nhau, giúp trẻ luôn cảm
thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới. Điều này liên quan tới việc đứa trẻ có cảm
thấy thoải mái, tự tin hay không đối với mọi người xung quanh, cũng như việc mọi người
xung quanh chấp nhận đứa trẻ đó như thế nào? Cần chuẩn bị cho trẻ sự tự tin, thoải mái

trong mọi trường hợp nhất là trong việc ăn uống để chúng ta không phải xấu hổ vì những
hành vi không đẹp của trẻ.
- Thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình của trẻ, trao đổi
với phụ huyng những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục trẻ tại nhà, bàn bạc
cách giải quyết những khó khăn gặp phải.
5./ Biện pháp tuyên truyền các bậc cha mẹ cách dạy trẻ kỹ năng sống trong gia đình
- Có thể thấy, trẻ thường dễ dàng kết bạn khi chơi theo đôi bạn trong môi trường
của riêng chúng hơn là chơi trong một nhóm bạn tại trường. Nhiều giáo viên thấy rằng,
một số trẻ có khó khăn trong việc kết bạn hoặc chia sẻ với bạn theo nhóm lớn, lại có thể
hình thành mối liên kết thân thiết với bạn mới trong môi trường gia đình của trẻ. Cha mẹ
có thể giúp trẻ phát triển kỹ năng cảm xúc và xã hội bằng cách tạo ra các mối liên kết bạn
bè tại gia đình. Cha mẹ hãy hỏi trẻ muốn mời ai về nhà chơi? Mối quan hệ này được trẻ
duy trì khi đến trường, khi có được mối liên kết với một trẻ nào đó trong lớp, các mối
quan hệ khác sẽ hình thành tiếp theo một cách dễ dàng hơn.
- Tuyên truyền để cha mẹ trẻ không nên bực bội khi trẻ về đến nhà hoặc cho rằng
trẻ chỉ biết chơi suốt ngày. Cha mẹ cần có niềm tin với sự hướng dẫn của giáo viên và
năng khiếu tò mò bẩm sinh của trẻ, trẻ có thể lĩnh hội kinh nghiệm nhằm giải quyết các
vấn đề quan trọng, đọc, làm toán, thử nghiệm một số kỹ năng khoa học khi chơi với nhau.
- Cha mẹ trẻ cần phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ và hợp lý bằng việc
tham gia tình nguyện vào quá trình giáo dục trong nhà trừơng. Cha mẹ nên tham gia vào
các buổi trao đổi với giáo viên, tham gia các buổi họp của nhà trường và dự một số giờ
học, dự các hoạt động ngoại khoá; chỉ bằng cách đó thôi cha mẹ đã giúp trẻ hiểu rằng học
là phải học cả đời.
- Cần giáo dục để trẻ cảm thấy thoải mái tự tin trong mọi tình huống của cuộc sống.
Nếu cha mẹ múôn giáo dục trẻ biết tự giữ kỷ luật, trứơc hết cần đánh thức sự tự ý thức
của trẻ, cố gắng khơi gợi để trẻ luôn nghĩ về bản thân mình một cách tích cực và đừng
bao giờ phá vở suy nghĩ tích cực về bản thân trẻ.
- Trong gia đình, việc dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống rất cần thiết.
Để trẻ có được những kỹ xảo, thói quen sử dụng đồ dùng một cách chính xác và thuần
thục và khéo léo, không chỉ đòi hỏi trẻ phải thường xuyên luyện tập, mà còn phải đáp ứng
được những nhu cầu của trẻ, đó là cung cấp cho trẻ những mẫu hành vi văn hóa, những
hành vi đúng, đẹp, văn minh của chính cha mẹ và những người xung quanh trẻ.
6./ Biện pháp chỉ dẫn cho giáo viên và tuyên truyền các bậc cha mẹ thực hiện dạy
trẻ các kỷ năng sống cơ bản

6.1. Trứơc hết, người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng
với trẻ và đảm bảo an tòan cho trẻ.
6.2. Tạo điều kiện tốt nhất cho trẻ vui chơi
Giáo viên cần tạo các tình huống chơi trong chế độ sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Vì
đối với trẻ chơi trò chơi có một vai trò rất quan trọng trong việc rèn kỷ năng sống cho trẻ.
Trẻ lớn lên, học hành và khám phá thông qua trò chơi. Các hành động chơi đòi hỏi trẻ
phải suy nghĩ, giải quyết các vấn đề, thực hành các ý tưởng.
Ví dụ: Giáo viên có thể giới thiệu với trẻ về chữ cái và các con số thông qua các trò
chơi đóng vai, các trò chơi xây dựng, các trãi nghiệm văn học và âm nhạc.
6.3. Liên tục đọc sách, trò chuyện, kể chuyện cho trẻ nghe
- Giáo viên cần tranh thủ đọc sách cho trẻ nghe trong mọi tình huống như những
giờ hoạt động góc ở một nhóm nhỏ, hoặc đọc sách trẻ nghe trong giờ trưa đối với những
trẻ khó ngủ.
- Tăng cường kể cho trẻ nghe các câu chuyện cổ tích qua đó rèn luyện đạo đức cho
trẻ, giúp trẻ hoàn thiện mình, biết đọc sách, dạy trẻ yêu thương bạn bè, yêu thương con
người. Tạo hứng thú cho trẻ nhỏ qua các truyện bằng tranh tùy theo lứa tuổi, gợi mở tính
tò mò, ham học hỏi, phát triển khả năng thấu hiểu ở trẻ.
Ví dụ: Khi kể chuyện “ Ba cô gái” giáo viên đặt những câu hỏi gợi mở như: Nếu là
con khi hay tin mẹ bị ốm, con sẽ làm gì? gợi mở tính tò mò thay đổi đoạn kết của truyện
có hậu hơn, đặt tên khác cho câu chuyện v,v….
- Trong gia đình, cha mẹ luân phiên cùng anh chị lớn đọc sách cho trẻ nghe, hoặc
thống nhất giờ đọc sách của gia đình, vào giờ đó các thành viên trong gia đình đều đọc
sách, báo hoặc đọc một thứ gì đó của mình.
- Khi còn nhỏ cha mẹ cần dành ra 15 phút / ngày để trò chuyện, đọc sách cho trẻ
nghe các loại sách phù hợp với lứa tuổi. Khi trẻ có thể tự đọc được lúc đó việc đọc sách
trở thành là niềm vui có giá trị và có ý nghĩa hơn giúp trẻ phát triển sự ham hiểu biết, tìm
tòi phát triển nhân cách của trẻ.
6.4. Cô giáo, cha mẹ luôn khuyến khích trẻ nói lên quan điểm của trẻ, nói chuyện
với các thành viên trong lớp, trong gia đình về cảm giác và về những lựa chọn của mình,
cần giúp trẻ hiểu rằng nên có thông số để theo đó mà lựa chọn, cố gắng không chỉ trích
các quyết định của trẻ. Việc này sẽ hình thành kỹ năng tự kiểm soát bản thân, rèn luyện
tính tự tin cho trẻ khi tham gia các hoạt động và các buổi thảo luận tại trừơng sau này.

