Soạn văn Luyện tập và phương pháp lập luận trong bài văn nghị luận

a) Trong câu a bộ phận “Hôm nay trời mưa” là luận cứ; bộ phận “chúng ta không đi chơi công viên nữa” là kết luận, thể hiện tư tưởng của người nói.

Mối quan hệ của luận cứ đối với kết luận là mối quan hệ nhân quả.

Ta có thể thay đổi vị trí của luận cứ và kết luận nhưng phải thêm từ vì trước luận cứ:

- Chúng ta không đi chơi công viên nữa vì hôm nay trời mưa.

b) Trong câu b, bộ phận “Em rất thích đọc sách” là kết luận, bộ phận “vì qua sách em học được nhiều điều” là luận cứ.

Mối quan hệ của luận cứ đối với kết luận cũng là quan hệ nhân quả.

Có thể thay đổi vị trí của luận cứ và kết luận.

- Qua sách em học được nhiều điều nên em rất thích đọc sách.

c) Trong câu c, bộ phận “Trời nóng quá” là luận cứ; bộ phận “đi ăn kem đi" là kết luận.

Mối quan hệ giữa luận cứ và kết luận cũng là mối quan hệ nhân quả: vì trời nóng quá (nguyên nhân) nên mới nảy sinh ý định rủ nhau đi ăn kem (kết quả).

Có thể thay đổi vị trí của hai bộ phận này:

- Đi ăn kem đi, trời nóng quá.

2. Bổ sung luận cứ cho các kết luận sau:

a) Em rất yêu trường em vì đó là nơi em được tới để học hành tiến bộ.

b) Nói dối rất có hại vì nó làm mất lòng tin của mọi người.

c) Chúng mình lao động đã mệt rồi, nghỉ một lát nghe nhạc thôi.

d) Vì còn non dại nên trẻ em cần biết nghe lời cha mẹ.

e) Để trẻ mở mang trí tuệ, trẻ em rất thích đi tham quan.

3. Viết tiếp kết luận cho các luận cứ sau:

a) Ngồi mãi ở nhà chán lắm, phải tới nhà bạn chơi thôi.

b) Ngày mai đã thi rồi mà bài vở nhiều quá, hôm nay phải thức khuya để học.

c) Nhiều bạn nói năng thật khó nghe, thật là thiếu văn hóa.

d) Các bạn đã lớn rồi, làm anh làm chị chúng nó phải cư xử cho đàng hoàng chứ.

e) Cậu này ham đá bóng thật, sau này có thể trở thành một cầu thủ giỏi.

II. Lập luận trong văn nghị luận

1. Trong đời sống, những kết luận trong các lời giao tiếp thông thường như “Trời nóng quá, đi ăn kem đi” hay “Hôm nay trời mưa, chúng ta không đi chơi công viên nữa” chỉ có tính chất thu hẹp trong phạm vi quan hệ của một vài cá nhân hoặc một tập thể nhỏ. Nhưng trong văn nghị luận, các luận điểm luôn có tính khái quát, có ý nghĩa xã hội phổ biến, rộng lớn như:

“Sách là người bạn lớn của con người”, “Cần tạo ra thói quen tốt trong đời sống xã hội”.

2. Lập luận cho luận điểm “Sách là người bạn lớn của con người”:

- Vì sao mà nêu ra luận điểm này?

Chúng ta cần coi “Sách là người bạn lớn của con người" vì con người không chỉ có đời sống vật chất mà còn có đời sống tinh thần. Sách chính là những món ăn quý giá cần cho đời sống tinh thần đó.

- Luận điểm đó có những nội dung gì?

Sách là người bạn lớn của người. Đúng vậy, sách giúp ta mở mang trí tuệ. Sách dẫn dắt ta đi sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống. Sách đưa ta trở về quá khứ, đưa ta tới tương lai, đặc biệt là giúp ta sống sâu sắc cuộc sống hôm nay. Sách giúp ta thư giãn khi mỏi mệt, giúp ta nhận ra chân lí và những nét đẹp của cuộc sống. Sách dạy ta bao điều về đạo lí, nghĩa nhân. Sách dạy ta bao điều về khoa học...

- Luận điểm đó thực tế không?

Việc đọc sách, biết quý sách là một thực tế rõ ràng trong đời sống xã hội. Hàng trăm triệu con người đang ngày đêm miệt mài đọc sách để học tập, để tham khảo, nghiên cứu, để phát triển tài năng. Các thế hệ cũng luôn nối tiếp nhau học tập, đọc sách để đời sau càng tiến hơn đời trước.

