Top 20 bài hát của taylor swift năm 2023

"22" là một bài hát của nữ ca sĩ người Mỹ Taylor Swift, nằm trong album phòng thu thứ tư Red (2012) của cô. Bài hát do Swift, Max Martin và Shellback sáng tác, với phần sản xuất do chính Martin cùng Shellback đảm nhiệm. "22" được hãng thu âm Big Machine Records gửi đến đài phát thanh âm nhạc tại Mỹ vào ngày 12 tháng 3 năm 2013 dưới vai trò đĩa đơn thứ tư của album. Bài hát là một bản nhạc kết hợp giữa các thể loại pop, disco, bubblegum pop trẻ trung, sôi động, nói về những niềm vui ở tuổi 22.

Kể từ khi phát hành, "22" đã nhận được nhiều phản ứng tích cực từ giới phê bình âm nhạc, chủ yếu là bởi chất liệu nhạc guitar của nó. Bài hát cũng gặt hái những thành tựu đáng kể về mặt thương mại, dù không thành công bằng hai đĩa đơn "We Are Never Ever Getting Back Together" và "I Knew You Were Trouble" trước đó. Tại Mỹ, bài hát từng vươn lên vị trí cao nhất là 20 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, trở thành bài hát thứ sáu thuộc album Red lọt vào top 20 và đồng thời cũng giành được các vị trí 14 và 13 trên các bảng xếp hạng tương ứng là Mainstream Top 40 và Adult Top 40. Tại các thị trường quốc tế, "22" lọt vào top 25 tại Úc, Canada, New Zealand và Ireland, đồng thời nằm trong top 10 ở Anh Quốc và Bỉ. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ đã cấp chứng nhận 3× Bạch kim cho "22", trong khi ở Úc thì bài hát nhận được chứng nhận 2× Bạch kim.

Video âm nhạc của "22" do Anthony Mandler đạo diễn chính thức ra mắt vào ngày 13 tháng 3 năm 2013, thể hiện cảnh chơi đùa và tổ chức tiệc tùng của nữ ca sĩ với nhóm bạn của mình. Video có sự góp mặt của nữ diễn viên người Mỹ Jessica Szohr, người đã từng tham gia thủ vai chính cho loạt phim truyền hình Gossip Girl. Ca khúc được quảng bá rộng rãi qua các buổi biểu diễn trực tiếp tại các buổi hòa nhạc, liên hoan âm nhạc, lễ trao giải và chuyến lưu diễn của Swift, trong đó phải kể đến buổi biễu diễn ở lễ trao giải thưởng Âm nhạc Billboard năm 2013 và chuyến lưu diễn The Red Tour (2013–2014).

Top 20 bài hát của taylor swift năm 2023

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Danh sách đĩa nhạc của Taylor Swift
Top 20 bài hát của taylor swift năm 2023

Swift biểu diễn trong Taylor Swift's Reputation Stadium Tour năm 2018

Album phòng thu10
Album trực tiếp2
Album tổng hợp1
EP5
Đĩa đơn52
Đĩa đơn quảng bá17
Album tái thu âm2

Ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Mỹ Taylor Swift đã phát hành 10 album phòng thu, năm đĩa mở rộng (EP), 52 đĩa đơn và 2 album tái thu âm. Cô là một trong những nghệ sĩ bán đĩa nhạc chạy nhất mọi thời đại, với doanh số tiêu thụ tổng cộng là 50 triệu album và 150 triệu đĩa đơn.[1] Tại Hoa Kỳ, Swift là nghệ sĩ tiêu thụ nhạc kỹ thuật số chạy thứ ba với 121 triệu chứng nhận bạch kim,[2] là nghệ sĩ đầu tiên có bốn album bán hơn một triệu bản trong tuần đầu ra mắt trên bảng xếp hạng Billboard 200[3] và đã bán được hơn 32,7 triệu album.[4][5]

Swift khởi nghiệp bằng hợp đồng thu âm với Big Machine Records năm 2005 và phát hành album phòng thu đầu tay cùng tên vào năm kế tiếp. Tại Mỹ, Taylor Swift đạt vị trí thứ 5 và là tác phẩm trụ hạng lâu nhất trên bảng xếp hạng Billboard 200 trong thập niên 2000.[6] Toàn bộ các đĩa đơn như "Tim McGraw", "Teardrops on My Guitar", "Our Song", "Picture to Burn" và "Should've Said No" đều nằm trong top 40 tại quốc gia này và đạt chứng nhận Bạch kim của Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ (RIAA).[7][8] Swift tiếp tục phát hành hai đĩa mở rộng là The Taylor Swift Holiday Collection (2007) và Beautiful Eyes (2008), đạt vị trí lần lượt là 20 và 9 trên bảng xếp hạng Billboard 200.[9]

Swift phát hành album phòng thu thứ hai, Fearless (2008) dẫn đầu các bảng xếp hạng ở Hoa Kỳ, Canada và New Zealand, trở thành album bán chạy nhất Hoa Kỳ năm 2009[10] và tất cả 13 bài hát trong album đều xếp hạng trên Billboard Hot 100, phá kỷ lục về số bài hát lọt vào top 40 bảng xếp hạng này trong cùng một album.[11] Bài hát "Love Story", "You Belong with Me" và "Fearless" vươn đến top 10 tại Mỹ, trong khi "Love Story" là đĩa đơn quán quân đầu tiên của cô ở Úc. Thành tích tương tự diễn ra ở Canada với đĩa đơn "Today Was a Fairytale", trích từ album nhạc phim Valentine's Day (2010).[12] Album phòng thu thứ ba của nữ ca sĩ, Speak Now (2010) đứng đầu bảng xếp hạng Billboard 200 và xuất hiện trong top 10 ở nhiều quốc gia khác, bao gồm Úc, Canada và Vương quốc Liên hiệp Anh. Ba trong số các đĩa đơn gồm "Mine", "Back to December" và "Mean" đều vươn đến top 10 tại Canada.[8]

Album phòng thu thứ tư, Red (2012) là tác phẩm quán quân đầu tiên của Swift tại Vương quốc Liên hiệp Anh và dẫn đầu ở Canada, Ireland, New Zealand và Hoa Kỳ. Album phát hành các đĩa đơn thành công "I Knew You Were Trouble" và "We Are Never Ever Getting Back Together", những quán quân đầu tiên của cô tại New Zealand và Hoa Kỳ.[13] Album phòng thu thứ năm mang tên 1989 (2014) đứng đầu Billboard 200, với doanh số 1.287 triệu bản trong tuần đầu tiên, trở thành album thứ ba của cô bán hơn 1 triệu bản chỉ trong tuần lên kệ.[14] Album còn dẫn đầu tại nhiều quốc gia như Úc, Canada và Vương quốc Liên hiệp Anh. Các đĩa đơn, "Shake It Off", "Blank Space" và "Bad Blood" đều đứng đầu bảng xếp hạng ở Mỹ, Úc và Canada.[15] Bài hát Swift thu âm cùng Zayn cho album nhạc phim Fifty Shades Darker có tên "I Don't Wanna Live Forever" (2016) là đĩa đơn thứ 20 của Swift đạt tới top 10 tại Hoa Kỳ, giúp cô san bằng kỷ lục nữ nghệ sĩ có lượng đĩa đơn xếp hạng trên Billboard Hot 100 nhiều thứ hai.[16] Album thứ sáu của cô, Reputation (2017) và đĩa đơn mở đường "Look What You Made Me Do" đạt vị trí quán quân tại Úc, Canada, Ireland, New Zealand, Liên hiệp Anh và Mỹ. Đĩa đơn kế tiếp "...Ready for It?" đạt top 10 tại Mỹ, Úc, Canada, và Liên hiệp Anh. Trong cùng khoảng thời gian, Swift đã phát hành một số đĩa đơn kết hợp với các nghệ sĩ khác. Album Lover (2019) tiêu thụ hơn ba triệu đơn vị trong tuần đầu tiên trên toàn thế giới,[17] và cho ra đời ba đĩa đơn lọt top 10 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100: "Me!", "You Need to Calm Down" và "Lover".

Năm 2020, Taylor Swift ra mắt 2 album folklore và evermore trong đại dịch COVID-19, album folklore đã giúp cô đạt được giải thưởng Grammy với hạng mục album của năm lần thứ 3 trong sự nghiệp.

Album[sửa | sửa mã nguồn]

Album phòng thu[sửa | sửa mã nguồn]

Album trực tiếp[sửa | sửa mã nguồn]

Album tuyển tập[sửa | sửa mã nguồn]

Đĩa mở rộng[sửa | sửa mã nguồn]

Album tái thu âm[sửa | sửa mã nguồn]

Từ năm 2019, Taylor Swift đã chính thức xác nhận về việc thực hiện thu âm và phát hành lại 6 album phòng thu đầu, kể từ sau khi cô rời Big Machine Records.

Đĩa đơn[sửa | sửa mã nguồn]

Hát chính[sửa | sửa mã nguồn]

Hợp tác[sửa | sửa mã nguồn]

Quảng bá[sửa | sửa mã nguồn]