6.5. Cô giáo, cha mẹ giúp trẻ phát triển sở thích, ý thích của mình và đảm bảo rằng
ngừơi lớn có thể cung cấp thêm phương tiện để trẻ thực hiện ý thích đó.
Ví dụ như trẻ thích vẽ, ngoài việc cho trẻ học năng khiếu vẽ thì cô giáo, cha mẹ có
thể cho trẻ thêm bút màu, giấy vẽ và hãy chỉ cho trẻ cách lưu giữ các bức tranh để tạo
thành một bộ sưu tập tranh vẽ của chính trẻ hoặc triển lãm tranh của trẻ ở góc nhỏ trong
nhà.
6.6. Cô giáo, cha mẹ cần dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống, biết cách
sử dụng các đồ dùng ăn uống; hơn nữa trẻ sẽ được dạy cách sử dụng các đồ dung đúng
chức năng một cách chính xác và thuần thục.Việc này được thực hiện trong giờ học, giờ
sinh hoạt hàng ngày của trẻ tại lớp và trong bửa cơm gia đình.
Cụ thể: Trẻ được làm quen với những đồ dùng, vật dụng khác nhau, (bộ đồ bếp, bộ
đồ ăn, bộ đồ uống). Sự sạch sẽ, gọn gàng, một thói quen nề nếp, sự sắp đặt ngăn nắp,
ngay ngắn những bộ đồ dùng, vật dụng, thái độ, ăn uống từ tốn, không vội vã, không khí
cởi mở, thoải mái và đầm ấm, những cuộc trao đổi nhẹ nhàng, dễ chịu… tất cả những yếu
tố trên sẽ giúp trẻ có thói quen tốt để hình thành kỷ năng tự phục vụ và ý nghĩa hơn là kỹ
năng sống tự lập sau này.
7./ Biện pháp giúp trẻ phát triển các kỹ năng sống qua việc tổ chức các hoạt động
tập thể vui tươi, lành mạnh trong nhà trừơng
Nội dung phong trào“ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, trong đó
có nội dung: Nhà trường cần tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao một cách thiết
thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của học sinh. Tổ chức các trò chơi dân
gian và các hoạt động vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với lứa tuổi của học sinh.
Căn cứ vào nội dung trên, tôi đã xây dựng kế hoạch và thực hiện nhiều hoạt động
một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của trẻ. Cụ thể như sau:
7.1. Phát động giáo viên làm đồ chơi dân gian; sáng tác bài hát, điệu múa thể loại
dân ca cho trẻ ở lứa tuổi mầm non.
- Năm học 2007-2008, tôi đã có biện pháp chỉ đạo chuyên môn thống nhất lịch sinh
hoạt qua đó giáo viên tăng cừơng cho trẻ chơi các trò chơi dân gian. Đồng thời, tôi đã
phát động phong trào làm đồ chơi dân gian bằng vỏ hộp sữa học đường. Kết qủa có hai
bộ đồ chơi dân gian của hai giáo viên đạt giải A thị xã.
- Năm học 2008-2009, khi có chỉ đạo thực hiện nội dung tăng cừơng tổ chức các trò
chơi dân gian và các hoạt động văn nghệ, vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với lứa
tuổi của trẻ mầm non. Tôi tiếp tục nhân rộng được rất nhiều bộ cờ dân gian, tiếp tục phát

động giáo viên thiết kế trang phục văn nghệ bằng võ hộp sữa học đường, sáng tác bài hát,
điệu múa thể loại dân ca cho trẻ ở lứa tuổi mầm non.
- Duy trì biện pháp tăng cừơng cho trẻ chơi các trò chơi dân gian trong giờ hoạt
động ngoài trời vào các ngày thứ tư, sáu; riêng sáng thứ hai, trẻ được xem các kịch bản
rối qua các câu chuyện cổ tích, được trực tiếp chơi với các con rối, giao lưu thi hỏi đáp về
nội dung các câu chuyện.
7.2. Tổ chức các cuộc thi đấu cờ dân gian và các hội thi, các hoạt động văn nghệ,
vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với lứa tuổi của trẻ mầm non. Huy động và tạo
điều kiện để có sự tham gia hoạt động đa dạng và phong phú của cha mẹ trẻ em, các tổ
chức, lực lượng xã hội, cá nhân trong việc giáo dục văn hóa, truyền thống, giáo dục lòng
yêu nước cho trẻ.
Cụ thể tôi đã tổ chức thực hiện các hoạt động nổi bật như sau:
- Tháng 9/2008: Tổ chức cho học sinh khối chồi, lá thi góc chơi “khám phá khoa
học” theo chủ đề bản thân, giáo viên lên tiết thực hành giúp trẻ trãi nghiệm bằng các giác
quan, những trãi nghiệm trong đời sống hàng ngày của trẻ, bổ sung đồ chơi và phân lịch
cho trẻ chơi lắp ráp Lego
- Tháng 10/2008: Phối hợp với Công ty Sữa Cô gái Hà Lan tổ chức cho trẻ chơi các
trò chơi dân gian, những trò chơi rèn kỹ năng tự tin, mạnh dạn giúp trẻ phát triển nhận
thức, thẩm mỹ thông qua đó thông tin tuyên truyền các bậc cha mẹ về kiến thức chăm sóc
nuôi dưỡng, bảo đảm an toàn, phòng bệnh cho trẻ, hứơng dẫn các bậc cha mẹ kỷ năng
chấm biểu đồ phát triển theo dõi cân đo nhằm bảo vệ sức khỏe cho trẻ.
- Tổ chức cho trẻ mẫu giáo đến thăm nhà bạn trong chủ đề gia đình theo từng tổ,
từng nhóm trẻ. Hoạt động trên nhằm phối hợp với các bậc cha mẹ để có thể giúp trẻ phát
triển kỹ năng cảm xúc và xã hội bằng cách tạo ra các mối liên kết bạn bè tại gia đình.
- Tháng 11/2008: Tổ chức các hoạt động tạo hình vào chiều thứ sáu tuần 1 và tuần
3 của tháng có sự tham gia trực tiếp của cha mẹ trẻ cùng hoạt động với trẻ sắp đặt đồ
dùng ăn uống, bày bữa tiệc liên hoan mừng ngày tết của cô giáo qua đó rèn luyện cho trẻ
kỹ năng sử dụng các đồ dùng ăn uống, dạy trẻ những nghi thức văn hoá trong ăn uống.
Các hoạt động tự chọn được duy trì mỗi tháng có sự tham gia trực tiếp của cha mẹ
để cùng nặn, cùng vẽ giúp con mình hoàn thành sản phẩm, phối hợp với giáo viên một
cách chặt chẽ và hợp lý. Giáo viên chủ động thay đổi nội dung, hình thức tổ chức và luân
phiên thay đổi thành phần tham dự để tất cả các bậc cha mẹ đều được tham gia tình
nguyện vào quá trình giáo dục trong nhà trừơng.

- Tháng 12/2008: Tổ chức cho trẻ tham quan trừơng trung học biên phòng rèn
luyện kỹ năng giao tiếp, yêu quý các chú bộ đội qua đó giáo dục lòng yêu quê hương, con
ngừơi.
Tổ chức hội thi “ Chơi cờ dân gian mừng xuân Kỷ Sửu” giữa các trẻ mẫu giáo theo
từng khối tuổi. Cụ thể: Khối lá thi đấu chơi cờ ăn quan, đập heo, trò chơi bật chụm tách
chân; khối chồi thi đấu cờ quay, lô tô; khối mầm thi đấu cờ so hình, domino…. có sự
tham gia trực tiếp của cha mẹ để cùng chơi với trẻ qua đó rèn luyện kỹ năng hợp tác với
đồng đội để chiến thắng, kỹ năng giao tiếp và kỹ năng sống tự tin, khả năng nhận thức
của trẻ cũng được phát triển.
- Tháng 1/2009: Tổ chức ngày hội “ Bánh chưng, bánh giầy” lồng ghép giáo dục
qua câu chuyện lịch sử “Sự tích bánh chưng, bánh giầy”. Hoạt động vui chơi giải trí này
còn dành thời gian cho học sinh khối lá thực hành chuyên đề “Bé tập làm nội trợ”qua hội
thi gói bánh chưng ngày tết, kết hợp tổ chức cho cô nuôi thi tuyên truyền viên giỏi.
Tổ chức hội diễn văn nghệ mừng xuân cho trẻ với chủ đề “ Bé hát dân ca “ thi
“Trang phục dân gian”, tổ chức các gian hàng ẩm thực mùa xuân, trò chơi dân gian, thi
giải câu đố hay….
- Tháng 2/2009: Tổ chức cho trẻ khối chồi, khối lá tham quan, vui chơi các trò chơi
dân gian trong dịp đầu xuân như: Đập heo, lò cò, cướp cờ tại Trung tâm văn hóa học tập
cộng Phừơng Phứơc Trung, giúp trẻ có dịp đến tham quan tìm hiểu di tích lịch sử, cách
mạng đặc trưng ở địa phương.
- Tháng 3/2009: Tổ chức hoạt động nghệ thuật cho trẻ qua hội thi “ Vẽ những điều
mơ ước cho mẹ”, tổ chức hoạt động phát triển tư duy qua hội thi “ Xây nhà Lego cho bà”
có sự tham gia trực tiếp của cha mẹ để cùng chơi với trẻ qua đó rèn luyện tính kiên nhẫn,
kỹ năng hợp tác với cha mẹ, ông bà để chiến thắng yêu cầu thử thách của luật chơi, phát
triển kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sống tự tin, phát triển tình cảm, nhận thức ở trẻ.
- Tháng 4/2009: Tổ chức đêm hội diễn văn nghệ gồm nhiều thể loại, đa dạng nội
dung, hình thức biểu diễn nhằm huy động sự tham gia của cha mẹ trẻ em, các tổ chức, lực
lượng xã hội, cá nhân trong việc giáo dục văn hóa, truyền thống, giáo dục lòng yêu nước
cho trẻ và qua đó tuyên truyền về hiệu quả giáo dục mầm non
- Tháng 5/2009: Tổ chức hội thi “ Kể chuyện Bác Hồ “. Đồng thời hàng tuần vào
sáng thứ hai tổ chức cho toàn trừơng chào cờ, hát quốc ca qua đó giáo dục trẻ lòng yêu
quê hương, đất nước, yêu kính Bác Hồ.
8./ Biện pháp tạo môi trừơng giúp giáo viên thực hiện nhiệm vụ dạy trẻ kỹ năng
sống

