Ví dụ nhận thức kinh nghiệm khoa học

(Last Updated On: 21/07/2021)

Phân tích nội dung, ý nghĩa mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận?

Kinh nghiệm và lý luận là hai trình độ khác nhau của nhận thức, đồng thời lại có sự thống nhất, tác động qua lại và chuyển hóa cho nhau. Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận không đồng nhất với nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, tuy chúng có mối liên hệ với nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính; bởi vì trong kinh nghiệm có yếu tố lý tính. Do đó có thể coi kinh nghiệm và lý luận là các bậc thang của của nhận thức lý tính, nhưng khác nhau về tính chất, trình độ phản ánh hiện thực.

Nhận thức kinh nghiệm

Nhận thức kinh nghiệm là quá trình nhận thức bởi sự thu nhận từ quan sát và thí nghiệm, nó tạo thành tri thức kinh nghiệm. Cho nên, tri thức kinh nghiệm nảy sinh một cách trực tiếp từ thực tiễn. Có hai loại tri thức kinh nghiệm: Tri thức kinh nghiệm thông thường (tiền khoa học) thu được từ những quan sát hàng ngày và tri thức kinh nghiệm khoa học thu nhận được từ những thí nghiệm khoa học.

Tri thức kinh nghiệm giới hạn ở lĩnh vực các sự kiện, miêu tả, phân loại các dữ kiện thu nhận được từ quan sát và thí nghiệm,nó vừa là sự phản ánh trực tiếp, nhưng cũng có tính trừu tượng và khái quát nhất định. Tri thức kinh nghiệm có vai trò không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của con người, nhưng nó còn hạn chế, song cần phải tổng kết, khái quát những tri thức kinh nghiệm nhất định để có thể phát triển thanh tri thức lý luận.

Nhận thức lý luận

Nhận thức lý luận là sự phát triển tất yếu của quá trình nhận thức, nó là trình độ cao hơn về chất so với nhận thức kinh nghiệm. Cho nên, nó là tri thức lý luận là tri thức khái quát từ tri thức kinh nghiệm, nhưng nó không hình thành một cách tự phát từ kinh nghiệm và không phải mọi lý luận đều trực tiếp xuất phát từ kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối mà lý luận có thể mang tính vượt trước những dữ kiện kinh nghiệm. Khác với kinh nghiệm, lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao nên nó mang lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, về quy luật của các sự vật, hiện tượng, v.v… Đặc biệt một khi lý luận xâm nhập vào thực tiễn hoat động của quần chúng thì nó trở thành sức mạnh vật chất.

Nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận, một mặt thấy dược biện chứng của quá trình nhận thức; mặt khác cũng thấy được sự khác nhau giữa tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận. Vì vậy, phải coi trọng lý luận, nhưng không tuyệt dối hóa lý luận coi thường kinh nghiệm thực tiễn. Điều đó cũng có nghĩa là phải quán triệt nguyên tắc về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Phê phán và khắc phục bệnh kinh nghiệm và giáo điều trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Nhất là trong đường lối chính sách của một nhà nước đối với sự phát triển kinh tế – văn hóa xã hội nói chung.

Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học. Mối quan hệ biện chứng giữa chúng

Nhận thức thông thườngvànhận thức khoa họclà hai bậc thang khác nhau về chất củanhận thức. Chúng không đồng nhất cả với nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, cả vớinhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận.

1. Nhận thức thông thường (nhận thức tiền khoa học)

Nhận thức thông thường (nhận thức tiền khoa học) là loại nhận thức được hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của con người. Nó phản ánh sự vật, hiện tượng xảy ra với tất cả những đặc điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau của sự vật. Vì vậy, nhận thức thông thường mang tính phong phú, nhiều vẻ và gắn với những quan niệm sống thực tế hàng ngày. Vì thế, nó thường xuyên chi phối hoạt động của con người trong xã hội. Thế nhưng, nhận thức thông thường chủ yếu vẫn chỉ dừng lại ở bề ngoài, ngẫu nhiên tự nó không thể chuyển thành nhận thức khoa học được..

– Nhận thức của con người được hình thành trước hết từ nhận thức thông thường do yêu cầu của cuộc sống trực tiếp hàng ngày. Nó phản ánh môi trường xã hội và tự nhiên gần gũi với cuộc sống của con người, phản ánh quan hệ giữa người với người và với người và giới tự nhiên.

– Mặc dù ở trình độ thấp hơn so với nhận thức khoa học, nhưng nhận thức thông thường không tầm thường, kém giá trị.