Bài hát xếp hạng khác[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Số liệu của Taylor Swift tính đến tháng 3 năm 2011[28]
  2. ^ a b c d e f g h i Số liệu của các album tính đến tháng 10 năm 2020.[29]
  3. ^ Số liệu của Fearless trên toàn cầu tính đến năm 2009.[34]
  4. ^ Số liệu của Fearless tại Vương quốc Liên hiệp Anh tính đến tháng 4 năm 2019.[35]
  5. ^ Số liệu của Fearless tại Úc tính đến tháng 12 năm 2017.[34]
  6. ^ Số liệu của Speak Now trên toàn cầu tính đến tháng 9 năm 2011.[41]
  7. ^ Số liệu của Speak Now tại Canada tính đến tháng 11 năm 2010.[42]
  8. ^ Số liệu của Speak Now tại Vương quốc Liên hiệp Anh tính đến tháng 1 năm 2015.[43]
  9. ^ Số liệu của Red trên toàn cầu tính đến tháng 5 năm 2013.[47]
  10. ^ Số liệu của Red tại Vương quốc Liên hiệp Anh tính đến tháng 4 năm 2019.[35]
  11. ^ Số liệu của Red tại Nhật Bản tính đến tháng 12 năm 2013.[48]
  12. ^ Số liệu của 1989 trên toàn cầu tính đến năm 2016. Theo Liên đoàn Công nghiệp ghi âm quốc tế, 1989 đã bán 6.0 triệu bản năm 2014,[55] 3,5 triệu bản năm 2015[56] và 0,6 triệu bản năm 2016,[57] tổng cộng là 10,1 triệu bản.
  13. ^ Số liệu của 1989 tại Canada tính đến tháng 11 năm 2017.[58]
  14. ^ Số liệu của 1989 tại Vương quốc Liên hiệp Anh tính đến tháng 4 năm 2019.[35]
  15. ^ Số liệu của 1989 tại Nhật Bản tính đến tháng 4 năm 2015.[59]
  16. ^ Số liệu của 1989 tại Pháp tính đến tháng 12 năm 2017.[60]
  17. ^ Số liệu của Reputation trên toàn cầu tính đến tháng 4 năm 2018.[65]
  18. ^ Số liệu của Reputation tại Canada tính đến tháng 11 năm 2017.[66]
  19. ^ Số liệu của Reputation tại Vương quốc Liên hiệp Anh tính đến tháng 4 năm 2019.[35]
  20. ^ Số liệu của Reputation tại Nhật Bản tính đến tháng 11 năm 2017.[67]
  21. ^ Số liệu của Reputation tại Pháp tính đến tháng 12 năm 2017.[60]
  22. ^ Số liệu của Reputation tại Úc tính đến tháng 11 năm 2017.[68]
  23. ^ Album trực tiếp bán độc quyền trên hệ thống iTunes Store. Album gồm những màn trình diễn trực tiếp từ album Taylor Swift và một phiên bản trình bày lại "Umbrella" của Rihanna.[88][89]
  24. ^ Album acoustic trực tiếp phát hành trên Rhapsody (ngày nay là Napster). Đĩa gồm những bài hát từ album Taylor Swift.[90]
  25. ^ Số liệu của Beautiful Eyes tại Mỹ tính đến tháng 7 năm 2019.[5]
  26. ^ Album acoustic trực tiếp phát hành độc quyền trên Spotify. Album bao gồm bản acoustic trực tiếp của "Delicate" và bản cover của Earth, Wind & Fire, bài "September".[91][92]
  27. ^ Số liệu của "Tim McGraw" tại Mỹ tính đến tháng 11 năm 2017.[4]
  28. ^ Số liệu của "Teardrops on My Guitar" tại Mỹ tính đến tháng 11 năm 2017.[4]
  29. ^ Số liệu của "Our Song" tại Mỹ tính đến tháng 11 năm 2017.[4]
  30. ^ Số liệu của "Picture to Burn" tại Mỹ tính đến tháng 11 năm 2017.[4]
  31. ^ Số liệu của "Should've Said No" tại Mỹ tính đến tháng 11 năm 2017.[4]
  32. ^ Số liệu của "Love Story" trên toàn cầu tính đến tháng 11 năm 2017.[34]
  33. ^ Số liệu của "Love Story" tại Mỹ tính đến tháng 12 năm 2017.[34]
  34. ^ Số liệu của "Love Story" tại Vương quốc Liên hiệp Anh tính đến tháng 10 năm 2014.[98]
  35. ^ Số liệu của "White Horse" tại Mỹ tính đến tháng 11 năm 2017.[4]
  36. ^ Số liệu của "You Belong with Me" tại Mỹ tính đến tháng 11 năm 2017.[4]
  37. ^ Số liệu của "Fifteen" tại Mỹ tính đến tháng 11 năm 2017.[4]
  38. ^ Số liệu của "Fearless" tại Mỹ tính đến tháng 11 năm 2017.[4]
  39. ^ Số liệu của "Today Was a Fairytale" tại Mỹ tính đến tháng 11 năm 2017.[4]
  40. ^ Số liệu của "Mine" tại Mỹ tính đến tháng 11 năm 2017.[4]
  41. ^ Số liệu của "Back to December" tại Mỹ tính đến tháng 11 năm 2017.[4]
  42. ^ Số liệu của "Mean" tại Mỹ tính đến tháng 11 năm 2017.[4]
  43. ^ Số liệu của "Sparks Fly" tại Mỹ tính đến tháng 11 năm 2017.[4]
  44. ^ Số liệu của "Ours" tại Mỹ tính đến tháng 11 năm 2017.[4]
  45. ^ Số liệu của "Safe & Sound" tại Mỹ tính đến tháng 11 năm 2017.[4]
  46. ^ Phiên bản đĩa đơn của "Long Live" không xếp hạng trên Billboard Hot 100, phiên bản album đạt hạng 86 trên Billboard Hot 100 dựa theo lượng tải nhạc số.[106]
  47. ^ Số liệu của "Eyes Open" tại Mỹ tính đến tháng 11 năm 2017.[4]
  48. ^ Số liệu của "We Are Never Ever Getting Back Together" tại Mỹ tính đến tháng 11 năm 2017.[4]
  49. ^ Số liệu của "We Are Never Ever Getting Back Together" tại Vương quốc Liên hiệp Anh tính đến tháng 4 năm 2019.[35]
  50. ^ Số liệu của "Ronan" tại Mỹ tính đến tháng 9 năm 2012.[114]
  51. ^ Số liệu của "Begin Again" tại Mỹ tính đến tháng 11 năm 2017.[4]
  52. ^ Số liệu của "I Knew You Were Trouble" tại Mỹ tính đến tháng 11 năm 2017.[4]
  53. ^ Số liệu của "I Knew You Were Trouble" tại Vương quốc Liên hiệp Anh tính đến tháng 12 năm 2014.[115]
  54. ^ Số liệu của "I Knew You Were Trouble" tại Pháp tính đến tháng 12 năm 2013.[116]
  55. ^ Số liệu của "22" tại Mỹ tính đến tháng 11 năm 2017.[4]
  56. ^ Số liệu của "Highway Don't Care" tại Mỹ tính đến tháng 11 năm 2017.[4]
  57. ^ Số liệu của "Red" tại Mỹ tính đến tháng 11 năm 2017.[4]
  58. ^ Số liệu của "Everything Has Changed" tại Mỹ tính đến tháng 11 năm 2017.[4]
  59. ^ Số liệu của "Sweeter than Fiction" tại Mỹ tính đến tháng 11 năm 2013.[125]
  60. ^ "The Last Time" không xếp hạng trên Billboard Hot 100 nhưng đạt vị trí thứ 3 trên Bubbling Under Hot 100 Singles.[106]
  61. ^ Số liệu của "Shake It Off" tại Mỹ tính đến tháng 11 năm 2017.[4]
  62. ^ Số liệu của "Shake It Off" tại Canada tính đến tháng 1 năm 2015.[126]
  63. ^ Số liệu của "Shake It Off" tại Vương quốc Liên hiệp Anh tính đến tháng 4 năm 2019.[35]
  64. ^ Số liệu của "Shake It Off" tại Pháp tính đến hết năm 2014[127] và 2015.[128]
  65. ^ Số liệu của "Blank Space" tại Mỹ tính đến tháng 11 năm 2017.[4]
  66. ^ Số liệu của "Blank Space" tại Vương quốc Liên hiệp Anh tính đến tháng 11 năm 2015.[134]
  67. ^ Số liệu của "Blank Space" tại Pháp tính đến hết năm 2015.[128]
  68. ^ Số liệu của "Style" tại Mỹ tính đến tháng 11 năm 2017.[4]
  69. ^ Số liệu của "Style" tại Vương quốc Liên hiệp Anh tính đến tháng 4 năm 2019.[35]
  70. ^ Số liệu của "Bad Blood" tại Mỹ tính đến tháng 11 năm 2017.[4]
  71. ^ Số liệu của "Wildest Dreams" tính đến tháng 11 năm 2017.[4]
  72. ^ Số liệu của "Out of the Woods" tại Mỹ tính đến tháng 10 năm 2014.[142]
  73. ^ Số liệu của "Out of the Woods" tại Canada tính đến tháng 10 năm 2014.[143]
  74. ^ Số liệu của "I Don't Wanna Live Forever" tại Mỹ tính đến tháng 11 năm 2017.[4]
  75. ^ Số liệu của "I Don't Wanna Live Forever" tại Vương quốc Liên hiệp Anh tính đến tháng 4 năm 2019.[35]
  76. ^ Số liệu của "I Don't Wanna Live Forever" tại Pháp tính đến hết năm 2017.[146]
  77. ^ Số liệu của "Look What You Made Me Do" tại Mỹ tính đến tháng 10 năm 2017.[153]
  78. ^ Số liệu của "Look What You Made Me Do" tại Vương quốc Liên hiệp Anh tính đến tháng 4 năm 2019.[35]
  79. ^ Số liệu của "...Ready for It?" tại Mỹ tính đến tháng 10 năm 2017.[153]
  80. ^ "End Game" không xếp hạng trên NZ Top 40 Singles Chart, nhưng đạt vị trí thứ 2 trên NZ Heatseeker Singles Chart.[158]
  81. ^ "New Year's Day" không xếp hạng trên Billboard Hot 100, nhưng đạt vị trí thứ 33 trên Hot Country Songs.[160]
  82. ^ "Gorgeous" chỉ được phát hành dưới dạng đĩa đơn tại Vương quốc Liên hiệp Anh.[161]
  83. ^ Số liệu của "Gorgeous" tại Mỹ tính đến tháng 10 năm 2017.[162]
  84. ^ "Getaway Car" chỉ được phát hành dưới dạng đĩa đơn tại Úc và New Zealand.[164]
  85. ^ "Getaway Car" không xếp hạng trên NZ Top 40 Singles Chart, nhưng đạt vị trí thứ 9 trên NZ Hot Singles Chart.[165]
  86. ^ "Getaway Car" không xếp hạng trên ARIA Singles Chart, nhưng đạt vị trí thứ 33 trên ARIA Digital Tracks Chart.[166]
  87. ^ Số liệu của "Me!" tại Mỹ tính đến tháng 5 năm 2019.[168]
  88. ^ Số liệu của "Me!" tại Vương quốc Liên hiệp Anh tính đến tháng 5 năm 2019.[169]
  89. ^ "Beautiful Ghosts" không xếp hạng trên NZ Top 40 Singles Chart nhưng đạt vị trí 36 trên NZ Hot Singles Chart.[174]
  90. ^ "Beautiful Ghosts" không xếp hạng trên ARIA Singles Chart, nhưng đạt vị trí thứ 22 trên ARIA Digital Track Chart.[175]
  91. ^ "Christmas Tree Farm" không xếp hạng trên NZ Top 40 Singles Chart nhưng đạt vị trí thứ 9 trên NZ Hot Singles Chart.[177]
  92. ^ "Betty" không xếp hạng trên UK Singles Chart nhưng đạt vị trí thứ 99 trên UK Singles Downloads Chart.[179]
  93. ^ Số liệu của "Two Is Better Than One" tại Mỹ tính đến tháng 11 năm 2017.[4]
  94. ^ Số liệu của "Both of Us" tại Mỹ tính đến tháng 11 năm 2017.[4]
  95. ^ "Babe" không xếp hạng trên NZ Top 40 Singles Chart, nhưng đạt vị trí thứ 10 trên NZ Heatseeker Singles Chart.[185]
  96. ^ Số liệu của "Babe" tại Mỹ tính đến tháng 11 năm 2018.[186]
  97. ^ Số liệu của "You're Not Sorry" tại Mỹ tính đến tháng 8 năm 2012.[188]
  98. ^ Số liệu của "Crazier" tại Mỹ tính đến tháng 11 năm 2017.[4]
  99. ^ "American Girl" không xếp hạng trên Billboard Hot 100 nhưng đạt vị trí thứ 15 trên Bubbling Under Hot 100 Singles.[106]
  100. ^ Số liệu của "Speak Now" tại Mỹ tính đến tháng 10 năm 2010.[189]
  101. ^ Số liệu của "Call It What You Want" tại Mỹ tính đến tháng 11 năm 2017.[190]
  102. ^ "The Archer" không xếp hạng trên Swedish Singellista Chart nhưng đạt vị trí thứ 6 trên Swedish Heatseeker Chart.[192]
  103. ^ "Only the Young" không lọt vào bảng xếp hạng NZ Hot Singles Chart, nhưng vươn tới vị trí cao nhất - số 2 tại NZ Hot Singles Chart.[194]
  104. ^ "I'm Only Me When I'm with You" không xếp hạng trên Billboard Hot 100 nhưng đạt vị trí thứ 15 trên Bubbling Under Hot 100 Singles.[106]
  105. ^ Số liệu của "I'm Only Me When I'm with You" tại Mỹ tính đến tháng 8 năm 2012.[188]
  106. ^ "Invisible" không xếp hạng trên Billboard Hot 100 nhưng đạt vị trí thứ 3 trên Bubbling Under Hot 100 Singles..[106]
  107. ^ "Umbrella" không xếp hạng trên Billboard Hot 100 nhưng đạt vị trí thứ 4 trên Bubbling Under Hot 100 Singles.[106]
  108. ^ "Tell Me Why" không xếp hạng trên Billboard Hot 100 nhưng đạt vị trí thứ 1 trên Bubbling Under Hot 100 Singles.[106]
  109. ^ Số liệu của "Forever & Always" tại Mỹ tính đến tháng 8 năm 2012.[188]
  110. ^ "The Best Day" không xếp hạng trên Billboard Hot 100 nhưng đạt vị trí thứ 3 trên Bubbling Under Hot 100 Singles.[106]
  111. ^ "Drop of Jupiter (Live)" không xếp hạng trên Billboard Hot 100 nhưng đạt vị trí thứ 7 trên Bubbling Under Hot 100 Singles.[106]
  112. ^ "Treacherous" không xếp hạng trên Billboard Hot 100 nhưng đạt vị trí thứ 2 trên Bubbling Under Hot 100 Singles.[106]
  113. ^ "Starlight" không xếp hạng trên Billboard Hot 100 nhưng đạt vị trí thứ 5 trên Bubbling Under Hot 100 Singles.[106]
  114. ^ "Holy Ground" không xếp hạng trên Billboard Hot 100 nhưng đạt vị trí thứ 12 trên Bubbling Under Hot 100 Singles.[106]
  115. ^ "The Lucky One" không xếp hạng trên Billboard Hot 100 nhưng đạt vị trí thứ 13 trên Bubbling Under Hot 100 Singles.[106]
  116. ^ "Sad Beautiful Tragic" không xếp hạng trên Billboard Hot 100 nhưng đạt vị trí thứ 18 trên Bubbling Under Hot 100 Singles.[106]
  117. ^ "All You Had to Do Was Stay" không xếp hạng trên Billboard Hot 100 nhưng đạt vị trí thứ 14 trên Bubbling Under Hot 100 Singles.[106]
  118. ^ "How You Get the Girl" không xếp hạng trên Billboard Hot 100 nhưng đạt vị trí thứ 4 trên Bubbling Under Hot 100 Singles.[106]
  119. ^ "This Love" không xếp hạng trên Billboard Hot 100 nhưng đạt vị trí thứ 19 trên Bubbling Under Hot 100 Singles.[106]
  120. ^ "I Did Something Bad" không xếp hạng trên Billboard Hot 100 nhưng đạt vị trí thứ 14 trên Bubbling Under Hot 100 Singles.[106]