8.1. Hướng dẫn giáo viên thực hiện kế hoạch giáo dục, kế hoạch đánh giá trẻ bằng
việc trang bị cho mỗi lớp bảng đánh giá trẻ làm bằng ván DMS, kiểu dáng trang trí đẹp,
mỗi trẻ có mỗi biểu mẫu đánh giá riêng nhằm giúp giáo viên quan sát ghi chép hàng ngày
từng chi tiết về sự tiến bộ của trẻ, các mối quan hệ với cô, với bạn, ghi chép những kỹ
năng trẻ đạt được trong mỗi ngày làm căn cứ, thước đo để đánh giá cuối mỗi độ tuổi, cuối
giai đoạn phát triển của trẻ theo từng độ tuổi. Cũng từ biện pháp này, giáo viên sẽ có điều
kiện lưu trữ dữ liệu, sản phẩm để đánh giá trẻ, đồng thời có cơ sở để thay đổi, bổ sung
các biện pháp giáo dục từng trẻ vì trẻ con rất khác nhau và giúp trẻ hình thành các kỹ
năng sống.
8.2. Nhiều bậc cha mẹ rất e ngại khi tham gia vào quá trình giáo dục trẻ, hơn nữa
phần lớn cha mẹ thừơng lúng túng khi lựa chọn hình thức thực hiện. Tôi đã trang bị các
bảng thông tin dành cho phụ huynh, do bảng được thiết kế như cuốn sổ tay có kích thứơc
to, rõ các bậc cha mẹ có thể đọc, quan sát theo dõi dễ dàng giúp nhà trường tuyên truyền
đến cha mẹ của trẻ những kết quả giáo dục ở con mình, tạo điều kiện cho giáo viên trao
đổi hai chiều với các bậc cha mẹ những vấn đề có liên quan đến trẻ, các thông tin của lớp,
thông tin sức khỏe, ngược lại các bậc cha mẹ có thể ghi chép những yêu cầu, đề nghị,
thông tin cần trao đổi với giáo viên.
8.3. Nhằm tạo môi trừơng giúp giáo viên và các bậc cha mẹ tăng cừơng đọc sách
cho con trẻ, tôi đã trang bị, đóng các kệ sách thư viện tại khu vực trước sảnh đón nơi dễ
tập trung chú ý, trang trí đẹp với nhiều tên gọi khác nhau theo chủ đề : “Thư viện trừơng
mầm non”; “tủ sách gia đình”; “dinh dưỡng trẻ thơ”; “những con vật đáng yêu”; “hoa trái
bốn mùa”; thiết kế phân chia nhiều ngăn để sách, truyện nhiều kích cở, vừa tầm trẻ, trang
bị ghế đá tạo điều kiện để cô giáo, cha mẹ có thể đọc sách cho trẻ nghe bất kỳ lúc nào tại
nhiều thời điểm trong ngày.
Ngoài ra, tôi tiếp tục thực hiện việc xây dựng thư viện cho bé tại nhóm, lớp.
Khuyến khích giáo viên, các bậc cha mẹ tăng cừơng đọc sách cho trẻ nghe. Để duy trì, bổ
sung nhu cầu đọc sách của trẻ, nhà trừơng vận động cha mẹ thừơng xuyên tặng sách cho
góc thư viện của trẻ tại trừơng, tại lớp và ngay ở gia đình.
8.4. Tổ chức các lớp năng khiếu nhằm phát hiện năng khiếu, phát triển tài năng;
phát động phong trào sáng tác bài hát, điệu múa thể loại dân ca, làm đồ chơi dân gian,
thiết kế trang phục văn nghệ, triển khai nhân rộng 2 bộ đồ chơi đạt giải thành rất nhiều bộ
cờ dân gian và tổ chức cho trẻ thi đấu chơi cờ dân gian do chính giáo viên sáng tạo thiết
kế.
8.5 Tổ chức hội thảo“ Trường học thân thiện- Học sinh tích cực” về thực trạng và
giải pháp ở trường tạo điều kiện giúp giáo viên nhận ra những ưu điểm, hạn chế, thuận

lợi, khó khăn cùng trao đổi các biện pháp thực hiện. Đây cũng là cơ hội giúp tôi đúc rút
kinh nghiệm mà tôi đang nghiên cứu, khai thác để đánh giá kết quả, rút ra bài học kinh
nghiệm và hoàn chỉnh thành văn bản.
8.6. Lập kế hoạch, phổ biến những thông tin hỏi đáp trong việc thực hiện xây dựng
phong trào“ Trường học thân thiện-Học sinh tích cực”; lập phương án triển khai đến giáo
viên, nhân viên về công tác đảm bảo an toàn cho trẻ, xây dựng các tiêu chí đánh giá và
thực hiện cam kết đảm bảo an toàn cho trẻ giữa Hiệu trưởng và giáo viên, nhân viên
nhằm giúp đội ngũ có định hứơng thực hiện kế hoạch cụ thể và đạt kết quả.
8.7. Trang trí sân trừơng các khẩu hiệu nhắc nhở giáo viên, ngừơi lớn phải gương
mẫu như: “Yêu thương, tôn trọng trẻ, giữ lời hứa với trẻ”; “Mỗi cô giáo là tấm gương
sáng về đạo đức, tự học, sáng tạo” bằng chính hình ảnh giáo viên và học sinh của trừơng,
đặc biệt chú ý đưa hình ảnh đẹp của các trẻ hiếu động, hung hăng, cá biệt để từ đó giúp
trẻ tự điều chỉnh hành vi, giúp trẻ thể hiện bản thân và luôn biết giữ gìn, là điều kiện để
khen ngợi sự cố gắng của trẻ.
8.8. Tạo nguồn kinh phí để trang bị phòng chơi Lego, ghế đá, cải tạo, tu sửa hồ
chứa nước PCCC để nâng cấp thành sân khấu nứơc ngoài trời, diện tích rộng khu vực tập
trung, trang trí đẹp, thay đổi hình thức theo chủ đề là nơi cho trẻ biểu diễn văn nghệ, biểu
diễn báo cáo các hoạt động năng khiếu, là nơi tổ chức lễ hội, xem rối, sắp xếp liên kết
hợp lý giữa các khu chơi trò chơi dân gian, đồ chơi ngoài trời, sân khấu biểu diễn văn
nghệ, thảm cỏ, cây xanh tôn tạo cảnh quan sân trường sạch đẹp, an toàn.
III./ KẾT QUẢ
Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự đồng thuận
hợp tác của tập thể sư phạm, sự ủng hộ tích cực của các bậc cha mẹ đã giúp nhà trừơng
đạt được một số kết quả trong việc dạy trẻ mầm non các kỹ năng sống cơ bản thể hiện ở
các kết quả sau:
1./ Kết quả trên trẻ:
- 100% trẻ đều được cô giáo và cha mẹ tạo mọi điều kiện khuyến khích khơi dậy
tình tò mò, phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin, 100% trẻ 5 tuổi được
rèn luyện khả năng sẳn sàng học tập ở trường phổ thông hiệu quả ngày càng cao.
- 100% trẻ có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kỹ năng tự lập; kỹ
năng nhận thức; kỹ năng vận động thô, vận động tinh thông qua các hoạt động hàng ngày
trong cuộc sống của trẻ; ngoài ra có 70% trẻ mẫu giáo được rèn luyện kỹ năng vận động
tinh, kỹ năng tự kiểm soát bản thân, phát triển óc sáng tạo, tính tự tin thông qua các hoạt
động năng khiếu vẽ, bơi lội, thể dục Aerobic.

