Ví dụ về nhận thức lý tính và nhận thức cảm tính

Mỗi sự vật, hiện tượng xung quanh chúng ta đều được thể hiện ra bên ngoài, phản ánh qua bộ não của chúng ta. Qua quá trình quan sát, tìm hiểu bộ nào chúng ta nhận thức thức thuộc tính bên ngoài và bên trong sự vật, hiện tượng đó, gọi là nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Vậy nhận thức cảm tính là gì? Nhận thức lý tính là gì? và có những hình thức nào?Vậy hãy cùng tìm hiểu rõ hơn qua bài viết sau đây nhé!

1. Nhận thức cảm tính là gì?

Nhận thức cảm tính là mức độ nhận thức đầu tiên của con người. Thông qua cảm giác và tri giác, nhận thức cảm tính phản ánh các thuộc tính bên ngoài gọi là trực quan sinh động tác động đến giác quan của họ gồm cảm giác và tri giác. Bởi vậy, để nắm bắt được sự vật, sự việc, con người phải sử dụng các loại giác quan của mình.

Đặc điểm của nhận thức cảm tính:

– Phản ánh cụ thể thuộc tính của sự vật, hiện tượng thông qua giác quan riêng lẻ. Tuy nhiên, trạng thái sự vật, hiện tượng nảy sinh, tác động vào giác quan chưa phản ánh được đầy đủ, trọn vẹn thuộc tính bên trong sự vật, hiện tượng, mỗi kích thích tác động vào giác quan chỉ cho ta một cảm giác tương ứng;

– Nhận thức cảm tính cũng có thể phản ánh trong tâm lý của động vật;

– Phản ánh bề ngoài, cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên, cái có bản chất và cái không bản chất. Phản ánh các thuộc tính cốn có trong tự nhiên của sự vật, hiện tượng và các thuộc tính của sự vật, hiện tượng do con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động và giao tiếp;

– Nhận thức cảm tính chỉ là mức độ đầu tiên, sơ đẳng, chưa phải cao nhất, nhận thức con người phát triển mạnh mẽ và phong phú còn chịu ảnh hưởng của nhiều hiện tượng tâm lí khác. Cho nên, nhận thức cảm tính chưa thể khẳng định được các mặt, các mối quan hệ bản chất, tất yếu bên trong của sự vật.

Ví dụ, khi chúng ta đến nhà hàng ăn uống, nhân viên phục vụ bê lên một đĩa thức ăn rất hấp dẫn, ngon miệng và khiến bạn có cảm giác muốn ăn ngay lập tức. Khi đó, nhận thức cảm tính khi nhìn thấy đĩa thức ăn rất ngon, rất muốn ăn. Hay khi nhìn thấy một bạn nữ xinh xắn, dễ thương thì nhận thức cảm tính đánh giá vẻ bề ngoài bạn nữ này rất đẹp.

Ví dụ khác: Bằng nhận thức cảm tính, người đầu bếp có kinh nghiệm nghề nghiệp có thể bằng mắt nêm nếm gia vị, hay giáo viên có thể biết được ý thức học tập của học sinh sau lưng mình.

2. Các hình thức của nhận thức cảm tính:

Nhận thức cảm tính gồm có các hình thức sau:

– Cảm giác: Đây là một hình thức nhận thức cảm tính đầu tiên của con người, phản ánh về các thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng khi chúng có sự tác động trực tiếp vào các giác quan của con người. Cảm giác chính là nguồn gốc của mọi sự hiểu biết, từ cảm giác tạo nên mối liên hệ trực tiếp giữa cơ thể và môi trường xung quanh. Hay nói cách khác, cảm giác chính là kết quả của sự chuyển hóa những nguồn năng lượng kích thích từ bên ngoài để hình thành các yếu tố ý thức.

+ Cảm giác là điều kiện quan trọng để đảm bảo trạng thái hoạt động của vỏ não, nhờ đó hoạt động thần kinh của con người được bình thường. Trạng thái tâm lý và sinh lý của con người ảnh hưởng nhiều bởi cảm giác.

VD: Khi chúng ta chạm tay vào cốc nước nóng, bàn tay sẽ có cảm giác nóng và tay chạm vào có phản ứng co lại ngay. Hay khi ra ngoài trời nắng, mắt ta sẽ phản ứng nheo lại.