  121. ^ "I Did Something Bad" không xếp hạng trên NZ Top 40 Singles Chart nhưng đạt vị trí thứ 5 trên NZ Heatseeker Singles Chart.[158]
  122. ^ "I Forgot That You Existed" không xếp hạng trên NZ Top 40 Singles Chart nhưng đạt vị trí thứ 3 trên NZ Hot Singles Chart.[199]
  123. ^ "Cruel Summer" không xếp hạng trên Swedish Singellista Chart nhưng đạt vị trí thứ 10 trên Swedish Heatseeker Chart.[200]
  124. ^ "Paper Rings" không xếp hạng trên NZ Top 40 Singles Chart nhưng đạt vị trí thứ 4 trên NZ Hot Singles Chart.[199]
  125. ^ "Mirrorball" không xếp hạng trên Swedish Singellista Chart nhưng đạt vị trí thứ 6 trên Swedish Heatseeker Chart.[201]
  126. ^ "Seven" không xếp hạng trên Swedish Singellista Chart nhưng đạt vị trí thứ 13 trên Swedish Heatseeker Chart.[201]
  127. ^ "August" không xếp hạng trên Swedish Singellista Chart nhưng đạt vị trí thứ 7 trên Swedish Heatseeker Chart.[201]
  128. ^ "This Is Me Trying" không xếp hạng trên Swedish Singellista Chart nhưng đạt vị trí thứ 18 trên Swedish Heatseeker Chart.[201]
  129. ^ "The Lakes" không xếp hạng trên Billboard Hot 100 nhưng đạt vị trí thứ 18 trên Bubbling Under Hot 100 Singles.[106]
  130. ^ "The Lakes" không xếp hạng trên Canadian Hot 100 nhưng đạt vị trí thứ 9 trên Hot Canadian Digital Song Sales chart.[202]
  131. ^ "The Lakes" không xếp hạng trên NZ Top 40 Singles Chart nhưng đạt vị trí thứ 13 trên NZ Hot Singles Chart.[203]
  132. ^ "The Lakes" không xếp hạng trên UK Singles Chart nhưng đạt vị trí thứ 21 trên UK Singles Downloads Chart.[204]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “10 Life mantras by Taylor Swift to live by”. India Today. 13 tháng 12 năm 2016. Bản gốc lưu trữ 9 tháng 2 năm 2019. Truy cập 7 tháng 2 năm 2019.
  2. ^ “Top Artists (Digital Singles)”. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ. Bản gốc lưu trữ 26 tháng 1 năm 2016. Truy cập 1 tháng 2 năm 2016.
  3. ^ Caulfield, Keith (ngày 20 tháng 11 năm 2017). “Taylor Swift's 'Reputation' Debuts at No. 1 on Billboard 200 Albums Chart”. Billboard. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2017.
  4. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z aa ab ac ad ae af ag ah Trust, Gary (ngày 26 tháng 11 năm 2017). “Ask Billboard: Taylor Swift's Career Album & Song Sales”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 11 năm 2017. Truy cập 27 tháng 11 năm 2017.
  5. ^ a b c Trust, Gary (ngày 14 tháng 7 năm 2019). “Ask Billboard: Taylor Swift's Career Sales & Streaming Totals, From 'Tim McGraw' to 'You Need to Calm Down'”. Billboard.
  6. ^ Trust, Gary (29 tháng 10 năm 2009). “Chart Beat Thursday: Taylor Swift, Tim McGraw Linked Again”. Billboard. Truy cập 11 tháng 3 năm 2019.
  7. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z aa ab ac ad ae af ag ah ai aj ak al am an ao ap aq ar as at au av aw ax ay az ba bb bc bd be bf bg bh bi bj bk bl bm bn bo bp bq br bs “American certifications – Taylor Swift” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ.
  8. ^ a b c d e f “Taylor Swift – Chart History: Hot 100”. Billboard. Bản gốc lưu trữ 8 tháng 11 năm 2017. Truy cập 22 tháng 11 năm 2019.
  9. ^ a b c d e “Taylor Swift – Chart History: Billboard 200”. Billboard. Bản gốc lưu trữ 20 tháng 11 năm 2017. Truy cập 22 tháng 11 năm 2019.
  10. ^ Caulfield, Keith (6 tháng 1 năm 2010). “Taylor Swift Edges Susan Boyle For 2009's Top-Selling Album”. Billboard. Truy cập 5 tháng 11 năm 2019.
  11. ^ Pietroluongo, Silvio (12 tháng 11 năm 2009). “Rihanna's 'Roulette' Lands In Hot 100's Top 10”. Billboard. Truy cập 3 tháng 1 năm 2019.
  12. ^ Pietroluongo, Silvio (27 tháng 1 năm 2010). “Taylor Swift Swipes Female Download Record; Haiti Tracks Chart”. Billboard. Truy cập 30 tháng 1 năm 2019.
  13. ^ Apodaca, Joseph. “Billboard names Taylor Swift 2014's No. 1 music Money Maker — see who made the top 10”. KABC-TV. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 5 năm 2016. Truy cập 19 tháng 6 năm 2017.
  14. ^ Keith Caulfield (4 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift's "1989" debuts with 1.287 million copies sold”. Billboard. Truy cập 4 tháng 11 năm 2019.
  15. ^ Trust, Gary (27 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift's 'Shake It Off' Debuts At No. 1 On Hot 100”. Billboard. Truy cập 27 tháng 10 năm 2019.
  16. ^ Trust, Gary (12 tháng 11 năm 2009). “Taylor Swift Tallies 70th Hot 100 Hit, Tying Nicki Minaj for Second-Most Among Women”. Billboard. Truy cập 19 tháng 12 năm 2019.
  17. ^ Sutherland, Mark (ngày 2 tháng 9 năm 2019). “Why Taylor Swift's new album shows the benefits of artists being in control”. Music Week. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2019.
  18. ^ a b “Taylor Swift – Chart History: Canadian Albums”. Billboard. Bản gốc lưu trữ 7 tháng 12 năm 2017. Truy cập 22 tháng 11 năm 2017.
  19. ^ “charts.de: Taylor Swift” (bằng tiếng Đức). charts.de. Bản gốc lưu trữ 26 tháng 8 năm 2014. Truy cập 23 tháng 6 năm 2019.
  20. ^ a b c d e “Discography Taylor Swift”. Irish Charts. Bản gốc lưu trữ 23 tháng 3 năm 2012. Truy cập 2 tháng 11 năm 2019.
  21. ^ a b c d “Taylor Swift”. Official Charts Company. Bản gốc (select "Albums" or "Singles") lưu trữ 2 tháng 6 năm 2016. Truy cập 20 tháng 6 năm 2016.
  22. ^ a b c d e “Discography Taylor Swift”. New Zealand Charts. Bản gốc lưu trữ 23 tháng 3 năm 2012. Truy cập 2 tháng 1 năm 2019.
  23. ^ a b c テイラー・スウィフト (bằng tiếng Nhật). Oricon. Lưu trữ bản gốc 5 tháng 9 năm 2013. Truy cập 8 tháng 9 năm 2019.
  24. ^ a b c “Discographie Taylor Swift” (bằng tiếng Pháp). lescharts.com. Bản gốc lưu trữ 16 tháng 3 năm 2019. Truy cập 20 tháng 6 năm 2016.
  25. ^ a b c Thứ hạng cao nhất tại Thụy Điển:
    • Tất cả trừ "...Ready for It?": “Discography Taylor Swift”. Swedish Charts. Bản gốc lưu trữ 23 tháng 3 năm 2012. Truy cập 11 tháng 7 năm 2019.
    • "...Ready for It?": “Swedish Singles Top 100 2017-09-15”. Swedish Charts. Bản gốc lưu trữ 2 tháng 11 năm 2017. Truy cập 22 tháng 11 năm 2019.
  26. ^ “Discography Taylor Swift”. ARIA Charts. Bản gốc lưu trữ 23 tháng 2 năm 2012. Truy cập 2 tháng 1 năm 2019.
  27. ^ “Taylor Swift: Taylor Swift: Music”. ASIN B0014I4KH6. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2011.
  28. ^ “Taylor Swift's Worldwide Album Sales Top 20 Million”. CMT. 31 tháng 3 năm 2011. Truy cập 1 tháng 5 năm 2019.
  29. ^ Caulfield, Keith (ngày 25 tháng 10 năm 2020). “Taylor Swift's 'Folklore' Becomes First Million-Selling Album of 2020 in U.S.”. Billboard. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2020.
  30. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z aa ab ac ad ae af ag “Canada certifications – Taylor Swift”. Music Canada.
  31. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z aa “Britain certifications – Taylor Swift” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Nhập Taylor Swift vào khung "Search BPI Awards" rồi nhấn Enter
  32. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2012 Albums”. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Bản gốc lưu trữ 5 tháng 2 năm 2014. Truy cập 5 tháng 11 năm 2017.
  33. ^ “Taylor Swift To Re-Release 'Fearless' With New Songs”. ngày 10 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2020.
  34. ^ a b c d “Nine years on, Taylor Swift's 'Fearless' is certified Diamond for U.S. sales of 10 million”. The Music Network. 12 tháng 12 năm 2017. Truy cập 1 tháng 5 năm 2019.
  35. ^ a b c d e f g h i Copsey, Rob (26 tháng 4 năm 2019). “Taylor Swift's Official Top 20 biggest singles in the UK revealed”. Official Charts Company. Truy cập 26 tháng 4 năm 2019.
  36. ^ a b c “Gold-/Platin-Datenbank (Taylor Swift)” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie.
  37. ^ “2009 Certification Awards – Multi Platinum”. Hiệp hội thu âm nhạc Ireland. Truy cập 28 tháng 11 năm 2019.
  38. ^ a b “Latest Gold / Platinum Albums”. Radioscope. Bản gốc lưu trữ 24 tháng 7 năm 2011. Truy cập 5 tháng 10 năm 2012.
  39. ^ ゴールドディスク認定作品一覧 2010年2月 (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản. Truy cập 8 tháng 9 năm 2019.
  40. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2015 Albums”. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc.
  41. ^ Wyland, Sarah (20 tháng 9 năm 2011). “Taylor Swift Celebrates Nashville Homecoming”. Great American Country. Bản gốc lưu trữ 4 tháng 11 năm 2015. Truy cập 23 tháng 9 năm 2011.
  42. ^ Williams, John (3 tháng 11 năm 2010). “Taylor Swift shakes up charts”. JAM! Music. Canoe.ca. Truy cập 17 tháng 4 năm 2019.
  43. ^ Jones, Alan (19 tháng 1 năm 2015). “Official Charts Analysis: Uptown Funk holds on to No.1 for fifth week with sales of 125,948”. Music Week. Bản gốc lưu trữ 21 tháng 1 năm 2015. Truy cập 9 tháng 11 năm 2019.
  44. ^ “2010 Certification Awards – Gold”. Hiệp hội Thu âm Nhạc Ireland. Truy cập 28 tháng 11 năm 2010.
  45. ^ “ゴールドディスク認定作品一覧 2010年12月” (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2013.
  46. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2010 Albums”. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Úc. Truy cập 19 tháng 1 năm 2019.
  47. ^ Adams, Cameron (8 tháng 5 năm 2013). “Taylor Swift to play stadiums on Australian Red tour”. The Advertiser. Bản gốc lưu trữ 10 tháng 7 năm 2015. Truy cập 9 tháng 5 năm 2019.
  48. ^ Doanh số album Red tại Nhật Bản:
    • Năm 2012: 年間アルバムヒットチャート 2012年(平成24年) (bằng tiếng Nhật). Oricon. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 11 năm 2012. Truy cập 26 tháng 12 năm 2019.
    • Năm 2013: 年間アルバムヒットチャート 2013年(平成25年) (bằng tiếng Nhật). Oricon. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 11 năm 2013. Truy cập 26 tháng 12 năm 2019.
  49. ^ “2012 Certification Awards – Platinum”. Hiệp hội Thu âm Nhạc Ireland. Truy cập 28 tháng 11 năm 2019.
  50. ^ “NZ Top 40 Albums Chart – ngày 29 tháng 10 năm 2012”. Recorded Music NZ. Truy cập 5 tháng 11 năm 2019.
  51. ^ ゴールドディスク認定作品一覧 2013年4月 (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản. Truy cập 8 tháng 9 năm 2019.
  52. ^ a b “Albums – Taylor Swift” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2019. Truy cập 27 tháng 9 năm 2019.
  53. ^ “Taylor Swift Red” (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. Truy cập 4 tháng 7 năm 2019.
  54. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2014 Albums”. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc.
  55. ^ “IFPI Digital Music Report 2015” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 10 tháng 3 năm 2016. Truy cập 6 tháng 10 năm 2019.
  56. ^ “IFPI Global Music Report 2016” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 30 tháng 7 năm 2016. Truy cập 6 tháng 10 năm 2019.
  57. ^ “ANUARIO SGAE DE LAS ARTES ESCÉNICAS, MUSICALES Y AUDIOVISUALES 2017 - MÚSICA GRABADA” (PDF) (bằng tiếng Tây Ban Nha). Truy cập 6 tháng 10 năm 2019.
  58. ^ Farrell, David (13 tháng 11 năm 2017). “First Day Sales For Swift's 'Reputation' Through The Roof”. FYI Music. Truy cập 14 tháng 11 năm 2019.
  59. ^ Doanh số của album 1989 tại Nhật Bản:
    • Năm 2014: “2014 Year-End Oricon” (bằng tiếng Nhật). Oricon. Bản gốc lưu trữ 12 tháng 7 năm 2018. Truy cập 7 tháng 2 năm 2019.
    • Năm 2015: “2015 Year-End Oricon” (bằng tiếng Nhật). Oricon. Bản gốc lưu trữ 12 tháng 7 năm 2018. Truy cập 7 tháng 2 năm 2019.
  60. ^ a b Ruelle, Yohann (22 tháng 12 năm 2017). “The 2017 albums: Taylor Swift builds his own 'Reputation'” (bằng tiếng Pháp). Pure Charts. Truy cập 17 tháng 4 năm 2019.
  61. ^ “New Zealand album certifications”. Recorded Music NZ.