- 100% trẻ được rèn luyện kỹ năng xã hội; kỹ năng về cảm xúc, giao tiếp; chung
sống hòa bình, và tuyệt đối không xảy ra bạo hành trẻ em ở trường cũng như ở gia đình.
- 100 % trẻ được giáo dục, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, được bảo vệ sức khỏe, được
bảo đảm an toàn, phòng bệnh, được theo dõi cân đo bằng biểu đồ phát triển.
- 80% trẻ luôn có kết quả tốt trong học tập thông qua bảng đánh giá trẻ ở lớp sau mỗi
giai đoạn, cuối độ tuổi và qua kết quả kiểm tra đánh giá chất lượng sau mỗi chủ đề đối
với từng trẻ đạt khá và tốt: Mạnh dạn tự tin: 87 %; kỹ năng hợp tác: 93%; kỹ năng giao
tiếp 92,3%; phát âm rõ lời: 94%; tự lập, tự phục vụ: 92,6 %; lễ phép: 96%; kỹ năng vệ
sinh: 92 %; kỹ năng thích khám phá học hỏi : 86 %; kỹ năng tự kiểm soát bản thân: 83,7
%
- Kết qủa của các hoạt động tự chọn, có 147/185 đạt 79,4% trẻ có cha mẹ tham dự,
số còn lại là ông bà, cô chú…
- Trẻ đi học đều hơn, đạt tỷ lệ chuyên cần đạt từ 90% trở lên và ít gặp khó khăn khi
đến lớp, có kỹ năng lao động tự phục vụ, trực nhật, sắp xếp bàn ăn, tự xếp khay để khăn
ăn bằng võ hộp sữa, tự chuẩn bị khăn ăn, chén, tô, muỗng ….trong các giờ ăn, biết tự mở,
tự rửa vỏ hộp sữa sau khi uống sữa học đường cho cô giáo làm đồ chơi, biết phân công
trực nhật sắp xếp bàn ăn, tự xếp nệm trước và sau khi ngủ ...
2./ Kết quả từ phía các bậc cha mẹ:
- Cha mẹ luôn coi trọng trẻ và tích cực tham gia vào các hoạt động giáo dục trẻ ở
nhà trừơng. Kết quả trong sáu tháng gần đây đã có 185/250 đạt 74% thư mời lần lượt các
bậc cha mẹ đến dự giờ, tham gia vào các hoạt động dạy, hoạt động tự chọn, trực tiếp giúp
trẻ hoàn thành các bài tập, các yêu cầu của cô, đạt .
- Các bậc cha mẹ đã có thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với cô giáo trong việc
dạy trẻ các kỹ năng sống, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức thông qua bảng
thông tin dành cho cha mẹ, bảng đánh giá trẻ ở lớp; số lượng phụ huynh học sinh tham
gia đông hơn kết quả lượng phụ huynh dự họp trong cả hai kỳ họp vừa qua ở các lớp đều
đạt trên 80%, đúng đối tượng là cha hoặc mẹ đạt 70%.
- Giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tốt hơn, đa số cha mẹ dịu dàng, ít la mắng trẻ,
thay đổi trong cách rèn kỹ năng cho trẻ, phân việc cho trẻ, không cung phụng trẻ thái quá,
không còn hình ảnh ba bế con, mẹ đi sau xách cặp cho con, tranh thủ đút cho con ăn,
ngược lại xuất hiện khá nhiều hình ảnh trẻ tự đeo ba lô, tự đi lên lầu, tự xúc cơm ở trẻ
nhỏ …..
- Cha mẹ cảm thấy mản nguyện với thành công của trẻ, tin tưởng vào kết quả giáo
dục của nhà trường, không chê bai chỉ trích cô giáo ngược lại cha mẹ thông cảm, chia sẻ

những khó khăn của cô giáo, cung cấp vật liệu, phụ giúp giáo viên trang trí lớp, làm đồ
chơi.
3./ Về phía giáo viên và nhà trường
Cô giáo chịu khó trò chuyện với trẻ, trả lời những câu hỏi vụn vặt của trẻ, không la
mắng, giải quyết hợp lý, công bằng với mọi tình huống xảy ra giữa các trẻ trong lớp.
Trong giảng dạy, chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều hơn,
Mạnh dạn, tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh, biết tự chuẩn bị,
phối hợp chặt chẽ, trao đổi thừơng xuyên với cha mẹ trẻ.
Trong hai năm qua, nhà trừơng đã tổ chức nhiều phong trào, hội thi, lễ hội dành
cho trẻ như: Lễ hội trăng rằm, hội thi tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi dân gian, hội thi
“Chơi cờ dân gian, ngày hội “ Bánh chưng, bánh giầy”. Tổ chức biểu diễn văn nghệ
mừng xuân quay phát trên sóng truyền hình trong dịp tết và công diễn các tiết mục đạt
giải kết hợp thi “Trang phục dân gian”, tổ chức các gian hàng ẩm thực mùa xuân, trò chơi
dân gian, thi giải câu đố hay…..
Qua phát động phong trào đóng góp sách cho thư viện của bé, kết quả đã vận động
được 350 đầu sách, truyện tranh các loại bổ sung cho góc thư viện.
Tổ chức thi chơi cờ dân gian có gần 100 trẻ mẫu giáo tham gia và có trên 70 phụ
huynh trực tiếp tham gia thi đấu với trẻ.
Kinh phí hai năm qua từ nguồn thu cơ sở vật chất và tự vận động để làm sân khấu
nước, trang bị ghế đá, trang trí sân trừơng, bổ sung đồ chơi ngoài trời, trang bị kệ thư
viện, các biểu bảng, phòng chơi Lego là: 99.670.000 đ
Kết quả qua các lần tổ chức, phát động các phong trào, nhà trừơng đã nhận được
tham gia đông đão trên 70% và ủng hộ nhiệt tình của cha mẹ trẻ em, của các công ty sữa,
nhà sách Bạch Đằng, đài phát thanh truyền hình tỉnh BR-VT, đài VTV 9, với tổng số tiền
là: 22.205.000đ . Hiệu quả lớn nhất là nhà trừơng đã huy động được sự tham gia của cha
mẹ trẻ em, của các tổ chức, các lực lượng xã hội trong việc giáo dục văn hóa, truyền
thống cho trẻ, đồng thời đây là những cơ hội vàng dạy trẻ kỹ năng sống.
IV./ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Với những kết quả đạt được, bản thân tôi chỉ múôn nêu lên những kinh nghiệm
chung nhất do nghiên cứu tài liệu, do tích luỹ được trong súôt quá trình thời gian công tác
với mong múôn gửi đến cô giáo, cha mẹ trẻ những thông điệp mang tính thuyết phục với
một số điều cần làm và cần tránh nhằm giúp cô giáo, cha mẹ trẻ dạy trẻ mầm non những
kỹ năng sống cơ bản như sau:

1./ Một số điều ngừơi lớn cần làm giúp trẻ rèn luyện kỹ năng sống:
Điều cần làm trứơc hết là người lớn phải là tấm gương sáng, yêu thương, tôn trọng,
đối xử công bằng với trẻ và đảm bảo an tòan cho trẻ.
Việc học của trẻ nếu luôn đựơc người lớn khuyến khích, chia sẻ thì trẻ sẽ tự tin vào
năng lực của bản thân và chúng thừơng hy vọng vào tương lai nhiều hơn.
Nhân cách ý chí tình cảm của trẻ được hình thành thông qua chơi, chơi để lớn lên.
Vì thế, ngừơi lớn cần tạo cơ hội để trẻ chơi, từ đó giúp trẻ tìm ra nhiều cách học khác
nhau, những kinh nghiệm trẻ nhận được trong các trò chơi là nền tảng tạo nên sự hăng hái
học tập lâu dài ở trẻ, bởi trẻ nhận ra rằng, học vừa vui mà vừa có ý nghĩa.
Đồng thời,
khi trẻ tham gia vào trò chơi, trẻ cần biết lập kế hoạch chơi, sáng tạo với các cách chơi và
cố gắng đạt mục đích đây chính là những kỹ năng cơ bản để sống và làm việc sau này.
Thừơng xuyên chỉ ra cái mới mà người lớn cũng tìm tòi một cách hăng hái bằng
nhiều cách, hãy trao đổi với trẻ về những thông tin mà cô giáo, cha mẹ mới tìm thấy cho
trẻ thấy rằng học lúc nào cũng vừa vui, vừa thử thách
Tham gia vào việc giáo dục của con cái không nên để tốn quá nhiều thời gian và
cũng khộng cần tốn sức tập luyện, cha mẹ chỉ tốn ít thời gian khi cho trẻ thấy cha mẹ rất
coi trọng giá trị của việc giáo dục.Việc tham gia ở mức độ nào không quan trọng nhưng
thời gian đó thật đáng giá và đó là sự đầu tư cần thiết cho tương lai của trẻ
Kể chuyện cho trẻ hàng ngày bằng phương pháp mưa dầm thấm lâu: Cô giáo, cha
mẹ hãy dành thời gian mỗi ngày để kể cho trẻ nghe những câu chuyện, dành thời gian trò
chuyện với con trẻ vì chuyện là kho báu của dân tộc, kể chuyện cổ tích là con đường
ngắn nhất, đơn giản hiệu quả nhất giáo dục nhân cách cho trẻ.
Để hình thành và phát triển ở trẻ những thói quen, nghi thức văn hóa trong ăn uống
cần thiết không chỉ có sự tập luyện mà còn cần sự thống nhất những cách thức và phương
thức giữa gia đình và trường, lớp mầm non. Chỉ có sự kiên trì, nhẫn nại, sự đồng cả, sự
quan tâm, chú ý và sự giúp đỡ quý báu của người lớn mới giúp trẻ vượt qua những khó
khăn, trở ngại, mới tạo được một bầu không khí thân ái, đầm ấm cần thiết trong bữa ăn.
2./ Một số điều ngừơi lớn cần tránh khi dạy trẻ kỹ năng sống:
- Không hạ thấp trẻ: Cứ mỗi lần chúng ta nói những lời hạ thấp khả năng trẻ là
chúng ta đã phá vỡ những suy nghĩ tích cực về chính bản thân trẻ. Không nên tạo cho trẻ
thói quen kiêu ngạo nhưng cũng không nên lăng nhục trẻ.
- Không doạ nạt trẻ: Ngừơi lớn cần nhớ rằng mỗi lần chúng ta doạ nạt trẻ là chúng
ta đã làm cho trẻ sợ hãi và căm giận ngừơi lớn. Sự đe doạ hoàn toàn có hại cho đứa trẻ và
sẽ không giúp cho hành vi của trẻ tốt hơn.

- Không bắt trẻ hứa hẹn: Vì sự hứa hẹn hoặc doạ nạt không có ý nghĩa đối với trẻ vì
nếu trẻ cảm nhận được và cắn rứt vì không làm tròn lời hứa thì ở trẻ sẽ phát triển cảm
giác hối lỗi, ngược lại trẻ
- Không bao bọc trẻ một cách thái qúa sẽ làm trẻ yếu đuối: Cha mẹ thường không
đánh giá đúng khả năng của trẻ cho rằng trẻ còn nhỏ sẽ không làm được một điều gì cả.
Sự bảo bọc thái qúa sẽ dẫn trẻ đến ý nghĩ rằng bản thân trẻ không thể làm điều gì nên
thân.Hãy nhớ: đừng bao giờ làm những gì mà trẻ có thể làm được.
- Không nên yêu cầu trẻ phục tùng theo ý người lớn ngay lập tức vì sự phục tùng
một cách thái quá không có sự thoả thuận giữa các bên không tạo điều kiện phát triển tính
tự lập ở trẻ
- Không yêu cầu những điều không phù hợp với lứa tuổi của trẻ vì những yêu cầu ở
trẻ phải thực hiện một hành vi chính chắn mà trẻ chưa có khả năng hoặc trẻ phải làm các
yêu cầu không mang tính thống nhất và liên tục trong việc cho phép hoặc cấm đoán sẽ
ảnh hửơng không tốt đến sự phát triển tính nhận thức ở trẻ.
- Không nên giáo huấn quá nhiều vì ảnh hửơng của những luồng ngôn ngữ đó làm
cho đứa trẻ ngưng hoạt động nhưng trong thực tế đứa trẻ không thể ngưng hoạt động sẽ
dần làm cho trẻ nghĩ rằng trẻ là ngừơi có tội, làm nảy sinh tính tự ti, đánh giá tiêu cực về
bản thân sau này.
- Không tước đoạt của trẻ quyền làm trẻ con hãy để cho trẻ được làm trẻ con thật sự
đừng mong đợi trẻ là một người giống như người lớn hoặc như người lớn mong muốn,
không nên nhồi nhét lượng kiến thức quá mức so với khả năng tiếp nhận của não bộ.
Hãy gíup trẻ lớn lên là chính nó.
- Không thúc giục trẻ, không biến thời gian tiếp nhận thức ăn thành một cuộc chiến
nhằm thực hiện những nhiệm vụ giáo dục. Sự nóng giận của người lớn đối với những sai
sót của trẻ không những làm trẻ ăn mất ngon, mất hứng thú đối với đồ ăn, mà còn gây cản
trở nghiêm trọng cho trẻ trong việc hình thành những thói quen ăn uống văn hóa.
Kết luận: Cần khẳng định việc đứa trẻ thích nghi nhanh hay chậm, hình thành
những kỹ năng sống diễn ra lâu hay mau phụ thuộc rất nhiều vào mức độ đúng đắn trong
việc chuẩn của người lớn đối với đứa trẻ./.

Tải về bản full

SKKN: Một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho trẻ 3 – 4 tuổi trong trường mầm non

SKKN_Ta_Ngoc_Yen_19-20_9d79cb8007.pdf

Đọc bài Lưu

Sáng kiến kinh nghiệm

Một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho trẻ 3 – 4 tuổi trong trường mầm non

SKKN Tạ Ngọc Yến 19-20.pdf


Tập tin đính kèm

Trình duyệt không hỗ trợ iframe.

