Thể chế của nhà nước thời lê sơ là gì năm 2024
Lịch sử nhà nước và pháp luật - So sánh chế độ hôn nhân gia đình trong bộ quốc triều hình luật và hoàng việt luật lệ Show Preview textNguyên nhân thiết lập và đặc điểm của nhà nước lưỡng đầu Lê -Trịnh ở Đàng Ngoài (1599-1786)
mà sự mục nát của nhà Lê đã xuống đến cực điểm và Mạc Đăng Dung giành lấy ngôi vua vào năm 1527 thì đó cũng là sự mở đầu của một thời kỳ hầu như nội chiến phân liệt triền miên giữa các tập đoàn phong kiến.
Ở mỗi góc độ nhìn nhận khác nhau ta lại có một cách định nghĩa khác về thể chế nhà nước lưỡng đầu, tuy nhiên dưới góc độ lịch sử nhà nước và pháp luật ta có thể hiểu:
trị đất nước.
3 Nguyên nhân sâu xa và có tính chất chủ đạo là tư tưởng Chính danh của Nho giáo.
phong kiến Việt Nam lấy Nho giáo làm mực thước cho việc dựng nước, trị dân, để xây dựng các thiết chế chính trị và luật pháp.
một loại chế độ đại thống nhất, đại tập trung. Ngôi vua với tư cách là biểu tượng cho một quyền lực quân chủ tối cao, thiêng liêng, đại diện duy nhất và tuyệt đối cho ý chí của trời, theo quan niệm của Nho giáo ở một thời điểm nhất định quyền lực bao giờ cũng chỉ dành cho một người, không bao giờ được phân lập hay chia sẻ. Nho gia đề cao nguyên lý “tôn quân thân thượng”, coi bất cứ hành vi nào đụng chạm đến ngôi báu đều là đại nghịch bất đạo, đáng bị khép vào những hình phạt khủng khiếp nhất, quyết liệt nhất. Theo quan điểm Chính Danh của Nho giáo, “danh có chính thì ngôn mới thuận", Nho giáo đòi hỏi mọi người phải dựa vào cái danh đó để làm công việc của mình một cách ngay thảng, mỗi hoạt động hoặc hành vi ứng xử đều nằm trong khuôn khổ pháp lý nhất định không được phép vượt quá quy định, và khi tinh thần chính thống ấy vẫn còn bền vững trong tầng lớp Nho sỹ, các chúa Trịnh cùng dòng họ của mình không thể là một triều đại chính thống. Mặc dù quyền bính nằm cả trong tay, cơ hội có thừa, họ Trịnh cũng không dám dứt đế nghiệp nhà Lê mà vẫn luôn luôn tôn trọng nguyên tắc “hoàng gia giữ uy phúc, vương phủ nám quyền bính". \=> Họ Trịnh không thể không duy trì triều Lê. 3 Nguyên nhân về mặt lịch sử. Thể chế lưỡng đầu đã bước đầu được hình thành từ đầu thời Lê trung hưng, tức giai đoạn Nam Triều. Trong đó, bên cạnh vua Lê là Nguyễn Kim rồi họ Trịnh nắm thực quyền. Sau khi đánh đổ được nhà Mạc (Bắc Triều), họ Trịnh không thể không tiếp tục duy trì vua Lê ở Đàng Ngoài. 3 Sự tương quan lực lượng giữa các phe phái phong kiến.
giờ. Nhiều sĩ phu phong kiến và thần dân vẫn hướng về vua Lê. Nhưng nhà Lê lúc này đã trở nên mục nát => muốn tồn tại được phải dựa vào thế lực phong kiến khác => họ Trịnh.
(họ Nguyễn). Như ở Đàng Trong, chúa Nguyễn cũng giương chiêu bài phù Lê diệt Trịnh. Vì vậy, các chúa Trịnh muốn tập họp được lực lượng ở Đàng Ngoài chống Nguyễn thì không thể phế bỏ vua Lê.
4 Chính quyền Lê Trịnh là thể chế lưỡng đầu của hai dòng họ, giữa và chúa, giữa đế và vương kết hợp với nhau trong sự đối trọng hòa hợp.
là làm cho giữa các cơ quan của vua và chúa có sự phân định quyền hạn rõ ràng, phối hợp công vụ chặt chẽ, để đảm bảo hiệu quả cai trị của nhà nước phong kiến. 4 Nhà nước có nhiều cơ quan và chức quan mới được đặt ra, ngạch quan võ giữ vai trò quan trọng.
phương để xây dựng lực lượng quân đội lớn mạnh, sẵn sàng chiến đấu trong hoàn cảnh đất nước nội chiến phân liệt. 4 Thể chế lưỡng đầu Lê - Trịnh là sự khác biệt về vai trò, địa vị và quyền hạn của vua và chúa:
của vua Lê, còn quyền của chúa Trịnh là quyền phái sinh bắt nguồn từ đế quyền của nhà vua. Giữa vua và chúa đều có nghi vệ nhưng với hình thức khác nhau; y phục của vua màu vàng, của chúa là màu tía. Vật tượng trưng cho quyền của vua Lê là bảo ẩn và bảo kiểm, vật tượng trưng cho quyền hành của chúa Trịnh là chén ngọc và búa vàng (do vua ban).