  62. ^ ゴールドディスク認定作品一覧 2015年3月 (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản. Truy cập 13 tháng 4 năm 2019.
  63. ^ a b “Sveriges Officiella Topplista” (To access, enter the search parameter "Taylor Swift" and select "Search by Keyword") (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. Truy cập 2 tháng 9 năm 2019.
  64. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2019 Albums”. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Úc. Truy cập 20 tháng 8 năm 2019.
  65. ^ “IFPI Global Music Report 2018” (PDF). International Federation of the Phonographic Industry. tr. 9. Bản gốc (PDF) lưu trữ 24 tháng 4 năm 2018. Truy cập 25 tháng 4 năm 2018.
  66. ^ “Taylor Swift's 'Reputation' Is Now A Platinum Album”. FYIMusicNews. 20 tháng 11 năm 2017. Truy cập 20 tháng 11 năm 2017.
  67. ^ Jones, Alan (ngày 17 tháng 11 năm 2017). “International Charts Analysis: Taylor Swift dominates around the globe”. Music Week. Truy cập 8 tháng 5 năm 2019.
  68. ^ Cashmere, Paul (20 tháng 11 năm 2017). “Taylor Swift Album Comes In Third Biggest Debut Behind Ed Sheeran and Pink”. Noise11. Truy cập 22 tháng 11 năm 2017.
  69. ^ “New Zealand album certifications – Taylor Swift – Reputation”. Recorded Music NZ.
  70. ^ ゴールドディスク認定作品一覧 2018年3月 (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản. Truy cập 10 tháng 5 năm 2018.
  71. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2019 Albums”. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Úc. Truy cập 26 tháng 8 năm 2019.
  72. ^ Copsey, Rob (30 tháng 8 năm 2019). “Taylor Swift scores fourth UK Number 1 album with Lover”. Official Charts Company. Truy cập 31 tháng 8 năm 2019.
  73. ^ 月間 アルバムランキング: 2019年08月度 [Monthly CD Album Ranking for August 2019] (bằng tiếng Nhật). Oricon. Bản gốc lưu trữ 25 tháng 9 năm 2019. Truy cập 25 tháng 9 năm 2019.
  74. ^ “Top Albums: Vitaa et Slimane au sommet, Lorenzo brille, Elsa Esnoult devant Taylor Swift”. chartsinfrance.net. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2019.
  75. ^ “New Zealand album certifications – Taylor Swift – Lover”. Recorded Music NZ.
  76. ^ “ARIA Australian Top 50 Albums”. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Úc. 4 tháng 11 năm 2019. Truy cập 2 tháng 11 năm 2019.
  77. ^ “New Zealand album certifications – Taylor Swift – Folklore”. Recorded Music NZ.
  78. ^ “Year-End Report: U.S. 2020” (PDF). Billboard. MRC Data: 46, 47. tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2021.
  79. ^ Lỗi chú thích: Thẻ sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Red TV US
  80. ^ Lỗi chú thích: Thẻ sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên CAN 2020
  81. ^ Lỗi chú thích: Thẻ sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên CAN 2021
  82. ^ “Britain album certifications – Taylor Swift – Evermore” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry.
  83. ^ “Denmark album certifications – Taylor Swift – Evermore”. IFPI Đan Mạch.
  84. ^ “New Zealand Album Certifications-Taylor Swift-Evermore”. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2021.
  85. ^ Kreps, Daniel (ngày 23 tháng 4 năm 2020). “Taylor Swift Decries Impending Release of Unauthorized 2008 Live Album”. Rolling Stone. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2020.
  86. ^ “Reputation Stadium Tour Surprise song playlist”. AllMusic. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2019.
  87. ^ “Taylor Swift publica playlist especial como despedida da turnê”. portalpopline. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2019.
  88. ^ “iTunes Live from SoHo by Taylor Swift”. iTunes Store. Truy cập 2 tháng 1 năm 2019.
  89. ^ “Live from SoHo”. Taylor Swift's official website. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 12 năm 2012. Truy cập 19 tháng 5 năm 2015.
  90. ^ “Rhapsody Originals”. Rhapsody. Bản gốc lưu trữ 2 tháng 2 năm 2018. Truy cập 31 tháng 1 năm 2018.
  91. ^ “Taylor Swift Records "Delicate" and Earth, Wind & Fire's "September" for Spotify Singles”. Spotify. 13 tháng 4 năm 2018. Bản gốc lưu trữ 24 tháng 4 năm 2018. Truy cập 24 tháng 4 năm 2018.
  92. ^ Park, Andrea (13 tháng 4 năm 2018). “Taylor Swift drops two new songs on Spotify Singles”. CBS. Bản gốc lưu trữ 24 tháng 4 năm 2018. Truy cập 24 tháng 4 năm 2018.
  93. ^ a b c d “Taylor Swift – Chart History: Billboard Canadian Hot 100”. Billboard. Bản gốc lưu trữ 10 tháng 10 năm 2017. Truy cập 22 tháng 11 năm 2019.
  94. ^ a b “Discography Taylor Swift”. Danish Charts. Bản gốc lưu trữ 21 tháng 10 năm 2013. Truy cập 21 tháng 10 năm 2019.
  95. ^ a b Thứ hạng bài hát cao nhất tại Nhật Bản:
    • Tất cả trừ "Love Story", "You Belong with Me", "Today Was a Fairytale" và "Mine": “Taylor Swift – Chart History: Japan Hot 100”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 7 năm 2015. Truy cập 30 tháng 7 năm 2019.
    • "Love Story": “Japan Hot 100: Week of ngày 6 tháng 7 năm 2009”. Billboard Japan. Truy cập 30 tháng 7 năm 2019.
    • "You Belong with Me": “Japan Hot 100: Week of ngày 15 tháng 2 năm 2010”. Billboard Japan. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2015.
    • "Today Was a Fairytale": “Japan Hot 100: Week of ngày 22 tháng 2 năm 2010”. Billboard Japan. Truy cập 30 tháng 7 năm 2019.
    • "Mine": “Japan Hot 100: Week of ngày 15 tháng 11 năm 2010”. Billboard Japan. Truy cập 30 tháng 7 năm 2019.
  96. ^ “swedishcharts.com - Discography Taylor Swift”. swedishcharts.com. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2019.
  97. ^ a b c Thứ hạng đĩa đơn cao nhất tại Úc:
    • Tất cả trừ "Crazier", "Half of My Heart", "Sparks Fly", "Ours", "Highway Don't Care" và "Wonderland": “Discography Taylor Swift”. ARIA Charts. Truy cập 2 tháng 1 năm 2019.
    • "Crazier": “The ARIA Report: Issue 1004 (Week Commencing ngày 25 tháng 5 năm 2009)” (PDF). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Úc. tr. 4. Truy cập 5 tháng 10 năm 2019.
    • "Half of My Heart": “The ARIA Report: Issue 1065 (Week Commencing ngày 26 tháng 7 năm 2010)” (PDF). Australian Recording Industry Association. tr. 4. Truy cập 5 tháng 10 năm 2019.
    • "Sparks Fly" và "Ours": “The ARIA Report: Issue 1080 (Week Commencing ngày 8 tháng 11 năm 2010)” (PDF). Australian Recording Industry Association. tr. 2. Truy cập 5 tháng 10 năm 2019.
    • "Highway Don't Care": “The ARIA Report: Issue 1199 (Week Commencing ngày 18 tháng 2 năm 2013)” (PDF). Australian Recording Industry Association. tr. 2. Truy cập 9 tháng 12 năm 2019.
    • "Wonderland": Ryan, Gavin (1 tháng 11 năm 2014). “Ed Sheeran Tops ARIA Singles For Third Week”. Noise11. Lưu trữ bản gốc 6 tháng 11 năm 2014. Truy cập 2 tháng 11 năm 2019.
  98. ^ Jones, Alan (27 tháng 10 năm 2014). “Official Charts Analysis: Trainor matches Clean Bandit for longest-running No.1 single of 2014”. Music Week. Intent Media. Truy cập 2 tháng 4 năm 2018.
  99. ^ “Certificeringer”. ifpi.dk. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2013.
  100. ^ a b c “Latest Gold / Platinum Singles”. Radioscope. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2012.
  101. ^ a b c d e “ARIA Charts – Accreditations – 2015 singles”. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc.
  102. ^ a b c d “ARIA Charts – Accreditations – 2014 singles”. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc.
  103. ^ “一般社団法人 日本レコード協会|各種統計”. RIAJ Digital Track Chart. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2013.
  104. ^ a b “ARIA Charts – Accreditations – 2010 Singles”. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Úc. Truy cập 5 tháng 11 năm 2019.
  105. ^ “一般社団法人 日本レコード協会|各種統計”. RIAJ Digital Track Chart. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2013.
  106. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s “Taylor Swift – Chart History: Bubbling Under Hot 100”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2014.
  107. ^ “NZ Top 40 Singles Chart – ngày 30 tháng 4 năm 2012”. Recorded Music NZ. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2019.
  108. ^ “Certificeringer”. ifpi.dk. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2019.
  109. ^ “NZ Top 40 Singles Chart – ngày 7 tháng 1 năm 2013”. Recorded Music NZ. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2019.
  110. ^ a b “ja:レコード協会調べ 1月度有料音楽配信認定 <略称:1月度認定>” (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản. Lưu trữ bản gốc 26 tháng 3 năm 2015. Truy cập 22 tháng 3 năm 2019.
  111. ^ “TAYLOR SWIFT We Are Never Ever Getting Back Together” (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2014.
  112. ^ a b c d “ARIA Charts – Accreditations – 2013 Singles”. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Úc. Truy cập 16 tháng 2 năm 2019.
  113. ^ “Italian single certifications – Taylor Swift – We Are Never Ever Getting Back Together” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Truy cập 3 tháng 2 năm 2019.
  114. ^ Trust, Gary (ngày 12 tháng 9 năm 2012). “Taylor Swift's 'Never' Is Hot 100's Longest-Leading Country Song Since 1980”. Billboard. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2019.
  115. ^ Jones, Alan (28 tháng 12 năm 2014). “Official Charts Analysis: Sheeran's x scores 12th week at No.1 with sales of 211,168”. Music Week. Intent Media. Bản gốc lưu trữ 19 tháng 7 năm 2018. Truy cập 2 tháng 4 năm 2019.
  116. ^ “The most sold Singles in 2013”. InfoDisc (bằng tiếng Pháp). Bản gốc lưu trữ 29 tháng 3 năm 2019. Truy cập 18 tháng 4 năm 2019.
  117. ^ “Certificeringer”. ifpi.dk. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2019.
  118. ^ “Gold-/Platin-Datenbank (Taylor Swift; 'I Knew You Were Trouble')” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie.
  119. ^ “NZ Top 40 Singles Chart – ngày 21 tháng 1 năm 2013”. Recorded Music NZ. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2019.
  120. ^ “TAYLOR SWIFT I Knew You Were Trouble” (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2019.
  121. ^ “Certificeringer”. ifpi.dk. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2019.
  122. ^ “NZ Top 40 Singles Chart – ngày 22 tháng 4 năm 2013”. Recorded Music NZ. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2019.
  123. ^ “American certifications – McGraw, Tim”. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2019.
  124. ^ “NZ Top 40 Singles Chart – ngày 22 tháng 9 năm 2013”. Recorded Music NZ. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2019.
  125. ^ Trust, Gary (1 tháng 1 năm 2013). “Chart Moves: Taylor Swift Makes 'Sweet' Start, Tyga Teams With Justin Bieber on Hot 100”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 11 năm 2013. Truy cập 30 tháng 4 năm 2019.
  126. ^ Bliss, Karen (27 tháng 11 năm 2015). “Nielsen: Canada Loved Taylor Swift, Streaming Music and, Yep, Vinyl in 2014”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập 17 tháng 4 năm 2019.
  127. ^ “The most sold Songs in 2014”. InfoDisc (bằng tiếng Pháp). Bản gốc lưu trữ 24 tháng 8 năm 2018.
  128. ^ a b “The most sold Songs in 2015”. InfoDisc (bằng tiếng Pháp). Bản gốc lưu trữ 18 tháng 4 năm 2019.
  129. ^ “Certificeringer - Taylor Swift - Shake It Off”. IFPI Denmark. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2014.
  130. ^ “NZ Top 40 Singles Chart – ngày 9 tháng 2 năm 2015”. Recorded Music NZ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2019.
  131. ^ “Gold Disc 2015年10月度” (PDF) (Bulletin) (bằng tiếng Nhật). 673. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản. 20 tháng 11 năm 2015. tr. 14. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 12 năm 2015. Truy cập 11 tháng 12 năm 2019.