Nguồn:Trường Mẫu giáo Hoa Hồng Copy link

Tags: Một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho trẻ 3 – 4 tuổi trong trường mầm non

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Mẫu sáng kiến một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non

  • Sáng kiến giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non - Mẫu 1
  • Sáng kiến giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non - Mẫu 2

Sáng kiến giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non - Mẫu 1

I. ĐẶT VẤN ĐỀ:

Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của dân tộc. Việc bảo vệ và chăm sóc giáo dục trẻ em là trách nhiệm của nhà nước, của xã hội và của mỗi gia đình: “Trẻ em hôm nay, Thế giới ngày mai”. Việc giáo dục trẻ ngay từ khi còn nhỏ là vô cùng quan trọng trong sự nghiệp giáo dục, nhằm hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ sau này.Bác Hồ nói: “Không có giáo dục thì không nói gì đến kinh tế văn hóa”. Sản phẩm của giáo dục là con người mà con người là mục tiêu, động lực của sự phát triển đất nước trong tương lai đó chính là thế hệ trẻ.

Như chúng ta đã biết, đất nước ta hiện nay nền kinh tế phát triển đang trên đường hội nhập Quốc tế, chúng ta phải giao lưu với nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới.

Trẻ thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động... Hiện nay, thế hệ trẻ thường xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn được đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với những khó khăn, thách thức, những áp lực tiêu cực. Nếu thiếu kỹ năng sống, các em dễ bị lôi kéo vào các hành vi tiêu cực, bạo lực, và lối sống ích kĩ lai căng, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách.

Vậy làm thế nào để thế hệ trẻ chúng ta nhận thức và giữ vững được nền văn hóa của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đến nay và trong thời đại mới là nhiệm vụ cần thiết nhất trong các mục tiêu xây dựng phát triển con người toàn diện trong thời đại hiện nay để sớm đào tạo cho xã hội những con người tài đức vẹn toàn.

Là một giáo viên mầm non, sau nhiều năm thực tế trải nghiệm tôi quyết định trình bày sáng kiến Kinh Nghiệm: “Một vài biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ Mầm non” một vấn đề đang được quan tâm trong giáo dục Mầm non hiện nay.

* Vấn đề được nghiên cứu:

Trong quá trình phát triển nhân cách nếu trẻ được sớm hình thành và tôn vinh các giá trị đích thực của mình thì các em sẽ có một nhân cách phát triển toàn diện, bền vững, có khả năng thích ứng và chống chọi với mọi biến động xã hội, biết tự khẳng định mình trong cuộc sống.

Trẻ em là giai đoạn học, tiếp thu, lĩnh hội những giá trị cuộc sống để phát triến nhân cách, do đó cần giáo dục kỹ năng sống cho trẻ để trẻ nhận thức đúng và có hành vi ứng xử phù hợp ngay từ khi còn nhỏ.

* Thực trạng vấn đề:

Lâu nay, chúng ta thường quan niệm: Rèn dạy kỹ năng sống chủ yếu chỉ dành cho người lớn. Nhưng đối với trẻ ở lứa tuổi tập nói, dạy lễ giáo đạo đức ban đầu cho các cháu ở trường mầm non là rất quan trọng trong việc hình thành thói quen và nhân cách của bé sau này.

Thực tế từ các trường cho thấy, giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thường được thực hiện bằng cách cho trẻ xem tranh truyện, tổ chức hội thi: “Bé khỏe, bé ngoan” có giáo viên, cha mẹ và trẻ cùng tham gia thi hoặc tổ chức các hoạt động giáo dục truyền thống để khơi dậy lòng nhân ái trong trẻ, giúp trẻ có được những kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp ứng xử. Tuy nhiên do tác động ngoại cảnh hay trẻ được nuông chiều và đáp ứng mọi thứ theo yêu cầu nên có những biểu hiện không đúng trong lễ giáo với mọi người trong gia đình và bạn bè, trẻ không có được kỹ năng tự phục vụ bản thân, kỹ năng lãnh đạo…

Theo nhận định của nhiều giáo viên, do lớp có số lượng trẻ quá đông, số giáo viên trong một lớp cũng chưa đủ theo qui định nên việc uốn nắn hành vi, cử chỉ cho từng trẻ cũng là vấn đề khó khăn. Điều kiện cơ sở vật chất để dạy trẻ thực hành hành vi lễ giáo, liên hệ thực tế cũng còn nhiều khuyết điểm nên việc giáo dục chỉ dừng lại ở cung cấp kiến thức.

* Lí do chọn đề tài:

Câu nói: “Hiền dữ đâu phải là tính sẵn, phần nhiều do Giáo dục mà nên”.

Thật vậy: Nếu trẻ được sống trong một môi trường giáo dục tốt thì trẻ sẽ có những đức tính tốt ngược lại trẻ sống trong một môi trường thiếu Giáo dục thì nhân cách của trẻ sẽ phát triển không tốt.

Với những thực trạng mà tôi vừa nêu ở phần trên kết hợp với nhận định của bản thân kỳ vọng của tôi trong năm học này là đẩy mạnh giáo dục “Kỹ năng sống” cho trẻ mầm non để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ Giáo dục hiện nay.

* Giới hạn nghiên cứu:

Hành trình giáo dục kỹ năng sống sẽ bắt đầu từ “động tác” cung cấp kiến thức và hình thành những cảm xúc, những hành vi lễ giáo của trẻ. Ví như với bản thân, trẻ biết tên mình, vị trí của mình ở trường, ở nhà, biết cách đi, đứng ngồi lịch sự, yêu thương quí mến những người thân. Rồi biết thưa gửi, vâng dạ, không nói trống không, không nói leo, biết xưng hô thân mật, biết đảm nhận trách nhiệm và biết lãnh đạo... Trẻ phải được tiếp cận những kỹ năng cơ bản của lứa tuổi như kỹ năng giao tiếp ứng xử, kỹ năng học tập, kỹ năng tự phục vụ. Giúp trẻ có kinh nghiệm trong cuộc sống, biết được những điều nên làm và không nên làm, giúp trẻ tự tin, chủ động và biết cách xử lý các tình huống trong cuộc sống, khơi gợi khả năng tư duy sáng tạo của trẻ.

II. CƠ SỞ LÍ LUẬN:

Câu thành ngữ :“Tiên học lễ, hậu học văn” của cha ông ta từ ngàn xưa đã để lại đến bây giờ vẫn không thể thiếu trong các trường học. Lễ phép là nét đẹp văn hóa được đặt lên hàng đầu khi đánh giá về một con người.

Trong thời đại hiện nay, sự phát triển của kinh tế - xã hội đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với hệ thống giáo dục, đòi hỏi nền giáo dục

phải đào tạo ra những con người “phát triển về trí tuệ, cường tráng về thể lực, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”. Trong đó giáo dục kỹ năng sống là bộ phận hữu cơ của quá trình giáo dục, là một bộ phận có tính cốt lõi, nền tảng của công tác giáo dục trẻ.

III. CƠ SỞ THỰC TIỄN:

Khi tìm hiểu thực trạng của trường, giáo viên và gia đình đã giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, tôi nhận thấy yếu điểm xuất phát từ yếu tố kinh tế, xã hội, gia đình và nguyên nhân chủ yếu là do các bậc cha mẹ thiếu kinh nghiệm trong quản lí gia đình, ít gần gũi với con cái hoặc nuông chiều trẻ quá mức gây tác động đến kỹ năng ứng xử của trẻ như: Trẻ không biết chào hỏi khi khách đến nhà hoặc đi về nhà không thưa người lớn trong gia đình…

Năm học này, tôi được phân công đứng lớp Lớn 2 Tam Hòa hầu hết các cháu là con nông dân nên việc quan tâm đến con em còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó còn có các cháu gia đình luôn nuông chiều thái quá. Một số phụ huynh chưa hiểu tầm quan trọng của giáo dục kỹ năng sống cho con em ở lứa tuổi Mẫu giáo, nên thường khoán trắng cho giáo viên.

Thời gian đầu trẻ đến lớp với thói quen tự do, ra vào lớp tự nhiên, hay nói leo, trả lời không trọn câu hay một số cháu rất ít nói và rụt rè trong giao tiếp...