–  Tri giác: hình thành và phát triển trên cơ sở cảm giác. Hình thức nhận thức cảm tính này phản ánh vào các giác quan của con người tương đối toàn vẹn về sự tác động trực tiếp của sự vật. Tri giác chính là sự tổng hợp các cảm giác. So với cảm giác thì tri giác là hình thức nhận thức đầy đủ hơn và phong phú hơn, cảm giác chỉ phản ánh riêng lẻ các thuộc tính bên ngoài của sự vật hiên tượng còn tri giác phản ánh trọn vẹn các thuộc tính bên ngoài của sự vật, hiện tượng. Tri giác cũng chỉ phản ánh thuộc tính trực quan qua quá trình tâm lý có nảy sinh, diễn biến và kết thúc. Trong tri giác có chứa đựng cả những thuộc tính đặc trưng và cả thuộc tính không đặc trưng có tính trực quan của sự vật, hiện tượng.

Trong môi trường xung quang, tri giác định hướng cho hành vi của con người, mang tính tự giác, kết hợp cả cảm giác và vận động. Hình thức tri giác cao nhất là quan sát, tương đối độc lập của hoạt động và trở thành phương pháp nghiên cứu trong khoa học và nhận thức thực tiễn.

Ví dụ: Khi chúng ta xem một bức tranh, thông qua các giác quan sẽ nhận biết được bức tranh vẽ về cảnh gì, tranh làm bằng chất liệu gì và có những màu sắc tổng thể gì, có những hình thù gì, … Sự phản ánh này diễn ra trong quá trình tri giác của con người.

Biểu tượng: Là hình thức của nhận thức cảm tính khi sự vật đã không còn tác động trực tiếp vào các giác quan nữa thì các hình ảnh, biểu tượng về các sự vật phản ánh tương đối hoàn chỉnh do sự hình dung lại, nhớ lại. Trong biểu tượng vừa chứa đựng các yếu tố trực tiếp cũng vừa chứa đựng các yếu tố gián tiếp. Bởi biểu tượng được hình thành là nhờ có sự phối hợp, bổ sung của các loại giác quan với nhau và có sự tham gia của các yếu tố phân tích, tổng hợp của nhận thức. Cho nên biểu tượng có thể phản ánh được những thuộc tính đặc trưng, nổi trội của các sự vật mà khi nhắc đến sự vật, hiện tượng đó sẽ nhớ ngay đến biểu tượng của chúng.

Ví dụ: Khi nhắc đến chiếc ô tô, chúng ta sẽ lập tức hình dung ra được nó là phương tiện có bốn bánh làm bằng cao su, thân xe hình chữ nhật, có bốn cửa ra vào.

3. Nhận thức lý tính là gì?

Nhận thức lý tính là mức độ nhận thức cao của con người, phản ánh thực chất bên trong, bản chất của sự vật, sự việc bằng tư duy trừu tượng. Thông qua các hình thức như khái niệm, phán đoán và suy luận có thể phản ánh gián tiếp trừu tượng, khái quát về sự vật, về những mối quan hệ có tính quy luật của hiện thức khách quan.

Thông qua việc tổng hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay lớp sự vật mà hình thành khái niệm vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan, vừa có mối quan hệ tác động qua lại với nhau, và thường xuyên vận động, phát triển trên cơ sở thực tiễn. Trong nhận thức thì khái niệm có vai trò rất quan trọng tác động tới bộ nào con người, là cơ sở để hình thành các phán đoán và tư duy khoa học.

Ví dụ: khi gặp gỡ một người nào đó, vẻ bề ngoài của họ là cái đầu tiên bạn nhận thấy người đó xấu hay đẹp, đây là nhận thức cảm tính. Nhưng qua việc nói chuyện, bạn chuyển qua suy nghĩ về tính cách, phẩm chất của người đó như thế nào, đó chính là nhận thức lý tính.

Ví dụ khác: Thời điểm nhà nước chưa ra đời, thì nhà nước điều chỉnh mọi vấn đề của xã hội bằng quy phạm đạo đức hay cảm tính. Tuy nhiên, khi nhà nước ra đời và pháp luật được ban hành dưới hình thức mệnh lệnh, bắt buộc trở thành quy tắc xử xự chung theo mong muốn, ý chí của nhà nước, điều chỉnh hành vi, cách ứng xử của người dân theo nhận thức lý tính hơn.

Đặc điểm của nhận thức lý tính:

+ Nhận thức lý tính là quá trình nhận thức gián tiếp đối với sự vật, hiện tượng. Bằng nhận thức cảm tính, con người nhận thức sự vật hiện tượng thông qua việc sử dụng công cụ, phương tiện như đồng hồ, máy móc, … và quá trình tư duy (phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát, …) để nhận thức cái bên trong, bản chất của sự vật, hiện tượng đó.