  132. ^ “Taylor Swift — Shake It Off” (bằng tiếng Thụy Điển). Grammofon Leverantörernas Förening. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2019.
  133. ^ “Italian single certifications – Taylor Swift – Shake it off” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Truy cập 3 tháng 2 năm 2019.
  134. ^ Myers, Justin (7 tháng 11 năm 2015). “Taylor Swift's 1989 one year on”. Official Charts Company. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 6 năm 2018. Truy cập 2 tháng 4 năm 2018.
  135. ^ “NZ Top 40 Singles Chart – ngày 22 tháng 12 năm 2014”. Recorded Music NZ. Truy cập 19 tháng 12 năm 2014.
  136. ^ “Italian single certifications – Taylor Swift – Blank Space” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Truy cập 25 tháng 2 năm 2019.
  137. ^ “New Zealand single certifications – Taylor Swift – Style”. Recorded Music NZ.
  138. ^ “New Zealand single certifications – Taylor Swift feat. Kendrick Lamar – Bad Blood”. Recorded Music NZ.
  139. ^ Ryan, Gavin (5 tháng 12 năm 2015). “ARIA Singles: Adele 'Hello' Spends Sixth Week at No 1”. Noise11. Truy cập 5 tháng 12 năm 2019.
  140. ^ “New Zealand single certifications”. Recorded Music NZ.
  141. ^ “ARIA Australian Top 50 Singles”. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Úc. 30 tháng 11 năm 2015. Truy cập 28 tháng 11 năm 2019.
  142. ^ Paul Grein (23 tháng 10 năm 2014). “Chart Watch: Women Overpower Men, Week 7”. Yahoo!. Truy cập 23 tháng 10 năm 2019.
  143. ^ “A Journal of Musical ThingsWeekly Music Sales Report and Analysis: ngày 22 tháng 10 năm 2014”. A Journal of Musical Things.
  144. ^ Ryan, Gavin (16 tháng 1 năm 2016). “ARIA Singles: Justin Bieber 'Love Yourself' Spends 6th Week at No 1”. Noise11. Truy cập 16 tháng 1 năm 2019.
  145. ^ Ryan, Gavin (23 tháng 4 năm 2016). “ARIA Singles: Gnash 'I Hate U, I Love U' Spends Second Week at No 1”. Noise11. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.
  146. ^ “The most sold Songs in 2017”. InfoDisc (bằng tiếng Pháp). Bản gốc lưu trữ 18 tháng 4 năm 2019.
  147. ^ “Zayn & Taylor Swift "I Don't Wanna Love Forever"”. IFPI Denmark. Lưu trữ bản gốc 19 tháng 4 năm 2017. Truy cập 18 tháng 4 năm 2019.
  148. ^ “New Zealand single certifications – Zayn and Taylor Swift – I Don't Wanna Live Forever”. Recorded Music NZ.
  149. ^ a b “Notre Base de Données: Taylor Swift” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Bản gốc lưu trữ 19 tháng 8 năm 2017. Truy cập 5 tháng 5 năm 2019.
  150. ^ a b c “Sverigetopplistan” (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. Bản gốc (To access, enter the search parameter "Taylor Swift" and select "Search by Keyword") lưu trữ 21 tháng 5 năm 2013. Truy cập 13 tháng 1 năm 2018.
  151. ^ “ARIA Australian Top 50 Singles”. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Úc. 27 tháng 2 năm 2017. Bản gốc lưu trữ 24 tháng 2 năm 2017. Truy cập 25 tháng 2 năm 2017.
  152. ^ “Italian single certifications – Zayn & Taylor Swift – I don't wanna live forever” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Truy cập 3 tháng 2 năm 2019.
  153. ^ a b “Billboard Digital Songs Chart Week Ending ngày 5 tháng 10 năm 2017” (PDF). Nielsen SoundScan. 9 tháng 10 năm 2017. Bản gốc (PDF) lưu trữ 30 tháng 3 năm 2019. Truy cập 10 tháng 4 năm 2019.
  154. ^ “New Zealand single certifications – Taylor Swift – Look What You Made Me Do”. Recorded Music NZ.
  155. ^ a b c d e f g h i “ARIA Charts – Accreditations – 2019 Singles”. Hiệp hội CÔng nghiệp Ghi âm Úc. 16 tháng 8 năm 2019. Truy cập 16 tháng 8 năm 2019.
  156. ^ “Italian single certifications – Taylor Swift – Look What You Made Me Do” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Truy cập 3 tháng 2 năm 2019.
  157. ^ “Taylor Swift propose « End Game » aux radios françaises, un titre partagé avec Ed Sheeran et Future”. Aficia. Lưu trữ bản gốc 17 tháng 11 năm 2017. Truy cập 17 tháng 11 năm 2017.
  158. ^ a b “NZ Heatseeker Singles Chart”. Recorded Music NZ. 11 tháng 12 năm 2017. Bản gốc lưu trữ 8 tháng 12 năm 2017. Truy cập 8 tháng 12 năm 2017.
  159. ^ Trust, Gary; Asker, Jim (14 tháng 11 năm 2017). “Taylor Swift's 'New Year's Day' Goes to Country Radio: Is Country Ready for It?”. Billboard. Bản gốc lưu trữ 23 tháng 4 năm 2018. Truy cập 12 tháng 3 năm 2018.
  160. ^ “Taylor Swift Chart History: Hot Country Songs”. Billboard. Bản gốc lưu trữ 20 tháng 11 năm 2017. Truy cập 13 tháng 1 năm 2018.
  161. ^ “BBC – Radio 1 – Playlist”. BBC Radio 1. Bản gốc lưu trữ 12 tháng 1 năm 2018. Truy cập 12 tháng 3 năm 2018.
  162. ^ Trust, Gary (30 tháng 10 năm 2017). “Taylor Swift Ties Rihanna for Most Digital Song Sales No. 1s With Debut of 'Gorgeous'”. Billboard. Truy cập 17 tháng 4 năm 2019.
  163. ^ “American certifications – Taylor Swift – Delicate” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ.
  164. ^ “Uncharted: Taylor Swift prepares for Aus tour with next radio single”. The Music Network. 10 tháng 9 năm 2018. Truy cập 6 tháng 5 năm 2019.
  165. ^ “NZ Hot Singles Chart”. Recorded Music NZ. ngày 24 tháng 9 năm 2018. Bản gốc lưu trữ 21 tháng 9 năm 2018. Truy cập 21 tháng 9 năm 2018.
  166. ^ “ARIA Australian Top 40 Digital Tracks” (PDF). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Úc. 22 tháng 10 năm 2018. Truy cập 20 tháng 10 năm 2018.
  167. ^ “Taylor Swift 'Road to Reputation' Screening”. auspOp. 27 tháng 9 năm 2018. Bản gốc lưu trữ 29 tháng 9 năm 2018. Truy cập 29 tháng 9 năm 2018.
  168. ^ Sisario, Ben (ngày 7 tháng 5 năm 2019). “Taylor Swift's 'Me!' Is Thwarted by a Fifth No. 1 for 'Old Town Road'”. nytimes. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2019.
  169. ^ Snapes, Laura (ngày 3 tháng 5 năm 2019). “Stormzy soars past Taylor Swift to score first UK No 1 single”. The Guardian. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2019.
  170. ^ a b “New Zealand single certifications – Taylor Swift – Me! & You Need to Calm Down”. Recorded Music NZ.
  171. ^ “ARIA Australian Top 50 Singles”. Australian Recording Industry Association. ngày 10 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2019.
  172. ^ “New Zealand single certifications – Taylor Swift – Lover”. Recorded Music NZ.
  173. ^ Aniftos, Rania (ngày 15 tháng 11 năm 2019). “Taylor Swift Releases 'Beautiful Ghosts,' Co-Written With Andrew Lloyd Webber for 'Cats' Film”. Billboard. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2019.
  174. ^ “NZ Hot Singles Chart”. Recorded Music NZ. 25 tháng 11 năm 2019. Truy cập 23 tháng 11 năm 2019.
  175. ^ “ARIA Australian Top 40 Digital Tracks” (PDF). Australian Recording Industry Association. 25 tháng 11 năm 2019. Truy cập 23 tháng 11 năm 2019.
  176. ^ “IRMA – Irish Charts”. Irish Recorded Music Association. Truy cập 17 tháng 9 năm 2019.
  177. ^ “NZ Hot Singles Chart”. Recorded Music NZ. 16 tháng 12 năm 2019. Truy cập 14 tháng 12 năm 2019.
  178. ^ “Taylor Swift's New Single "The Man" Set To Impact Pop Radio On January 28”. Headline Planet (bằng tiếng Anh). ngày 24 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2020.
  179. ^ “Official Singles Downloads Chart Top 100 ngày 31 tháng 7 năm 2020 - ngày 6 tháng 8 năm 2020”. Official Charts Company. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2020.
  180. ^ “American single certifications – Boys Like Girls – Two Is Better Than One” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ. Nếu cần, nhấn Advanced Search, dưới mục Format chọn Single rồi nhấn Search
  181. ^ “American single certifications – John Mayer – Half of My Heart” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ. Nếu cần, nhấn Advanced Search, dưới mục Format chọn Single rồi nhấn Search
  182. ^ “American single certifications – B.o.B – Both of Us” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ. Nếu cần, nhấn Advanced Search, dưới mục Format chọn Single rồi nhấn Search
  183. ^ “NZ Top 40 Singles Chart – ngày 6 tháng 8 năm 2012”. Recorded Music NZ. Truy cập 5 tháng 10 năm 2012.
  184. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2012 Singles”. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Úc. Truy cập 17 tháng 12 năm 2019.
  185. ^ “NZ Heatseeker Singles Chart”. Recorded Music NZ. 30 tháng 4 năm 2018. Bản gốc lưu trữ 22 tháng 4 năm 2018. Truy cập 27 tháng 4 năm 2018.
  186. ^ Bjorke, Matt (13 tháng 12 năm 2018). “Top 30 Digital Country Singles Chart: ngày 13 tháng 11 năm 2018”. RoughStock. Truy cập 28 tháng 11 năm 2018.
  187. ^ “I Heart ? – Taylor Swift | Release Information, Reviews and Credits”. AllMusic. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2014.
  188. ^ a b c “Ask Billboard: Taylor Swift's Career Sales”. Billboard. ngày 25 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2019.
  189. ^ Caulfield, Keith; Pietroluongo, Silvio (ngày 14 tháng 10 năm 2010). “Chart Moves: 'Glee,' Mavis Staples, Stephen Colbert, 'Social Network,' Pink”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2010.
  190. ^ Trust, Gary (13 tháng 11 năm 2017). “Taylor Swift Notches Fourth Digital Song Sales No. 1 From 'Reputation' With 'Call It What You Want'”. Billboard. Truy cập 17 tháng 4 năm 2019.
  191. ^ “Spotify Singles – Taylor Swift”. Spotify. Lưu trữ bản gốc 12 tháng 4 năm 2018. Truy cập 12 tháng 4 năm 2018.
  192. ^ “Veckolista Heatseeker, vecka 31”. Sverigetopplistan. Truy cập 3 tháng 8 năm 2019.
  193. ^ “Official Irish Singles Chart Top 50”. Official Charts Company. 7 tháng 2 năm 2020. Truy cập 8 tháng 2 năm 2020.
  194. ^ “NZ Hot Singles Chart”. Recorded Music NZ. 10 tháng 2 năm 2020. Truy cập 8 tháng 2 năm 2020.
  195. ^ “ARIA Australian Top 50 Singles”. Hiệp hội CÔng nghiệp Ghi âm Úc. 10 tháng 2 năm 2020. Truy cập 8 tháng 2 năm 2020.
  196. ^ Vị trí bài hát cao nhất tại Vương quốc Liên hiệp Anh:
    • "Breathless": “CHART: CLUK Update 6.02.2010 (wk4)”. zobbel.de. Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập 21 tháng 2 năm 2017.
  197. ^ “Official Scottish Singles Sales Chart Top 100: ngày 30 tháng 8 năm 2019 – ngày 5 tháng 9 năm 2019”. Official Charts Company. Truy cập 31 tháng 8 năm 2019.
  198. ^ Peak positions for other charted songs in Australia:
    • "Jump Then Fall": “The ARIA Report: Issue 1080 (Week Commencing ngày 8 tháng 11 năm 2010)” (PDF). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Úc. tr. 2. Truy cập 5 tháng 10 năm 2019.
    • Bài hát từ 1989: Ryan, Gavin (1 tháng 11 năm 2014). “Ed Sheeran Tops ARIA Singles For Third Week”. Noise11. Truy cập 2 tháng 11 năm 2014.
  199. ^ a b “NZ Hot Singles Chart”. Recorded Music NZ. ngày 2 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2019.
  200. ^ “Veckolista Heatseeker, vecka 35”. Sverigetopplistan. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2019.
  201. ^ a b c d “Veckolista Heatseeker, vecka 31”. Sverigetopplistan. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2020.
  202. ^ “Taylor Swift – Chart History: Hot Canadian Digital Song Sales”. Billboard. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2020.
  203. ^ “NZ Hot Singles Chart”. Recorded Music NZ. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2020.
  204. ^ “Official Singles Downloads Chart Top 100 ngày 21 tháng 8 năm 2020 - ngày 27 tháng 8 năm 2020”. Official Charts Company. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2020.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