Môi trường sống của trẻ ở gia đình và môi trường sống, học tập vui chơi của trẻ ở trường là hai nơi mà trẻ luôn được tiếp cận.

Với tình hình như vậy, là Giáo viên Mầm non trăn trở với những thực trạng trên tôi mạnh dạn đề xuất ra một số giải pháp thích hợp để từng trẻ lớp tôi có được những thói quen và hành vi đạo đức phù hợp với chuẩn mực xã hội, nhằm góp phần hình thành nhân cách ban đầu cho trẻ, để trường học thực sự văn minh, thanh lịch.

IV. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:

Để thực hiện tốt nhiệm vụ năm học của ngành, tôi quyết tâm lấy mục tiêu giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là nhiệm vụ hàng đầu trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ của năm học này, để góp một phần nhỏ bé của mình vào quá trình hình thành nhân cách trẻ thơ trong thời đại mới.

Như chúng ta đã biết, ở trường mầm non không có giờ dạy đạo đức riêng, mà thông qua sử dụng hình thức tích hợp với nội dung bài dạy của các lĩnh vực để hướng trẻ tới cảm xúc, tình cảm, hành vi lễ giáo.

1. Giáo dục kỹ năng sống thông qua tiết học:

Lồng nội dung giáo dục kỹ năng sống vào các môn học nhằm hình thành cho trẻ những thói quen, hành vi có văn hóa.

Ví dụ:

* Giờ học phát triển thể chất

Cô dạy trẻ biết các kỹ năng vận động, biết siêng năng rèn luyện để cơ thể khỏe mạnh, trẻ biết trong khi tập không chen lấn xô đẩy nhau...

* Giờ học khám phá xã hội:

Tôi dạy trẻ kỹ năng giao tiếp qua đề tài: Gia đình bạn, gia đình tôi

- Trẻ biết chia sẻ thông tin về gia đình, kể về các thành viên trong gia đình, những việc mà trẻ thường làm ở nhà.

Kỹ năng sống trẻ học được đó là: Giao tiếp cởi mở với bạn, lắng nghe bạn nói và chờ đến lượt mình nói. Biết nói rõ ràng để bạn hiểu và chơi cùng bạn.

* Đối với giờ học tạo hình: “Vẽ ngôi nhà của bé”

Cô giáo dục trẻ biết yêu quí ngôi nhà mình ở, biết quét dọn nhà cửa sạch sẽ, sắp xếp đồ dùng trong gia đình ngăn nắp gọn gàng...

* Đối với giờ học làm quen văn học: Qua câu chuyện “Người bạn tốt”

Cô đàm thoại cùng trẻ:

Linh và Trang là đôi bạn như thế nào?

Khi Linh gặp nạn thì Trang đã làm gì?

Con học tập được đức tính gì ở hai bạn?

Cô giáo dục trẻ tình đoàn kết, thương yêu giúp đỡ bạn bè, biết nói những lời cảm ơn chân tình khi được người khác giúp đỡ mình.

* Đối với giờ học làm quen chữ cái: dạy trẻ phát âm đúng, nói rõ ràng, biết sắp xếp đồ dùng học tập gọn gàng, ngăn nắp.

* Giờ học Giáo dục âm nhạc: Dạy bài hát “ Rửa mặt như mèo”

Qua bài hát này đã giáo dục trẻ thói quen tự vệ sinh thân thể sạch sẽ.

- Kỹ năng sống là phương pháp học mà chơi, chơi mà học.

Thông qua giáo dục trực quan trên thiết bị hiện đại, những bài học về tinh thần đồng đội, giao tiếp, thuyết trình, tư duy được khái quát bằng hình ảnh, ngôn từ có vần điệu, những bài đồng dao, ca dao phù hợp với chủ đề được đưa vào để trẻ dễ dàng tiếp thu trong quá trình học tập. Bên cạnh đó giáo viên đóng vai trò là người hỗ trợ giúp trẻ phát huy khả năng, thế mạnh của mình từ đó phát triển những ứng xử tích cực và tự tin trong cuộc sống.

Dạy kỹ năng sống cho trẻ không phải gò ép trong những tiết học chính thức mà phải kết hợp qua các hoạt động vui chơi của trẻ:

2. Giáo dục kỹ năng sống vào hoạt động vui chơi:

Trong hoạt động vui chơi trẻ được thực hành trải nghiệm với nhiều vai chơi khác nhau phản ảnh trong cuộc sống của người lớn, tôi tiến hành lồng kỹ năng sống vào vui chơi. Qua đó trẻ được giao tiếp với nhau bằng những lời nói nhỏ nhẹ, ân cần, lễ phép, những lời cảm ơn, xin lỗi, trao nhận bằng hai tay ...luôn được thể hiện .Tôi theo dõi lắng nghe để kịp thời uốn nắn trẻ khi có biểu hiện chưa chuẩn mực.Qua đó giúp trẻ hình thành thói quen hành vi văn minh trong giao tiếp.

Ví dụ: Qua trò chơi Bán hàng:

Người bán hàng chào hỏi khách hàng: Cô, chú mua gì ạ?

Người đi mua hàng trật tự khi mua, nói tên hàng cần mua: Bán tôi một cân gạo, bao nhiêu vậy cô?

+ Trò chơi đóng vai Y tá – Bác sĩ:

Bác sĩ biết hỏi thăm bệnh nhân ân cần, “Cháu đau chỗ nào? Cháu có mệt lắm không? ...”

Y tá phát thuốc dặn dò bệnh nhân uống thuốc.

Bệnh nhân nhận thuốc bằng hai tay và nói lời cảm ơn với bác sĩ, y tá.

Qua hoạt động vui chơi trẻ dần dần được rèn kỹ năng giao tiếp, ứng xử, chào hỏi mạnh dạn hơn đối với mọi người.

Trong một thời gian rèn luyện trẻ lớp tôi kỹ năng chào hỏi lễ phép, giao tiếp lịch sự có phần chuyển biến rất tốt.

3. Giáo dục kỹ năng sống ở mọi lúc mọi nơi:

Trong các hoạt động hằng ngày của trẻ ở trường, trẻ dễ được tiếp cận những gì mà cô giáo, người lớn, bạn bè đã làm. Giờ đón trẻ và trả trẻ tôi ân cần và chuẩn mực trong cách xưng hô với bố mẹ trẻ, tôi tập cho trẻ chào thưa lễ phép với cô và bố mẹ trẻ.

Giờ hoạt động ngoài trời, dạo chơi tham quan...tôi đều quan tâm nhắc nhở trẻ luôn có những ý thức và hành động tốt như biết đoàn kết vui chơi cùng bạn, khi làm việc gì sai với bạn với cô thì phải biết xin lỗi, ai cho gì thì nhận bằng hai tay và cảm ơn, biết giữ vệ sinh môi trường, thân thể sạch sẽ...

Biện pháp này đạt kết quả rất cao, tôi tiếp tục áp dụng.

4. Giáo dục kỹ năng sống qua ngày hội, ngày lễ:

Việc tổ chức ngày hội, ngày lễ đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục trẻ mầm non.

Thông qua các ngày hội, ngày lễ như: Giỗ Tổ Hùng Vương, ngày 20/11, Ngày Tết Trung Thu, ... tôi tổ chức các hoạt động văn nghệ, các trò chơi dân gian, đồng thời ôn lại truyền thống của dân tộc để giáo dục trẻ lòng tự hào dân tộc, biết nhớ ơn những người đã hy sinh cho lợi ích dân tộc, lợi ích trồng người. Thông qua đó trẻ có ý thức phấn đấu trong học tập để sau này trở thành người có ích cho xã hội.