+ Nhận thức lý tính là quá trình đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng, không đơn thuần là nhận thức của con người ở thời điểm hiện tại mà còn phản ánh được cả quá khứ và tương lai.

+ Nhận thức cảm tính và lý tính không tách bạch nhau mà luôn có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung cho nhau. Không có nhận thức cảm tính thì không có nhận thức lý tính. Không có nhận thức lý tính thì không nhận thức được bản chất thật sự bên trong của sự vật. Như vậy, nhận thức lý tính phản ánh sự vật, hiện tượng rõ ràng hơn, khách quan và đầy đủ hơn.

4. Các hình thức của nhận thức lý tính:

Có hai hình thức chính của nhận thức lý tính là phán đoán và suy luận:

– Phán đoán:

+ Phán đoán một thuộc tính của đối tượng là hình thức tư duy trừu tượng, liên kết các khái niệm với nhau để đưa ra sự khẳng định hay phủ định về một đặc điểm, một thuộc tính của đối tượng đó. Phán đoán chỉ biết được cái đơn nhất với cái phổ biến mà chưa thực sự mối quan hệ đặc thù giữa cái đơn nhất với cái phổ biến đó. Tư duy phản ánh thuộc tính bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan mà trước đó ta chưa biết. Tư duy là sản phẩm của sự phát triển xã hội – lịch sử, hành động tư duy dựa vào kinh nghiệm, kết quả nhận thức xã hội mà con người tích lũy. Quá trình tư duy thúc đẩy bởi nhu cầu xã hội, ý nghĩ của con người về việc giải quyết nhiệm vụ cấp thiết.

Khác với nhận thức cảm tính, tư duy không phản ánh sự vật, hiện tượng một cách riêng lẻ như cảm giác hay tổng quát như tri giác, tư duy là nhận thức trừu tượng, bản chất của sự vật, hiện tượng một cách khái quát. Trên cơ sở nhận thức cảm tính, tư duy là mức độ nhận thức cao hơn, tư duy nhận ra sự vật, hiện tượng có vấn đề, có mâu thuẫn. Nhận thức tư duy của mỗi người sẽ khác nhau về sự vật, hiện tượng đó và mỗi người cũng tư duy về các giải pháp phụ thuộc vào kinh nghiệm, nhận thức khác nhau mà giải quyết vấn đề khác nhau.

+ Các giai đoạn trong quá trình tư duy là một quá trình phức tạp. Các thao tác tư duy của cá nhân là phân tích- tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa và khái quát hóa. Phân tích là quá trình dùng trí óc để phân tích những thuộc tính, những mối liên hệ để nhận thức đối tượng sâu sắc hơn. So sánh là quá trình dùng trí óc để xác định sự giống nhau và khác nhau, những dấu hiệu đặc trưng của sự vật, hiện tượng. Trừu tượng hóa và khái quát hóa là dùng trí óc để giữ lại những thuộc tính, những mối liên hệ có mối quan hệ mật thiết với nhau, chi phối bổ sung cho nhau và gạt bỏ những mối quan hệ thứ yếu, không cần thiết.

Ví dụ: Ông cha ta đã đúc kết kinh nghiệm phán đoán khi nhìn thấy phía bầu trời ửng sáng vàng như màu mỡ gà thì có thể phán đoán được trời sắp có mưa lớn.

– Suy luận:

Suy luận chính là hình thức tư duy trừu tượng mà thể hiện sự liên kết giữa các phán đoán lại với nhau để từ đó có thể rút ra được một phán đoán có tính chất kết luận nhằm tìm ra một tri thức mới.

Ví dụ: Nếu nhà nước để cho các công ty bán xăng dầu tự định giá bán xăng dầu thì giá sẽ rất cao và gây ảnh hưởng đến quyền lợi cho người dân, lạm phát và nhiều hệ lụy khác về tiêu dùng. Chính vì vậy suy luận rằng nhà nước phải kiểm soát giá và định giá trần về kinh doanh xăng dầu, công ty muốn tranh giành thì có thể phân phối thấp hơn mức giá trần đó.