Trong lĩnh vực tư pháp: chúa Trịnh mới thực sự là người có quyền tài phán cao nhất, còn vua Lê chỉ có chức năng ban bố lệnh đại xá, đặc xá. Nhìn chung lại, chúa Trịnh nắm hầu hết quyền hành cai trị đất nước, còn vua Lê chỉ tồn tại trên danh nghĩa, rất ít quyền lực. Địa vị. chức, tước và quyền lực của chúa được cha truyền con nối, cũng như sự thế tập ngôi báu hư vị của vua. Điều đó trở thành tập quán chính trị bền vững của cơ chế lưỡng đầu Lê - Trịnh và chi phối toàn bộ cơ cấu tổ chức, thẩm quyền, mối quan hệ của các cơ quan phụ tá cho vua ở triều đình và phụ tá cho chúa ở phủ liêu. 4 Lưỡng đầu chế Lê - Trịnh, đặc biệt là bộ máy tổ chức phủ chúa Trịnh mang hình thái quân phiệt chuyên chế với vai trò rất lớn của các tướng lĩnh. Tước vị của các chúa Trịnh khi được vua Lê ban phong luôn gắn liền với cụm từ “Nguyên soái, Tổng quốc chính” hoặc “Nguyên soái, Chưởng quốc chính” tức là người đứng đầu lực lượng vũ trang của quốc gia. Từ khi họ Trịnh thế tập tước vương, lập vương phủ đến khi diệt vong thì đời chúa Trịnh nào cũng nắm giữ chức vị này. Chẳng hạn tước “Đô nguyên súy tổng quốc chính” của Trịnh Tùng (năm 1599), “Nguyên soái thống quốc chính” của Trịnh Tráng (năm 1623), “Nguyên soái chưởng quốc chính” củaTrịnh Tạc (năm 1652), “Đại nguyên soái, tổng quốc chính” của Trịnh Căn (năm 1684). Tuy về sau, lực lượng văn quan được tăng cường, đảm nhận các vị trí của võ quan, nhưng thực tế lực lượng võ quan mới đảm bảo được sự duy trì quyền lực của chúa Trịnh. Chính tính chất quân phiệt còn nặng nề đó mà chúa Trịnh đã không thể kiến lập một chính quyền hoàn toàn riêng biệt cho mình mà vẫn phải dựa vào triều đình vua Lê vốn mang tính quan liêu. 4 Nền tảng tư tưởng của lưỡng đầu chế Lê - Trịnh. Thể chế chính trị đặc biệt này rõ ràng phản ánh sự khác biệt trong tư tưởng chính trị ở Đại Việt thế kỷ XVII - XVIII. Trong suốt 1 năm duy trì chế độ quân chủ chuyên chế (từ thế kỷ Xđến thế kỷ XIX), do những ảnh hưởng sâu sắc của học thuyết Nho gia Trung Hoa nên quyền lực chính trị của các triều đại Việt Nam luôn được chi phối bởi tư tưởng trung ương tập quyềnưng lưỡng đầu chế Lê - Trịnh thực tế thì đi ngược lại hoàn toàn những lý thuyết cơ bản này của Nho giáo. Lưỡng đầu chế Lê Trịnh không phải là một thể chế nhất thời do một quyền thần áp dụng khi có thế lực mạnh để khuynh đảo địa vị vua, mà là định chế tồn tại gần hai thế kỷ. Có thể nói, thể chế lưỡng đầu Lê - Trịnh vừa là sản phẩm, vừa phù hợp thực trạng của hoàn cảnh lịch sử bấy giờ. Nếu xét về phương diện tổ chức nhà nước, đây là hiện tượng đặc sắc nhất của thời kì thế ki XVI - XVIII đồng thời cũng là một trong số những hiện tượng độc đáo trong lịch sử nhà nước phong kiến Việt Nam.
Sự xuất hiện và tồn tại kéo dài trong suốt hai thế kỷ của lưỡng đầu chế Lê - Trịnh đã để lại nhiều hệ quả lịch sử đáng chú ý: |