- Luận điểm đó có tác dụng gì?

Luận điểm “Sách là người hạn lớn của con người” có tác dụng nhắc nhở, động viên, khích lệ mọi người trong xã hội biết quý sách, hiểu được giá trị lớn lao của sách và nâng cao lòng ham thích đọc sách để tự nâng cao mình hơn.

3. Từ truyện Thầy bói xem voi ta có thể rút ra kết luận:

Muốn hiểu biết đầy đủ sự vật, sự việc phải xem xét toàn diện sự vật, sự việc ấy. Đúng vậy, nếu ta chỉ mới biết một sự vật, sự việc ở một vài điểm, chưa thấu hiểu thật cặn kẽ, chưa nắm được bản chất mà đã vội nêu lên những nhận xét về chúng thì chắc chắn chúng ta chỉ đưa ra những nhận xét thiếu sót hoặc sai lầm, giống như thầy bói mù chỉ tiếp xúc với một bộ phận của con voi mà đã mô tả hình dáng con voi và cứ đinh ninh là mình đã nói đúng.

Không được kiêu căng, ngạo mạn, chủ quan cho mình là lớn lao và hiểu biết nhiều hơn cả. Mọi sự chủ quan, ngạo mạn, kiêu căng đều dẫn đến thất bại.

Đó là bài học mà truyện ngụ ngôn Ếch ngồi đáy giếng đã dạy cho ta.

Thật đáng thương cho chú ếch kia. Chú ta ngồi dưới đáy giếng sâu mà nhìn lên nên lầm tưởng bầu trời chỉ bé bằng cái vung nồi. Từ đó nó nghĩ rằng mình là lớn nhất thế gian và hết sức vênh vang tự đắc vì điều ấy. Có lẽ khi bị trâu giẫm bẹp nó cũng chưa kịp thấy rõ sự sai lầm của mình vì cái chết đã đến một cách bất ngờ và quá nhanh chóng.

Qua bài soạn Luyện tập về phương pháp lập luận trong văn nghị luận giúp các em hiểu sâu thêm về phương pháp nghị luận và biết vận dụng được phương pháp lập luận để tạo lập văn bản nghị luận. 

ADSENSE

YOMEDIA

 

Tóm tắt bài

1.1. Lập luận trong đời sống

Lập luận là đưa ra luận cứ nhằm dẫn dắt người nghe, người đọc đến một liên kết lập luận hay chấp nhận một kết luận, mà kết luận đó là tư tưởng, quan điểm, ý định của người nói, người viết.

Câu 1. Đọc các ví dụ sau và trả lời câu hỏi

Hôm nay trời mưa, chúng ta không đi chơi công viên nữa.

Em rất thích đọc sách, vì qua sách em học được nhiều điều,

Trời nóng quá, đi ăn kem đi.

Trong các bộ phân trên, bộ phận nào là luận cứ, bộ phận nào là kết luận, thể hiện tư tưởng, ý định, quan điểm của người nói? Mối quan hệ giữa luận cứ đối với kết luận là như thế nào? Vị trí của luận cứ và kết luận có thể thay đổi cho nhau không?

  • Luận cứ bên phải, kết luận bên trái dấu phẩy.
  • Quan hệ luận cứ và kết luận là quan hệ nhân - quả.
  • Có thể thay đổi vị trí giữa luận cứ và kết luận.

Câu 2. Hãy bổ sung luận cứ cho các kết luận sau.

Em rất yêu trường em...

Nói dối rất có hại...

...nghỉ một lát nghe nhạc thôi.

...trẻ em cần biết nghe lời cha mẹ.

...em rất thích đi thăm quan.

  • Em rất yêu trường em vì nơi đây từng gắn bó với em từ tuổi ấu thơ.
  • Nói dối rất có hại vì sẽ chẳng ai tin mình.
  • Đau đầu quá, nghỉ một lát nghe nhạc thôi.
  • Ở nhà trẻ em cần biết nghe lời cha mẹ.
  • Những ngày chủ nhật em rất thích đi thăm quan.

Câu 3. Viết tiếp kết luận cho các luận cứ sau nhằm thể hiện tư tưởng, quan điểm của người nói.

Ngồi mãi ở nhà chán lắm...

Ngày mai đã thi rồi mà bài vở còn nhiều quá...

Nhiều bạn nói năng thật khó nghe...

Các bạn đã lớn rồi làm anh làm chị chúng nó...

Cậu này ham bóng đá thật...