Câu hỏi : Hãy phân biệt nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính ?Cho vd minh họa ?1/ Khái niệm nhận thức cảm tính và nhận thứ lý tínhNhận thức là quá trình tâm lý phản ánh hiện thực khách quan và bản thâncon người thông qua các giác quan và dựa trên kinh nghiệm hiểu biết củabản thân . Nhận thức ở mức độ thấp là nhận thức cảm tính, ở mức độ caohơn là nhận thức lý tính . Nhận thức lý tính và nhận thức cảm tính có quanhệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau, cho phối lẫn nhau trong cùng 1hoạt động thống nhất của con ngườiNhận thức cảm tính là mức độ nhận thức đầu tiên, thấp nhất của conngười . Trong đó con người phản ánh những thuộc tính bên ngoài, nhữngcái đang trực tiếp tác động đến giác quan của họ . Nhận thức cảm tính baogồm : cảm giác và tri giácNhận thức lý tinh là mức độ nhận thức cao ở con người, trong đó conngười phản ánh những thuộc tính bên trong , những mối quan hệ có tínhquy luật của hiện thực khách quan 1 cách gián tiếp . Nhận thức lý tính baogồm : tư duy và tưởng tượng2/ Phân biệt nhận thức cảm tính và nhận thức lý tínhGiống nhau :_ Đều là quá trình tâm lý nên có mở đầu, diễn biến và kết thúc 1 cáchtương đối rõ ràng_ Chỉ phản ánh thuộc tính bên ngoài của sự vật , hiện tượng_ Phản ánh hiện thực khách quan 1 cách trực tiếp_ Đều có ở động vật và con người_ Là mức độ nhận thức đầu tiên sơ đẳng, cảm giác có vai trò nhất địnhtrong hoạt động nhận thức và toàn bộ đời sống con ngườiKhác nhau :Nhận thức cảm tínhVề nguồn gốc _ Nảy sinh khi có hiện thựckhác quan tác động vào cácgiác quan tới ngưỡngVề nội dungphản ánhPhương thứcphản ánhNhận thức lý tính_ Nảy sinh khi gặp tìnhhuống có vấn đềVd : Khi tôi nói nhỏ thì nhữngbạn ở xa không nghe được,hay các bạn cảm thấy nhóitai khi nghe những âm thanhvới những tần số lớn như :Tiếng hú của micro, tiếng còiô tô …Vd : Trong giờ học thầygiáo cho bạn giải bàiphương trình : Ax + By + C= 0 . Đây là dạng bài tậpmà ta chưa giải qua, từ đóchúng ta phải phân tích,suy luận , tìm ra phươngpháp giải phù hợp Nhận thức lý tínhđược nảy sinh_ Chỉ phản ánh những thuộctính bề ngoài, trực quan cụthể, những mối liên hệ quanhệ không gian và thời gian_ Phản ánh những thuộctính bản chất những mốiquan hệ có tính quy luậtVd : Khi ta nhìn 1 chiếc điệnthoại , ta chỉ biết vẻ bề ngoàicủa nó là hãng SamSung,màu đỏ, nhỏ gọn w…Vd : Khi ta nhìn 1 chiếc điệnthoại , nhận thức lý tính sẽcho ta biết điện thoại đó cóchức năng chụp hình, quayphim, nghe nhạc w…_ Nhận thức lý tính phảnánh khái quát, gián tiếpbằng ngôn ngữ, bằng biểutượng, bằng khái niệm, w…_ Nhận thức phản ánh trựctiếp bằng các giác quanVd : Khi ta nghe nhạc 1 bảnnhạc, ta dùng thính giác đểnghe nó và biết bản nhạc cóhay khôngVd : Khi ta nghe nhạc 1 bảnnhạc, nhận thức lý tínhkhông chỉ nghe thấy màcòn cảm nhận từng nốtnhạc, cảm nhận được điềumà nhạc sĩ muốn nói, ca sĩmuốn thể hiệnVề khả năngphản ánhVề kết quảphản ánh_ Chỉ phản ánh được nhữngsự vật hiện tượng cụ thể tácđộng trực tiếp vào các giácquan_ Phản ánh những sự vậthiện tượng không còn tácđộng, thậm chí là chưa tácđộngVd : Khi ta nấu chè , để biếtchè đủ ngọt hay chưa tadùng lưỡi ( vị giác ) nếm thửnóVd : Khi ta nấu chè, để nếmthử thì ta phải thổi nguội vìnồi chè còn đang nóng, nếukhông ta sẽ bị phỏng ( Cóthể bạn đã từng bị hoặcthấy ai đó bị trước nên rútkinh nghiệm )_ Nhận thức cảm tính cho ta _ Nhận thức lý tính cho tanhững hình ảnh trực quan cụ những khái niệm, nhữngthểphán đoán, những cáichung, cái bản chất vềnhững hình ảnh mớiVd : Thông qua giác quant a Vd : Nhờ vào nhận thức lýbiết chiếc điện thoại này màu tính cho ta biết đây là cái tiđen, hình chữ nhậtvi hang , có cấu tạo, chứcnăng như thế nào .Câu hỏi :Ý thức là gì ? phân biệt ý thức và vô thức, ý thức được hìnhthành và phát triển như thế nào ?