  • Trang web chính thức
  • Taylor Swift trên AllMusic
  • Danh sách đĩa nhạc của Taylor Swift trên Discogs
  • Taylor Swift trên MusicBrainz


Lỗi chú thích: Đã tìm thấy thẻ với tên nhóm “upper-alpha”, nhưng không tìm thấy thẻ tương ứng tương ứng, hoặc thẻ đóng bị thiếu

Taylor Swift is one of the most popular singer-songwriters of the early 21st century. Ans it’s been an incredible few years for the superstar. With each fresh release, the industry rejoices in the expectation of another market-defining sales boom; devoted fans seize on every sentence in her songs or a fresh interpretation of something they already love; and millions of others find simple comfort in powerful pop hits and her increasingly surprising output. Who would honestly have predicted her path from country protégé to pop powerhouse? We pick out the steps along the way with the best Taylor Swift songs.

Listen to the best Taylor Swift songs on Apple Music and Spotify, and scroll down for our 30 essential tracks for Swifties.

30: Back To December

“Back To December” is one of the most tender ballads Taylor Swift has ever recorded. Its yearning elegance sadly saw it side-lined on many international charts, but Taylor’s US fans took the song to heart, lifting it to a No.6 Billboard peak and a respectable showing on the Adult Contemporary chart. It’s hard to believe that this confessional, knowing lyric was penned by a woman then barely in her 20s.

29: Love Story (Taylor’s Version)

The idea of an artist rerecording their back catalog as a means of re-establishing control isn’t entirely new, but Taylor Swift’s campaign to reassert control has taken the concept to a new level. In issuing a new version of her most recognized early hit “Love Story (Taylor’s Version),” she had a political point to make as much as a musical one. Taken from Fearless (Taylor’s Version) it topped country charts and featured many of the musicians from the original release. What makes it particularly interesting is the confidence of Taylor’s vocal and a confident mix that anchors that performance brilliantly.

28: Tim Mcgraw

While still at high school, Taylor Swift wrote ”Tim McGraw,” a tender ballad that plays to her belief that music offers the tonic to most of life’s ills. It’s a theme Taylor would return to many times in the years ahead, with the veteran country star’s music this time offering her the support she sought amid an early romantic crisis and providing inspiration for the song. It became the track the Big Machine label seized on when it signed the teenager when she was just 14. Co-written with long-term early collaborator Liz Rose, ”Tim McGraw” justified the label’s belief when it hit the stateside country charts in the summer of 2006, and even crossed over onto the US Billboard Hot 100, peaking at No.40 in an early hint of what the best Taylor Swift songs would be capable of.

27: Gorgeous

After the edgier “Look What You Made Me Do” from Reputation, “Gorgeous” emerged as a midtempo ballad that harks back to a sweeter, more accessible Taylor Swift. Pop radio immediately embraced the Max Martin/Shellback collaboration and taken together both singles showcased Reputation as a bold, new canvass for Taylor’s stylistic diversity.

26: Safe And Sound

Launching in 2011, The Hunger Games was a huge international film franchise based on a trio of best-selling novels. Artists were clamoring to get their work onto the soundtracks, but Taylor’s rocky contribution, and one of her two soundtrack contributions, with “Safe And Sound,” recorded with alternative country act The Civil Wars, showed that Taylor was now finally starting to secure more favorable press.

Safe & Sound feat. The Civil Wars (The Hunger Games: Songs From District 12 And Beyond)

Click to load video

25: Wildest Dreams

Following the high-octane power-pop of 1989’s initial releases, “Wildest Dreams,” promoted in August 2015, was a timely diversion into calmer waters. The ethereal dream-pop anthem, showcased in an Out Of Africa-inspired video co-starring Scott Eastwood, presented Taylor at her most seductive. It was another big hit and, in remixed form, became her first song to top the Billboard dance radio listings, proving that the best Taylor Smith songs can easily take her into new territory.