  • Ngồi mãi ở nhà chán lắm đi dạo thôi.
  • Ngày mai đã thi rồi mà bài vở còn nhiều quá phải học tích cực thôi.
  • Nhiều bạn nói năng thật khó nghe khiến cho người khác khó chịu.
  • Các bạn đã lớn rồi làm anh làm chị chúng nó cho nên phải noi gương cho các em.
  • Cậu này ham bóng đá thật chẳng chịu chơi môn khác.

1.2. Lập luận trong văn nghị luận

Câu 1. Luận điểm trong văn nghị luận là những kết luận có tính khái quát có ý nghĩa phổ biến đối với xã hội. ví dụ:

Chống nạn thất học.

Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước.

Cần tạo ra thói quen tốt trong đời sống xã hội.

Sách là người bạn lớn của con người.

Học cơ bản mới có thể trở thành tài lớn.

Hãy so sánh với một số kết luận ở mục I.2 để nhận ra đặc điểm của luận điểm trong văn nghị luận.

  • Luận điểm trong văn nghị luận là những kết luận có tính khái quát, có ý nghĩa phổ biến đối với xã hội, khác với những kết luận của lập luận trong đời sống là những luận điểm gắn với những tình huống giao tiếp nhất định.

Câu 2. Do luận điểm có tầm quan trọng nên phương pháp lập luận trong văn nghị luận đòi hỏi phải khoa học và chặt chẽ. Nó phải trả lời các câu hỏi: vì sao mà nêu ra luận điểm đó? Luận điểm đó có những nội dung gì? Luận điểm đó có cơ sở thực tế không? Luận điểm đó có tác dụng gì?... Muốn trả lời các câu phải đó phải lựa chọn luận cứ thích hợp, sắp xếp chặt chẽ.

Em hãy lập luận cho luận điểm "Sách là người bạn lớn của con người" bằng cách trả lời các câu hỏi trên.

  • Với đề bài "Sách là người bạn lớn của con người", có thể đặt ra những câu hỏi như sau:
  • Vì sao lại nói "Sách là người bạn lớn của con người"? Vì sách rất có ích đối với con người.
  • Ích lợi của sách đối với đời sống con người thể hiện cụ thể ở những phương diện nào?
  • Trong thực tế, ích lợi của sách thể hiện ra sao? Những sự việc cụ thể nào cho thấy ích lợi của sách?
  • Nhận rõ ích lợi to lớn của sách như vậy, chúng ta sẽ làm gì?

Câu 3. Em đã học truyện ngụ ngôn Thầy bói xem voi và Ếch ngồi đáy giếng. Từ mỗi truyện ấy, hãy rút ra một kết luận làm thành luận điểm có em và lập luận cho luận điểm đó.

a. Rút ra kết luận làm thành luận điểm:

  • Thầy bói xem voi: Phải có cái nhìn toàn diện trước sự vật, hiện tượng.
  • Ếch ngồi đáy giếng: Không được chủ quan, kiêu ngạo.

b. Xây dựng lập luận chính:

  • Thầy bói xem voi: Muốn hiểu biết được sự vật, hiện tượng nào đó cần phải có cái nhìn toàn diện. (quan hệ điều kiện – kết quả)
  • Ếch ngồi đáy giếng: Không được chủ quan, kiêu ngạo mà phải cố gắng mở rộng tầm hiểu biết của mình. (quan hệ suy luận bác bỏ – khẳng định)
  • Chẳng hạn, với đề "Không được chủ quan, kiêu ngạo", có thể lập luận theo quan hệ tổng phân hợp như sau:
    • Mở bài: Không được chủ qua, kiêu ngạo mà phải cố gắng mở rộng tầm hiểu biết của mình.
    • Thân bài:
      • Thói huênh hoang, chủ quan, kiêu ngạo vẫn thường thấy trong thực tế.
      • Tác hại của thói huênh hoang chủ quan, kiêu ngạo.
      • Phải cố gắng khiêm tốn, học hỏi, mở rộng tầm hiểu biết của mình.
    • Kết bài: hiểu biết của con người hạn hẹp, cần phải không ngừng mở rộng hiểu biết và khiêm tốn học hỏi.

2. Soạn bài Luyện tập về phương pháp lập luận trong văn nghị luận

Để hiểu sâu thêm về phương pháp nghị luận và biết vận dụng được phương pháp lập luận để tạo lập văn bản nghị luận, các em có thể tham khảo

bài soạn Luyện tập về phương pháp lập luận trong văn nghị luận.

3. Hỏi đáp Bài Luyện tập về phương pháp lập luận trong văn nghị luận

Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn HỌC247 sẽ sớm trả lời cho các em.