*Ý thức là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất chỉ con người mới có,phản ánh bằng ngôn ngữ,là khả năng con người, hiểu được các tri thức( hiểu biết ) mà con người đã tiếp thu được.* Phân biệt ý thức và vô thứcÝ thức- Thể hiện năng lực nhận thức cao nhất của con người và thế giới.- Bản chất, nhận thức khái quát bằng ngôn ngữ.- Dự kiến trước kế hoạch hành vi.- Thể hiện năng lực điều khiển điều chỉnh hành vi.- Thái độ của con người đối với thế giới.- Khả năng tự nhận thức,tự điều khiển ,điều chỉnh hành vi, tự hoànthiện.Vô thức-Chưa ý thức những hiện tượng tâm lý chưa có sự chia phối của ýthứcHiện tượng tâm lý không ý thức được , chưa nhận thức được .Không kiểm soát được tâm lý.Các bản năng vô thức.Hiện tượng tâm lý dưới ngưỡng ý thức.Hiện tượng tâm thếTiềm thức.* ý thức được hình thành và phát triển như thế nào ?- Phương diện loài người: Vai trò của lao động,ý thức được hình thành ,biểu hiện và phát triển trong suốt quá trình lao động,thống nhất với quátrình lao động và sản phẩm của lao động.- Trước khi lao động con người luôn có ý thức về cái sẽ làm ra sản phẩm-Trong lao động con người luôn có ý thức về việc chế tạo sử dụng âm cụlao động và các thao tác lao động để tạo ra sản phẩm .Vai trò của ngôn ngữ và giao tiếp:ra đời cùng với lao động,ngôn ngữ làcông cụ để con người thực hiện tất ca giai đoạn của lao động một cách cóý thức .- Lao động nhờ ngôn ngữ giao tiếp mà con người thong báo trao đổi thôngtin , phối hợp động tác để cùng tạo ra sản phẩm chung.- Cá nhân : ý thức của cá nhân được hình thành trong hoa ạt động và thểhiện trong sản phẩm của hoạt động .- Ý thức của cá nhân được hình thành trong mối quan hệ giao tiếp của cánhân với người khác và xã hội .- Ý thức của cá nhân được hình thành bằng con đường tiếp thu nền vănhóa xã hội , ý thức xã hội.- Cá nhân được hình thành bằng con đường ậư nhận thức , đánh giá ,tựphân tích hành vi của mình.Câu hỏi : Giao tiếp là gì ? Phân loại và chức năng của giao tiếp ?+) Giao tiếp : là một quá trình hoạt động trao đổi thông tin giữa người nóivà người nghe nhằm đạt được một mục đích nào đó. Thông thường, giaotiếp trải qua 3 trạng thái:1.2.3.Trao đổi thông tin, tiếp xúc tâm lý.Hiểu biết lẫn nhau.Tác động và ảnh hưởng lẫn nhau.+) Phân loại chức năng của giao tiếp•••Chức năng thông tin: qua giao tiếp con người trao đổi truyền đạt trithức kinh nghiệm với nhau. Mỗi cá nhân vừa là nguồn phát thông tin,vừa là nơi tiếp nhận thông tin. Thu nhận và xử lý thông tin là một conđường quan trọng để phát triển nhân cáchChức năng cảm xúc:Giao tiếp không chỉ bộc lộ cảm xúc mà còn tạo ra những ấn tượng,những cảm xúc mới giữa các chủ thể. Vì vậy giao tiếplà 1 trongnhững con đường hình thành tình cảm của con người.Chức năng nhận thức lẫn nhau và đánh giá lẫnnhau, đánh giá lẫnnhau:trong giao tiếp mỗi chủ thể tự bộc lộ quan điểm tư tưởng thái độ thóiquen,… của mình do đó các chủ thể có thể nhận thức được về nhaulàm cơ sở đánh giá lẫn nhau. Điều này quan trọng hơn là trên cơ sở••so sánh với người khác và ý kiến đánh giá của người khác, mỗi chủthể có thể tự đánh giá được về bản thân mình.Chức năng tự điều chỉnh hành vi: trên cơ sở nhận thức lẫn nhau,đánh giá lẫn nhau và tự