Trái lại, chính tính trực tiếp sinh động trong sự phản ánh, tính phong phú và thực tế của quan niệm sống… làm cho nhận thức thông thường có vai trò thường xuyên và phổ biến, chi phối hoạt động của mọi người trong đời sống xã hội.

Trên cơ sở nhận thức thông thường, con người hình thành thế giới quan, nhân sinh quan, chuẩn mực cuộc sống. Con người phải thường xuyên hoạt động với nhận thức thông thường trong cuộc sống, bởi vì nó đáp ứng yêu cầu thực tiễn hàng ngày.

– Do phụ thuộc vào sự biến đổi của thực tiễn lịch sử – xã hội nênnhận thức thông thườngcũng có những biến đổi nhất định.

Trong xã hội xưakia,nhận thức thông thườngcòn xa lạ với những quan niệm khoa học, mang nặng tính chất huyền thoại hoặc tôn giáo. Còn ngàynay, với sự pháttriển của các ngành khoa học, trình độnhận thức thông thườngngày càng được nâng cao, bao hàm những yếu tố khoa học.

2. Nhận thức khoa học (gọi tắt là khoa học)

Nhận thức khoa họclà loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của các sự vật.
Nhận thức khoa học vừa có tính khách quan, trừu tượng, khái quát lại vừa có tính hệ thống, có căn cứ và có tính chân thực. Nó vận dụng một cách hệ thống các phương pháp nghiên cứu và sử dụng cả ngôn ngữ thông thường và thuậtngữ khoa học để diễn tả sâu sắc bản chất và quy luật của đối tượng nghiên cứu. Vì thế nhận thức khoa học có vai trò ngày càng to lớn trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt trong thời đại khoa học và công nghệ.

– Sự ra đời và pháttriển củakhoa họclà thành quả vĩ đại của trí tuệ con người, đánh dấu một bước tiến mới trong việc nhận thức thế giới và cải tạo thế giới.Khoa họcgiữ vai trò đặc biệt trong hoạt động của con người và vai trò đó ngày càng tăng lên trong đời sống xã hội.

–Nhận thức khoa họcđược hình thành một cách tự giác, mang tính trừu tượng, khái quát ngày càng cao. Nó thể hiện sức mạnh, tính năng động, sáng tạo của tư duy trừu tượng.

Nó phản ánh dưới dạng lô-gic trừu tượng những thuộc tính, kết cấu, những mối quan hệ bản chất, những quy luật của thế giới khách quan, chứ không dừng lại ở cái bề ngoài, cái ngẫu nhiên, cái đơn nhất.

Mỗi ngànhkhoa họcđược thể hiện bằng cácphạm trù,quy luậtchung và riêng. Và đến lượt mình, các phạm trù, quy luật đó lại trở thành chỗ dựa, trở thành công cụ của mỗi ngành khoa học.

– Nhận thức khoa học có tính khách quan.

Khoa họchướng tới nghiên cứu các khách thể của tự nhiên, xã hội và bản thân con người như những đối tượng vận động và pháttriển phục tùng các quy luật khách quan.

Khoa họcphải dựa vào sự thật và lý trí của con người chứ không thể dựa vào những ảo tưởng chủ quanhaylòng tin mù quáng nào đó.

Khoa họccó nhiệm vụ nghiên cứu hiện thực, kể cả hiện thực tư tưởng, như khách thể tồn tại độc lập với chủ thể.

Dĩ nhiên, những phẩm chất cá nhân và những định hướng giá trị của nhà khoa học có vai trò quan trọng trong sáng tạokhoa học,songkết quả nghiên cứu mang giá trị khoa học lại không phụ thuộc vào ý muốn của người nghiên cứu.

Như vậy, nhận thức thông thường và nhận thức khoa học có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong mối quan hệ đó, nhận thức thông thường có trước nhận thức khoa học và là nguồn chất liệu để xây dựng nội dung của các khoa học. Ngược lại, khi đạt tới trình độ nhận thức khoa học thì nó lại tác động trở lại nhận thức thông thường, xâm nhập và làm cho nhận thức thông thường phát triển, tăng cường nội dung khoa học cho quá trình nhận thức thế giới của con người.

Khoa học là một trong những động lực cốt lõi của pháttriển. Ảnh:Medium.com.

– Tri thức khoa học phải có tính hệ thống và tính căn cứ.