5. Công tác phối kết hợp giữa nhà trường và gia đình:

Với phương châm “Trường học là nhà, nhà là trường học” thì việc phối kết hợp với các bậc phụ huynh là một trong những biện pháp rất cần thiết để giáo dục trẻ. Gia đình giáo dục tốt, trẻ sẽ có điểm xuất phát tốt và nề nếp tốt. Ngược lại, trẻ sẽ không có gì khi không được gia đình quan tâm giáo dục. Như vậy, xuất phát điểm của trẻ là chưa công bằng. Giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường sẽ xóa đi rào cản đó. Vì vậy, Giáo viên và phụ huynh đều phải tiến hành giáo dục trẻ song song với nhau. Trong buổi họp phụ huynh đầu năm tôi mạnh dạn trao đổi với phụ huynh về tầm quan trọng của giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non, để phụ huynh nhận thức rõ ý nghĩa vấn đề để cùng nhà trường giáo dục trẻ.

Tôi luôn gặp gỡ trao đổi với phụ huynh hằng ngày trong giờ đón trả trẻ về sự tiến bộ hay những hạn chế của trẻ để phụ huynh nắm bắt kịp thời và tiếp tục rèn luyện cho trẻ ở nhà. Đối với những trẻ mà giáo viên cần lưu ý hơn đó là trẻ có thể lực yếu, suy dinh dưỡng, trẻ thụ động, trẻ hay nghịch thì tôi luôn tranh thủ đến tận nhà để trực tiếp gặp gia đình của cháu trao đổi về thực trạng của cháu và cùng với gia đình trẻ có biện pháp giúp đỡ cho trẻ tốt hơn. Những cử chỉ và việc làm tốt của trẻ ở trường và ở gia đình tôi thường nêu ra và tuyên dương trẻ đó trước lớp trong giờ nêu gương để trẻ khác cùng học tập.

Cuối tháng, thông qua sổ liên lạc của trẻ tôi đều ghi rất cụ thể những kỹ năng của trẻ đã làm được để phụ huynh nắm bắt. Qua thời gian rèn luyện trẻ lớp tôi có nhiều tiến bộ rõ rệt như mạnh dạn, lịch sự trong giao tiếp, xưng hô lễ phép thân thiện.

6. Cô giáo là tấm gương sáng:

Ở trường cô giáo là người mẹ thứ hai đối với trẻ. Trẻ rất thích được cô yêu thương, gần gũi. Mọi hành động cử chỉ của cô trẻ rất lưu tâm và bắt chước theo.

Vì vậy cô phải luôn luôn chuẩn mực trong mọi lĩnh vực: như cách giao tiếp với phụ huynh, với trẻ hay tác phong của cô, hành động cử chỉ của cô… Tôi luôn ân cần dịu dàng thương yêu trẻ, luôn tạo mối thân thiện giữa cô và trẻ. Cô là tấm gương cho trẻ thực hiện và noi theo.

Ví dụ: Khi chúng ta dạy trẻ nói lời cám ơn khi nhận được sự giúp đỡ của người khác hoặc khi người khác làm một điều gì đó cho mình. Nhưng trong mối quan hệ giữa các cô giáo và giữa cô với trẻ, người lớn không nói cám ơn thì trẻ sẽ không hình thành ý thức của việc nên cám ơn người khác.

Khi thấy trên sân trường có lá cây, cô giáo đi qua và bảo trẻ: Con hãy nhặt bỏ vào thùng rác đi. Khi ấy trẻ sẽ nhặt vì bị sai khiến.Cũng tình huống trên: Cô nhặt lá cây bỏ vào thùng rác và hỏi trẻ: Con biết tại sao cô bỏ lá cây vào thùng rác không? Giải thích cho trẻ hiểu: việc làm này nhằm giữ sân trường sạch đẹp cho các con học và chơi. Lần sau thấy rác trẻ sẽ tự động nhặt rác vì trẻ hiểu rằng: nhặt rác làm sạch sân trường.

Thực hiện biện pháp trên hiệu quả đạt rất tốt: Khi cô giáo là mẹ hiền thì các cháu sẽ là con ngoan.

V. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:

Sau những biện pháp tôi nghiên cứu và thực hiện chất lượng giáo dục về kỹ năng sống cho trẻ được tăng lên rõ rệt. Trẻ ngoan hơn, lễ phép hơn, trẻ được hình thành những thói quen vệ sinh văn minh, giao tiếp mạnh dạn với mọi người, biết chào hỏi khi có khách đến, biết trao nhận bằng hai tay, biết quan tâm giúp đỡ bạn bè, cô giáo, ba mẹ…

Các bậc phụ huynh có những chuyển biến rõ rệt về phong cách, về lời ăn tiếng nói và quan tâm đến con em mình ngày càng nhiều hơn.

Bản thân tôi được trau dồi kiến thức và có thêm những kinh nghiệm trong việc giáo dục trẻ, được phụ huynh và các bạn đồng nghiệp thương yêu, quí mến hơn.

* Kết quả đạt trên trẻ:

- Kỹ năng giao tiếp: 90%

- Kỹ năng chăm sóc bản thân: 95%

- Kỹ năng quản lí cảm xúc: 90%

- Kỹ năng đảm nhận trách nhiệm: 95%

- Kỹ năng lãnh đạo: 90%

VI. KẾT LUẬN:

Từ những biện pháp nêu trên tôi đã thực hiện với trẻ lớp tôi trong năm học này, đến nay tôi nhận thấy kết quả rất khả quan điều đó chứng tỏ việc áp dụng các biện pháp của đề tài đã có một hiệu quả nhất định.

Tuy kinh nghiệm còn khiêm tốn nhưng được rút ra từ thực tiễn giảng dạy cùng với sự đóng góp một phần không nhỏ của Ban giám hiệu nhà trường và tập thể Hội đồng Sư phạm.

* BÀI HỌC KINH NGHIỆM:

1. Giáo viên nắm vững phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non.

2. Kỹ năng sống được lồng ghép thông qua các hoạt động có trong nhà trường và ở mọi lúc mọi nơi, các hoạt động chuyên môn, lễ hội…

3. Công tác phối kết hợp giữa nhà trường, gia đình, giữa giáo viên chủ nhiệm với trẻ với phụ huynh thông qua các giờ đón trả trẻ, các hoạt động giao lưu văn nghệ giữa giáo viên và phụ huynh, các hoạt động lễ hội…

4. Cô giáo là trung tâm giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, là một khuôn mẫu để trẻ tiếp cận và học tập.

5. Trong quá trình áp dụng các biện pháp, cần chú ý kết hợp nhiều biện pháp với nhau để đạt hiệu quả cao.

VII. ĐỀ NGHỊ:

Kính mong được đón nhận những góp ý, bổ sung của Hội đồng khoa học Giáo dục để SKKN này phong phú và đạt hiệu quả hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Tham Khảo 7 Mẫu Sáng Kiến Kinh Nghiệm Kỹ Năng Sống Trẻ Mầm Non

Trang chủ » Tài Liệu Sáng Kiến Kinh Nghiệm » Tham Khảo 7 Mẫu Sáng Kiến Kinh Nghiệm Kỹ Năng Sống Trẻ Mầm Non

  • 15/10/2021
  • Sáng kiến kinh nghiệm kỹ năng sống cho trẻ 3 -- 4 tuổi
    Trần Khánh Ngân

5 / 5 ( 2 bình chọn )

Giáo dục kỹ năng sống tại trường mầm non luôn là đề tài nhận được nhiều sự quan tâm. Để hình thành cho trẻ các kỹ năng cơ bản các giáo viên mầm non luôn không ngừng nâng cao trình độ, đưa ra sáng kiến phục vụ quá trình công tác. Rất nhiều những mẫu sáng kiến kinh nghiệm kỹ năng sống trẻ mầm non đã được Best4Team tổng hợp và gửi đến quý bạn đọc trong bài viết sau đây.

Sáng kiến kinh nghiệm kỹ năng sống cho trẻ 3 -- 4 tuổi
Tham Khảo 7 Mẫu Sáng Kiến Kinh Nghiệm Kỹ Năng Sống Trẻ Mầm Non