đánh giá được bản thân, trong giao tiếp mỗichủ thể có khả năng tự điều chỉnh hành vi của mình cũng như có thểtác động đến động cơ, mục đích quá trình ra quyết định và hànhđộng của chủ thể khác.Chức năng phối hợp hoạt động : nhờ có quá trình giao tiếp conngười có thể phối hợp hoạt động để cùng nhau giải quyết nhiệm vụnào đó nhằm đạt tới mục tiêu chung. Đây là một chức năng giao tiếpphục vụ các nhu cầu chung của xã hội hay của một nhóm người.Câu 8: Nhân cách là gì? Hãy phân tích cấu trúc của nhân cách. Cho vídụ minh họa1. Nhân cách là gì?Khái niệm:- Con người: Là thành viên của một cộng đồng, một xã hội, vừa làmột thực thể tự nhiên, vừa là một thực thể xã hội.- Cá nhân: Dùng để chỉ một con người cụ thể của cộng đồng, thànhviên của xã hội.- Cá tính: Dùng để chỉ cái đơn nhất, có một không hai, không lặp lạitrong tâm lý của cá thể động vật hoặc cá thể người.- Marx nhấn mạnh: “ Tiền đề thứ nhất của bất kỳ lịch sử loài ngườinào rõ ràng cũng là sự tồn tại của cá thể có sinh mệnh”. Cá nhân không chỉlà “tiền đề” của lịch sử loài người, thậm chí còn là mục đích của sự pháttriển lịch sử, “ lịch sử xã hội của người ta trước sau chỉ là lịch sử sự pháttriển cá thể của họ”.- Rubinstein: “con người là cá tính do nó có những thuộc tính đặtbiệt, không lặp lại, con người là nhân cách do nó xác định được quan hệcủa mình với những người xung quanh một cách có ý thức”.- Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý củacá nhân, biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội của con người.2. Cấu trúc tâm lý của nhân cách:- Các quan điểm khác nhau về cấu trúc nhân cách- Bao gồm: các quá trình tâm lý, các trạng thái tâm lý, các thuộc tínhtâm lý- Theo K.K. Platonov:+ Tiểu cấu trúc có nguồn gốc sinh học+ Tiểu cấu trúc về các đặc điểm của các quá trình tâm lý+ Tiểu cấu trúc về vốn kinh nghiệm, tri thức, kỹ năng, năng lực+ Tiểu cấu trúc xu hướng nhân cách:* Gồm bốn nhóm thuộc tính tâm lý điển hình: xu hướng, khíchất, tính cách, năng lực.* Gồm bốn khối: xu hướng, khả năng, phong cách, hệ thống cáitôiPhẩm chất+ Phẩm chất xã hội+ Phẩm chất cá nhânNăng lực+ Năng lực xã hội hóa+ Năng lực chủ thể hóa+ Phẩm chất ý chí+ Năng lực hành động+ Cung cách ứng xử+ Năng lực giao lưuKhông có xúc cảm của con người thì trước đây, hiện nay và sau này khôngcó sự tìm tòi của con người về chân lý (Lê Nin)Câu hỏi : hãy phân tích vai trò của các yếu tố di truyền hoạt động cánhân và giáo dục đối với sự phát triển nhân cách:Hoạt động cá nhân đóng vai trò quyết định trực tiếp tới sự hình thành vàphát triển nhân cách của con người. Điều này hoàn toàn phù hợp với quanđiểm triết học “ tự thân vận động”. Như ta thấy, con đường tác động cómục đích, tự giác của xã hội bằng giáo đến thế hệ trẻ sẽ không có hiệu quảnếu như bản thân cá nhân học sinh không tiếp nhận, không hưởng ứngnhững tác động đó, không trực tiếp tham gia vào các hoạt động nhằm pháttriển tâm lý, hình thành nhân cách. Bởi vậy, hoạt động mới là nhân tố tácđộng quyết định trực tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân cách củacá nhân. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật tự thân vận động, vềđộng lực bên trong của sự phát triển nói chung. Hoạt động của cá nhânnhằm để thỏa mãn những nhu cầu tự nhiên hay nhu cầu xã hội, vật chấthay tinh thần của đời sống riêng hay đời sống xã hội là những biểu hiệnphong phú về tính tích cực của nhân cách. Hoạt động là phương thức tồ tạicủa con người, là nhân tố quyết định trực tiếp sự hình thành và phát triểnnhân cách. Hoạt động của con người là hoạt động có mục đích,mang tínhxã hội, cộng đồng, được thực hiện bằng những thao tác nhất định, vớinhững công cụ nhất định. Vì vậy, mỗi loại hoạt động c1 những yêu cầunhất định và đòi hỏi ở con người những phẩm chất tâm lí nhất định. Qúatrình tham gia hoạt động làm cho con người hình thành những phẩm chấtđó. Vì thế, nhân cách của họ được hình thành và phát triển.1. Phân tích vai trò của các yếu tố di truyền hoạt động cá nhân:- Yếu tố bẩm sinh di truyền đóng một vai trò đáng kể trong sự hình thànhvà phát triển tâm lí nhân cách. Chính nó tham gia vào sự tạo thành cơ sởvật chất của các hiện tượng tâm lí – những đặc điểm giải phẩu và sinh lícủa cơ thể, trong đó có hệ thần kinh. Từ đó có thể khẳng định vai trò tiềnđề vật chất của yếu tố di truyền với sự hình thành và phát triển nhân cách.Làm cho quá trình hình thành nhân cách diễn ra nhanh, thuận lợi hay chậmchạp, khó khăn.- Do bẩm sinh di truyền là những đặc điểm của giải phẩu sinh lí của hệthần kinh và các cơ quan cảm giác, vận động. Đối với mỗi cá thể khi ra đờiđã nhận được một số đặc điểm và cấu tạo các chức năng của cơ thể từcác thế hệ trước theo con đường di truyền, trong đó có những đặc điểm vềcấu tạo và chức năng của các giác quan và não.Những đặc điểm của cáchệ thần kinh cấp cao được biểu hiện ngay từ những ngày đầu của cá thể.Ví dụ: một đứa trẻ sinh ra với zen di truyền tốt, cơ thể khỏe mạnh, đứa trẻấy sẽ phát triển tốt, học hỏi những điều xung quanh rất nhanh, như vậynhân cách của nó sẽ được hoàn thiện . Nhưng nếu đứa trẻ đó sinh ra vớimột cơ thể không bình thường, bị tật nguyền, hay bị thiếu não thì quá trìnhhình thành nhân cách sẽ diễn ra rất khó khăn và chậm chạp, chậm hơn rấtnhiều so với những đứa trẻ phát triển bình thường hay những đứa trẻ pháttriển tốt. Đây chính là một thiệt thòi lớn cho những đứa trẻ sinh ra đã mangtrong mình bệnh tật, và bất hạnh cho gia đình.- Tuy nhiên, không thể kết luận về vai trò quyết định của di truyền trong sựhình thành và phát triển tâm lí nhân cách. Theo quan điểm tâm lí học củaMác xít thì di truyền với các đặc điểm sinh học nêu trên không quyết địnhchiều hướng nội dung cũng như giới hạn phát triển của nhân cách conngườiNhững quan sát khoa học về quá trình phát triển của trẻ sinh đôi cùngtrứng đã chỉ ra rằng, sự tương đồng rất cao của trí nhớ hình ảnh và âmthanh ở chúng đã mất dần cùng với sự phát triển nhân cách thôi, chứkhông phải cư có yếu tố di truyền tốt thì cá thế đó nhất dịnh sẽ có mộtnhân cách tốt, một nhân cách hoàn thiện… Bất cứ một chức năng nàomang bản chất con người của nhân cách chỉ có thể được phát triển tronghoạt động của bản thân cá nhân đó và trong điều kiện của xã hội loàingười.Ví dụ: nếu một đứa trẻ sinh ra trong một gia đình mà bố mẹ toàn là nhữngngười có trí thức, khỏe mạnh thì đứa trẻ được sinh ra ấy sẽ có một cơ thểtốt, được thừa hưởng một phần thong minh của bố mẹ, nhưng ta khôngthể khẳng định chắc chắn rằng đứa trẻ ấy lớn lên cũng sẽ thông minhgiống bố mẹ của nó, và hoàn thiện nhân cách,có thể đứa trẻ ấy do hamchơi, đua đòi bạn bè nên học kém, phá phách… đứa trẻ ấy chỉ giỏi và cónhân cách hoàn thiện khi và chỉ khi nó biết phát huy tố chất vốn có của nó,và những hoạt động cố gắng, nỗ lực của mình trong cuộc sống.Một đứa trẻ sinh ra trong một gia đình mà bố mẹ chỉ là nông dân chânlấm tay bùn, họ không được thừa hưởng nguồn zen thông minh của bốmẹ, nhưng không có nghĩa là họ kém cỏi. Trong xã hội, không ít nhữngngười có