24: Red

Pushed as Red’s second promotional single, the album’s title track was a return to her Nashville roots, dished up with a neat, contemporary pop twist. By this stage, Taylor was only really competing with herself on the country charts, and “Red” actually got stuck behind one of her own tracks near the top of the US Hot Country Songs listings.

23: ME!

When, just 18 months after the provocative Reputation, Taylor Swift emerged with another new song, “ME!,” it was a perfectly pitched step back in time: 60s-referencing bubblegum, anthemic 21st-century power-pop, and evergreen country that perfectly suited her. A contribution from Panic! At The Disco’s Brendon Urie added the ballast to rough up the sweeter top notes, which characterize all the obvious peaks of Taylor’s best songs. But it’s the clever blend that brings it all to life. Lyrically, “ME!” marked a return to familiar themes, but the styling was new and added considerable impact to a hook-heavy return to out-and-out traditional pop from Taylor. The pair’s performance at the 2019 Billboard Music Awards remains one of the show’s best openings to date.

22: Người đàn ông tốt hơn

Được viết bởi Taylor Swift cho nhóm Little Big Town của Hoa Kỳ, và được phát hành dưới dạng đĩa đơn đứng đầu bảng xếp hạng quốc gia vào năm 2016, Taylor đã phát hành phiên bản của riêng mình của Better Better Man cho album Red (phiên bản của Taylor) năm 2021 như một phần của chiến dịch của cô-St thiết lập sự kiểm soát sáng tạo của công việc trước đó của cô ấy.Nó có một viên ngọc du dương vinh quang, ghi lại tất cả cảm xúc buồn vui của bản gốc.Red (phiên bản Taylor Taylor) là một bộ sưu tập đáng kể về các bài hát tái hiện đầy tinh thần và một số bài hát hấp dẫn được nâng lên từ tài liệu được tạo ra trong dự án album gốc.

21: Mọi thứ đã thay đổi

Đó là một thực tế đáng buồn đến nỗi rất nhiều biểu tượng nữ mạnh mẽ vẫn còn được đặc trưng bởi những người đàn ông mà họ có thể hoặc không thể tham gia.Cuộc sống tình yêu của Taylor đã tạo ra một sự quan tâm phi thường - và thẳng thắn - quan tâm rộng rãi hơn, nhưng ít nhất mối quan hệ của cô với Ed Sheeran đã tập trung vào công việc mà họ hợp tác.Tất cả mọi thứ đã thay đổi, cũng xuất hiện trên Red và trở thành một điểm nổi bật solo của album hỗ trợ.Các nghệ sĩ phù hợp với giọng hát không thể chối cãi, và bài hát đã trở thành một thành công lớn khác, đặc biệt là ở Anh, nơi nó đạt đến đỉnh điểm ở vị trí số 7.

Taylor Swift - Mọi thứ đã thay đổi ft. Ed Sheeran

Bấm để tải video

20: Người đàn ông

Cắt pop hoành tráng, lởm chởm này được trang trí với một đoạn điệp khúc được làm ướt, đã trở thành một đĩa đơn xứng đáng từ người yêu năm 2019, đã mang lại một số giai điệu nhẹ hơn cho Taylor Taylor làm việc sau danh tiếng đối đầu.Đoạn video dành cho người đàn ông là người ra mắt đạo diễn cho Taylor và dẫn đến việc cô là người phụ nữ đầu tiên giành được hướng đi tốt nhất tại Giải thưởng âm nhạc video MTV trong lịch sử dài của nó.

19: Nước mắt trên cây đàn guitar của tôi

Đây là bước đột phá thực sự của Taylor Swift, đạt được bảng xếp hạng 20 bảng quảng cáo và trở thành một yêu thích trực tiếp.Mặc dù đã chọn được tốc độ từ dòng Tim Tim McGraw, nhưng những giọt nước mắt trên guitar của tôi, trong guitar của tôi, chỉ có một guitar singalong đầu tiên của cô ấy và trở thành một trận đấu vững chắc trong các chương trình trực tiếp đầu tiên của ngôi sao;Hình ảnh của Taylor Sparkling trên sân khấu trong chiếc váy lung linh và đôi giày cao bồi có mặt khắp nơi được liên kết mãi mãi với đường đua.Được đóng gói lại để phát hành quốc tế, nó đã trở thành hit đầu tiên của Taylor Taylor (mặc dù nó đã thất bại trong việc làm cho top 40) và là đĩa đơn xuất hiện tốt nhất từ album đầu tay có tựa đề của cô.

18: Một

Mở đầu năm 2020, văn hóa dân gian đáng ngạc nhiên, một trong những người cũng đã nhướn mày với lời bài hát rõ ràng nhưng không ai nghi ngờ về tính toàn vẹn âm nhạc êm dịu này.Lượt đi theo định hướng dân gian trong lĩnh vực dân gian từ tính khí pop của người yêu đã chiếm được trí tưởng tượng của từ trong những tháng đầu tiên của đại dịch Covid-19, khi cuộc sống cũng được biến thành rất nhiều trên đầu.Được phát hành như một đĩa đơn, một trong những người đã lọt vào top 10 trên toàn cầu.

17: Của tôi

Internet rò rỉ bệnh dịch nhiều nghệ sĩ, và Taylor Swift đã tham gia câu lạc bộ không may đó khi ca khúc chính từ album phòng thu thứ ba của cô, Nói bây giờ, lẻn trực tuyến vào mùa hè năm 2010. Một lần nữa được hỗ trợ bởi một clip quảng cáo mạnh mẽ khác, sau này được đặt tên là Truyền hình Nhạc Quốc giaVideo của năm, Mine Mine, theo nhiều cách, một sự thay đổi tinh tế trở lại với nguồn gốc đất nước thuần khiết của cô.Giống như nhiều bài hát Taylor Swift hay nhất, sự quyến rũ của nó nằm trong khung du dương ổn định của nó, ngay cả khi, nhìn nhận lại, có vẻ như người tạo ra nó có lẽ đang xem xét thay đổi thiết bị để thực sự nâng sự nghiệp của cô lên một tầm cao mới.

16: Máu xấu

Khi một bản phối lại tin đồn của ca khúc album năm 1989, Bad Bad Blood, hóa ra là sự hợp tác với rapper Kendrick Lamar, nhiều người cho rằng Taylor Swift đã đẩy mọi thứ quá xa.Đối với một điều, lời bài hát của bài hát này nói thẳng thắn về một doanh nghiệp bị cáo buộc là Taylor đã trải nghiệm với một nghệ sĩ khác-đó là một chủ đề đủ thô-nhưng ý tưởng rằng người yêu của Mỹ sẽ đẩy âm thanh của cô ấy theo hướng hip-hopCó vẻ liều lĩnh đối với một số.Taylor, tất nhiên, đã biết rõ hơn và ca khúc đã trở thành album thứ ba để đứng đầu các bảng xếp hạng của Hoa Kỳ, trong khi clip quảng cáo lấy cảm hứng từ siêu anh hùng đầy khái niệm, được đóng gói với các vai khách mời, xứng đáng trở thành video của MTV.

Taylor Swift - Bad Blood ft. Kendrick Lamar

Bấm để tải video

20: Người đàn ông

Cắt pop hoành tráng, lởm chởm này được trang trí với một đoạn điệp khúc được làm ướt, đã trở thành một đĩa đơn xứng đáng từ người yêu năm 2019, đã mang lại một số giai điệu nhẹ hơn cho Taylor Taylor làm việc sau danh tiếng đối đầu.Đoạn video dành cho người đàn ông là người ra mắt đạo diễn cho Taylor và dẫn đến việc cô là người phụ nữ đầu tiên giành được hướng đi tốt nhất tại Giải thưởng âm nhạc video MTV trong lịch sử dài của nó.

14: Cardigan

Được phát hành là đĩa đơn chính cho album thứ tám của Taylor Swift, Folklore, Melancholia, Card Cardigan, s slancholia, được tạo ra bởi Taylor với sự hợp tác với nhà sản xuất dự án Aaron Dessner và trở thành người đứng thứ sáu của Taylor ở quê nhà.Có lẽ nhiều tác phẩm hơn là một số tác phẩm tự truyện rõ ràng hơn của cô, bản ballad-rock mềm mại của nó đánh dấu một điểm cao khác trong hành trình nghệ thuật của Taylor, thiết lập sự tự tin ngày càng tăng của cô trên các thể loại.

13: Bạn cần bình tĩnh lại

Trên cơ sở, bạn cần phải bình tĩnh lại, Taylor Taylor Swift đã đạt đến đỉnh cao của sự nghiệp pop của mình cho đến nay.Thông báo thông minh về câu chuyện lá cải của cô ấy trong video - được đặt tên là clip của năm tại Giải thưởng âm nhạc video MTV - cô ấy đã chỉ đạo ánh đèn sân khấu (đôi khi đã đe dọa làm cô ấy mù quáng).Tất nhiên, có một thứ gì đó sâu sắc hơn xảy ra trong thiên tài nặng nề này.Taylor đã thường xuyên sử dụng nền tảng của mình cho một loạt các vấn đề hào phóng, và bài hát này nói lên văn hóa ngày càng khó khăn của thế kỷ 21.Các nghệ sĩ tuyệt vời giải trí với một thông điệp, và Taylor có rất nhiều điều để nói về người yêu nổi bật không thể chối cãi, đã mang lại cho cô một đề cử Grammy cho buổi biểu diễn solo pop hay nhất.

Taylor Swift - Bạn cần bình tĩnh

Bấm để tải video

12: Không gian trống

Vào thời điểm phát hành 1989, Taylor Swift là chủ nhân của video sự kiện.Không gian trống rỗng có thể được ghi nhớ mãi mãi cho clip quảng cáo trong trại cao cổ điển của nó, nhưng bài hát tự đứng lên, dễ dàng giành được vị trí của nó trong số các bài hát Taylor Smith hay nhất.Arch, Biết lời bài hát được phục vụ với một chút hài hước tốt đã cung cấp cho bản nhạc điện tử này lên đỉnh bảng xếp hạng Billboard và bảo đảm Taylor được đề cử nhiều hơn tại Giải thưởng Grammy, cùng với các chiến thắng tại Giải thưởng âm nhạc MTV và Giải thưởng âm nhạc Mỹ.

11: Đảo Coney

Ca khúc thứ chín trong album thứ chín của Taylor Swift, Hồi Coney Island Island là một trong những bài hát thú vị nhất trong các bản song ca của Taylor.Được kết hợp với giọng ca chính Matt Berninger và ban nhạc độc lập The National, bộ phim truyền hình nhà bếp của bài hát của nó là một điểm nổi bật tuyệt vời của 2020 2020 Evermore.National Aaron Aaron Dessner và anh em sinh đôi của anh ta, Bryce, đã giúp tạo ra sự độc lập chiến thắng này đã đưa ra một lựa chọn đáng ngạc nhiên cho việc phát hành duy nhất, thậm chí còn mang lại thái độ ngày càng tốt cho Taylor Taylor đối với những người vẫn muốn dự đoán một chiều đối với công việc của cô.

10: Lắc nó đi

Nếu có một bài hát được cung cấp một tuyên bố theo nghĩa đen cũng như trữ tình, thì Shake Shake it Off là nó.Ripping thoát khỏi nguồn gốc đất nước của cô ấy hoàn toàn, thì Shake Shake Off Off là một cuộc cách mạng pop ngoài và ngoài cho Taylor.Đĩa đơn từ album năm 1989 của cô (được đặt theo tên của năm mà cô được sinh ra), đó là một động thái táo bạo nhưng vẫn chính thống sẽ mãi mãi được nhớ đến như một trong những bài hát Taylor Swift hay nhất mọi thời đại.Sự rung cảm của bài hát đã đánh dấu một sự tái cấu trúc lôi cuốn đã thưởng cho Taylor với bản hit lớn nhất của cô cho đến nay và một vị trí đứng đầu bảng xếp hạng ở quê hương của cô.Trong khi duy trì sự tinh tế của mình vì đã tạo ra những giai điệu hoạt động trên toàn bộ khán giả ngày càng tăng của cô, thì Shake Shake nó đã củng cố câu thần chú rằng các nghệ sĩ dũng cảm nhất luôn đi trước một bước so với khán giả của họ.