Đây là đặc trưng quan trọng để phân biệtnhận thức khoa học với nhận thức thông thường.Khoa họclà một hệ thống chỉnh thể các khái niệm, phạm trù, quy luật, có liên hệ nội tại với nhau mangtính chân thực.

Khoa họcphải hướng tớichân lý, hướng tới việc tìm tòi, nhận thức chân lý. Tính chân lý này được chứngminhkhông chỉ bằng việc áp dụng vào thực tiễn mà khoa học còn tạo ra những phương thức chứngminh, những tiêu chuẩn riêng của mình. Khoa học mang tính chặt chẽ, tính lô-gic cao.

– Để mô tả nghiên cứu khách thể,khoa họckhông chỉ sử dụng ngôn ngữ thông thường mà còn phải sử dụng ngôn ngữ nhân tạo, chuyên môn hóa.

Ngôn ngữ khoa học không chỉ bổ sung mà còn làm cho ngôn ngữ thông thường ngày càng pháttriển, trở nên phong phú hơn.

– Đồng thời, khoa học phải sử dụng một hệ thống các phương tiện và phương pháp nghiên cứu chuyên môn.

Các máy móc, thiết bị hỗ trợ đắc lực chonhận thức khoa họcvì chúng tác động trực tiếp đến khách thể nghiên cứu, cho phép khám phá những thuộc tính mới của khách thể, cho phép vạch ra những trạng thái có thể của nó trong điều kiện chủ thể kiểm soát được.

Để thu nhậntrithức khoa học cần có phương pháp khoa học. Đó là phương pháp thu nhậntrithức kinh nghiệm như quan sát, thí nghiệm; là các phương pháp để xây dựng và pháttriển lý thuyết khoa học như phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, lịch sử và lô-gic, từ trừu tượng đến cụ thể, mô hình hóa, hình thức hóa, hệ thống – cấu trúc…

Đương nhiên, hoạt động khoa học đòi hỏi các nhà khoa học, bên cạnh việc nắm vững các phương tiện và phương pháp nghiên cứu, còn phải có định hướng giá trị đúng đắn, phải có những phẩm chất đạo đức chung và những phẩm chất cá nhân phù hợp với những hoạt động đặc thù của mối lĩnh vực khoa học.

3. Mối quan hệ biện chứng

Nhận thức thông thườngvànhận thức khoa họccó mối quan hệ biện chứng với nhau, thể hiện ở những điểm sau:

3.1. Nhận thức thông thường có trước và là chất liệu cho nhận thức khoa học.

– Với tư cách là nhận thức tiền khoa học, trong lòng và trên cơ sở củanhận thức thông thườngđã xuất hiện những hình thức mầm mống của khoa học.

Chính kinh nghiệm củanhận thức thông thườnglà kho tàng để cho các khoa học cụ thể,triết học và nghệ thuật tìm kiếm nộidungcủa mình.

– Mặc dù chứa những mầm mống của nhữngtrithức khoa học,songnhận thức thông thườngchủ yếu vẫn chỉ dừng lại ở những bề ngoài, ngẫu nhiên, không bản chất của đối tượng và tự nó không thể chuyển thành khoa học.

Muốn pháttriển thành khoa học, cần phải thông qua khả năng tổng kết, trừu tượng, khái quát đúng đắn của các nhà khoa học.

3.2. Nhận thức khoa học có sức mạnh lớn trong việc tác động trở lại nhận thức thông thường.

– Do có hàm lượngtrithức ở tình độ cao và gắn liền với thực tiễn,khoa họccó khả năng thâm nhập vàonhận thức thông thườngvà làm cho nhận thức thông thường ngày càng pháttriển.

Với sự pháttriển củakhoa học, công nghệ, sự nâng cao trình độ văn hóa, khoa học của nhân dân, sự pháttriển của các phương tiện thông tin đại chúng ngàynay,nhận thức thông thườngchịu nhiều tác động của khoa học và pháttriển bằng cách tiếp thu nhữngtrithức khoa học nhất định.

Xu hướng thâm nhập củakhoa họcvào đời sống thường nhật ngày càng được tăng cường. Nhiều thuật ngữ khoa học giờ đây đã trở thành ngôn ngữ đời thường.

– Ngàynay, đất nước ta đang đẩy mạnh công cuộc pháttriển đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (cách mạng 4.0). Để đạt được những thành tựu đột phá, việc pháttriển khoa học, công nghệ có ý nghĩa vô cùng quan trọng, thậm chí mang tính cốt lõi trongtriết lý pháttriển đất nước.