Taylor Swift - Lắc nó đi

Bấm để tải video

12: Không gian trống

Vào thời điểm phát hành 1989, Taylor Swift là chủ nhân của video sự kiện.Không gian trống rỗng có thể được ghi nhớ mãi mãi cho clip quảng cáo trong trại cao cổ điển của nó, nhưng bài hát tự đứng lên, dễ dàng giành được vị trí của nó trong số các bài hát Taylor Smith hay nhất.Arch, Biết lời bài hát được phục vụ với một chút hài hước tốt đã cung cấp cho bản nhạc điện tử này lên đỉnh bảng xếp hạng Billboard và bảo đảm Taylor được đề cử nhiều hơn tại Giải thưởng Grammy, cùng với các chiến thắng tại Giải thưởng âm nhạc MTV và Giải thưởng âm nhạc Mỹ.

11: Đảo Coney

Ca khúc thứ chín trong album thứ chín của Taylor Swift, Hồi Coney Island Island là một trong những bài hát thú vị nhất trong các bản song ca của Taylor.Được kết hợp với giọng ca chính Matt Berninger và ban nhạc độc lập The National, bộ phim truyền hình nhà bếp của bài hát của nó là một điểm nổi bật tuyệt vời của 2020 2020 Evermore.National Aaron Aaron Dessner và anh em sinh đôi của anh ta, Bryce, đã giúp tạo ra sự độc lập chiến thắng này đã đưa ra một lựa chọn đáng ngạc nhiên cho việc phát hành duy nhất, thậm chí còn mang lại thái độ ngày càng tốt cho Taylor Taylor đối với những người vẫn muốn dự đoán một chiều đối với công việc của cô.

10: Lắc nó đi

Nếu có một bài hát được cung cấp một tuyên bố theo nghĩa đen cũng như trữ tình, thì Shake Shake it Off là nó.Ripping thoát khỏi nguồn gốc đất nước của cô ấy hoàn toàn, thì Shake Shake Off Off là một cuộc cách mạng pop ngoài và ngoài cho Taylor.Đĩa đơn từ album năm 1989 của cô (được đặt theo tên của năm mà cô được sinh ra), đó là một động thái táo bạo nhưng vẫn chính thống sẽ mãi mãi được nhớ đến như một trong những bài hát Taylor Swift hay nhất mọi thời đại.Sự rung cảm của bài hát đã đánh dấu một sự tái cấu trúc lôi cuốn đã thưởng cho Taylor với bản hit lớn nhất của cô cho đến nay và một vị trí đứng đầu bảng xếp hạng ở quê hương của cô.Trong khi duy trì sự tinh tế của mình vì đã tạo ra những giai điệu hoạt động trên toàn bộ khán giả ngày càng tăng của cô, thì Shake Shake nó đã củng cố câu thần chú rằng các nghệ sĩ dũng cảm nhất luôn đi trước một bước so với khán giả của họ.

6: Chúng tôi không bao giờ trở lại với nhau

Thể hiện không chỉ tính trực tiếp của các bài hát Taylor Swift hay nhất mà còn làm thế nào các nghệ sĩ trẻ có thể khẳng định thẩm quyền về số phận của chính họ, chúng tôi không bao giờ trở lại với nhau, là hương vị đầu tiên của album thứ tư của Taylor, Red.Một cách sáng tạo, bài hát đã đưa ra thông điệp tự tin về sự kiểm soát lãng mạn trước thời đại khi sự khai thác của phụ nữ trong vấn đề này, và rất nhiều lĩnh vực của cuộc sống, đã thực sự bị phơi bày- và, về mặt chuyên nghiệp, nó đã trở thành công việc đột phá của Taylor khi sự hợp tác đầu tiên của cô với hit huyền thoại-Các nhà sản xuất Max Martin và Shellback.Đây chắc chắn là âm thanh của một phụ nữ trẻ nắm quyền kiểm soát sự nghiệp của mình bằng cách xù lên cổ.Càng gây nghiện, chúng tôi không bao giờ trở lại với nhau, đã trở thành người đứng đầu bảng xếp hạng Billboard đầu tiên của cô ấy và lời bài hát của nó cung cấp nhiều nhiên liệu cho các tờ báo lá cải, những người đang ngày càng bị ám ảnh bởi ngôi sao mới bí ẩn này.

5: Câu chuyện tình yêu

Đến từ thời kỳ trước khi bản thân cô trở nên phổ biến, hầu hết những người nghe quốc tế sẽ chọn câu chuyện tình yêu của người Hồi giáo như bài hát đầu tiên khiến họ biết về ngôi sao đang lên.Vẫn ở tuổi thiếu niên khi nó được phát hành, Taylor đã được chọn vào vai một công chúa lãng mạn trong video được nhớ đến một cách yêu thích - một vòng quay thú vị trên nhân vật mà những tờ báo lá cải điên cuồng sẽ nắm bắt và biến dạng trong những năm tới.Mặc dù vẫn nhận dạng được một bài hát đồng quê, thì tình yêu của câu chuyện tình yêu của Hồi giáo đã giúp nó trở thành một hit phát thanh khổng lồ, và bài hát được đề cử rộng rãi trong mùa giải.Về mặt thương mại, đó là lần đập đầu tiên của Taylor Taylor, làm số 1 ở Úc, số 2 ở Anh và lọt vào top 5 ở Mỹ.

Taylor Swift - Câu chuyện tình yêu

Bấm để tải video

4: Tôi biết bạn đã gặp rắc rối

Trên mạng tôi biết bạn đang gặp rắc rối, thì Taylor Taylor Swift đã chứng minh rằng cô ấy biết cách gây rắc rối cho bản thân, vì chiếc hộp mà cô ấy đã thoát ra khỏi với chúng tôi không bao giờ là một người mà rõ ràng là một người mà cô ấy sẽ trở lại.Bước vào thời kỳ mà hầu hết mọi bài hát mới đều có thể tuyên bố là một trong những bài hát Taylor Swift hay nhất, bản Hybrid pop-Country khăng khăng này, được xây dựng xung quanh một đoạn riff rock hooky, là một chiếc crossover Smash khác, đạt đỉnh ở số 2 ở cả hai phía Đại Tây Dương Đại Tây Dương.Một sự hợp tác khác của Max Martin và Shellback, tôi biết rằng bạn đang gặp rắc rối, đã được công chiếu tại Giải thưởng Âm nhạc Mỹ lần thứ 40 trong một buổi biểu diễn trực tiếp cổ điển khác đã thể hiện sự tự tin của Taylor Taylor.

3: Người yêu

Ca khúc chủ đề hấp dẫn này từ người yêu năm 2019 là một lát cắt được cách điệu là những năm 60 Americana và đã được phát hành trong các bản phối lại khác nhau mà don don cải thiện trên không khí dễ dàng.Taylor thừa nhận người yêu của người Viking đã đến nhanh chóng và có một điều gì đó về sự quyến rũ dễ dàng, dễ dàng của nó, nó đã đặt nó ở trên từ những gì mà một album mạnh mẽ (được cho là tốt nhất và chắc chắn là bản thu âm mạnh nhất của cô ấy).Người yêu của người Viking đã thực hiện một cách đúng đắn nhiều danh sách ghi lại những bài hát hay nhất trong năm.

2: Liễu

Mở đầu Evermore, Hồi Willow, thiết lập giai điệu cho album mẹ và rãnh được đánh giá thấp của nó nhẹ nhàng thu hút bạn và được chọn để quảng bá cho dự án như là đĩa đơn chính.Một trong những bài hát nằm ở đâu đó sâu bên trong tâm lý của bạn và cũng đã gây ấn tượng ngay lập tức với các lập trình viên radio.Món quà Taylor Taylor cho Melancholia hấp dẫn đã được công nhận không thể chối cãi trong suốt quá trình ghép đôi văn hóa dân gian và mãi mãi trong những năm kỳ lạ nhất trong những năm gần đây.Đại dịch cho đến nay đã tước đi những khán giả khi nhìn thấy những bài hát này trong bối cảnh trực tiếp, nhưng Taylor quay trở lại mạch lưu diễn chắc chắn đã giành chiến thắng trước đây.

1: Anti-Hero

Sau khi phát hành các album đại dịch âm thanh bị tước bỏ của cô, Folklore và Evermore, Swift trở lại với khả năng nhạc pop đầy đủ của mình với việc phát hành Midnightsand và đĩa đơn đột phá của nó, Ant Anti-Hero.Với cộng tác viên đáng tin cậy Jack Antonoff ở bên cạnh, Anti-Hero là sự phát triển của công việc trong quá khứ của cô: từ Synth-Pop Sheen năm 1989, đến chuỗi danh tiếng và sự trữ tình phức tạp của văn hóa dân gian và mãi mãi.Kết quả là một con giun tai và truyền nhiễm dày đặc và tự nhận thức.Midnightsand its breakout single, “Anti-Hero.” With her trusted collaborator Jack Antonoff at her side, Anti-hero is the evolution of her past work: from the synth-pop sheen of 1989, to the self-effacing streak of reputation and the intricate lyricism of Folklore and Evermore. The results are a densely-packed, infectious earworm and self-aware anthem.

5 bài hát hàng đầu của Taylor Swift là gì?

"Của tôi" ... .
"Anti-Hero" ....
"Phong cách" ... .
"Tôi không muốn sống mãi mãi (Fifty Shades Darker)" với Zayn.....
"Máu xấu" ft. ....
"Tôi biết bạn đã gặp rắc rối."....
"Không gian trống" Swift trở thành người phụ nữ đầu tiên thay thế bản thân ở số ....
"Bạn thuộc về tôi" The Monster Crossover Hit thống trị sóng vô địch năm 2009, đạt đỉnh ở số ..

Những bài hát Tay Taylor Swift hàng đầu là gì?

Top 10 bài hát Taylor Swift hay nhất..
1 Bạn thuộc về tôi.Thật tuyệt vời!....
2 câu chuyện tình yêu.Câu chuyện tình yêu là bài hát hay nhất của Taylor ... ....
3 Tôi biết bạn đã gặp rắc rối.....
4 không gian trống.....
5 trở lại tháng mười hai.....
6 của tôi.....
7 nghĩa là.....
8 Tất cả quá tốt ..

Taylor Swift đã có bao nhiêu lượt truy cập hàng đầu?

Với 188 mục biểu đồ trên Billboard Hot 100 (bao gồm 9 con số và 40 hàng hóa hàng đầu), Swift là nữ nghệ sĩ với những bài hát được xếp hạng nhất ở Hoa Kỳ.40 top-tens), Swift is the female artist with the most charted songs in the United States.

10 bài hát phổ biến nhất là gì?

10 bài hát bán chạy nhất mọi thời đại..
Giáng sinh trắng của Bing bởi Bing Crosby.....
Hình dạng của bạn của bạn bởi Ed Sheeran.....
Một người Despacito của Luis Fonsi và Daddy Yankee.....
Nến nến trong gió của Elton John.....
Vào mùa hè, ....
" ĐÊM YÊN TĨNH" ... .
Đá Rock quanh đồng hồ ....
" TÔI SẼ LUÔN YÊU BẠN".