xuất thân từ con nhà nông dân thành đạt trong cuộc sống.Hay những đứa trẻ tật nguyền bẩm sinh, yếu tố di truyền mang lại chohọ những bất hạnh nhưng không phải thế mà nhân cách của họ khônghoàn thiện, họ vẫn cố gắng phấn đấu để hoàn thiện nhân cách của mìnhvà xã hội không hiếm những người khuyết tật thành đạt trong cuộc sống…Một số học giả tư sản đã cho rằng,yếu tố di truyền quyết định đến sựphát triển tâm lí nhân cách. Con người có nguồn gốc phát sinh khác nhauthì có sự phát triển nhân cách khác nhau. Họ cho rằng những người datrắng thì thông minh, xinh đẹp, là người sinh ra để làm ông chủ… cònnhững người da đen chỉ là loại xấu xí, đáng khinh thường, sinh ra đã làkiếp nô lệ. Đây là một nhận định hoàn toàn sai của các học giả tư sản. Yếutố di truyền chỉ là yếu tố đóng vai trò làm tiền đề, chứ không quyết định.2. Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển nhân cách:Vai trò chủ đạo của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhâncách của thế hệ trẻ được thể hiện ở những điểm sau đây:- Giáo dục vạch ra chiều hướng cho sự hình thành và phát triển nhâncách của học sinh và dẫn dắt sự hình thành và phát triển nhân cách củahọc sinh theo chiều hướng đó.Ví dụ: giáo dục dạy trẻ biết yêu thương đoàn kết, giúp đỡ bạn bè, quýtrọng thầy cô, lễ phép với ông bà, cha mẹ, biết kính trên nhường dưới,chăm ngoan, học giỏi…- Giáo dục có thể mang lại những cái mà các yếu tố bẩm sinh di truyền haymôi trường tự nhiên không có được.Ví dụ: nếu đứa trẻ sinh ra không bị khuyết tật thì theo sự tăng trưởng vàphát triển và phát triển của cơ thể, đến một giai đoạn nhất định đứa trẻ sẽbiết nói. Nhưng muốn đọc được sách báo thì nhất thiết đứa trẻ phải học.- Giáo dục có thể bù đắp những chỗ thiếu hụt do bệnh tật đem lại cho conngười.Ví dụ: bằng những phương pháp giáo dục đăc biệt trẻ em và người lớn bịkhuyết tật ( câm, mù, điếc…) có thể được phục hồi những chức năng đãmất, hoặc có thể phát triển tài năng và trí tuệ một cách bình thường.Ví dụ: nhạc sĩ ghi ta Văn Vượng bị mù từ bé, nhưng nhờ có giáo dục màtrở thành tài năng âm nhạc, nhà giáo Nguyễn Ngọc Kí bị liệt tay bẩm sinhnhưng nhờ giáo dục và nỗ lực bản thân, ông đã trở thành nhà giáo ưu túviết chữ bằng chân rất đẹp.- Giáo dục có thể uốn nắn những phẩm chất tâm lí xấu, do tác động tựphát của môi trường xã hội gây nên và làm cho nó phát triển theo chiềuhướng mong muốn của xã hội.Ví dụ: công tác giáo dục trẻ em hư hoặc cải tạo lao động đối với ngườiphạm pháp.- Giáo dục có thể đi trước hiện thực, trong khi tác động tự phát của xã hộichỉ ảnh hưởng đến mức độ hiện có của nó.Ví dụ: mục tiêu giáo dục của chúng ta là xây dựng con người mới xã hộichủ nghĩa. Đây chính là tính chất tiên tiến của giáo dục.- Những công trình nghiên cứu về tâm lí học và giáo dục học hiện đại đãchứng minh rằng, sự phát triển tâm lí của trẻ em chỉ có thể diễn ra mộtcách tốt đẹp trong những điều của sự dạy và giáo dục.Tuy nhiên, giáo dục chỉ vạch ra đường hướng cho sự hình thành và pháttriển nhân cách của học sinh và thúc đẩy quá trình hình thành và phát triểntheo hướng đó. Còn cá nhân học sinh có phát triển theo hướng đó haykhông, phát triển đến mức độ nào… điều này giáo dục không quyết địnhtrực tiếp được, bởi vì còn phụ thuộc rất nhiều ở sự nhận thức và hoạt độngcủa đứa trẻ.Ví dụ: cùng trong một môi trường giáo dục, nhưng có những đứa trẻ lạihọc giỏi, phát triển nhân cách rất tốt, sau này trở thành một con ngườithành đạt trong cuộc sống, nhưng có những đứa trẻ hoc rất dốt, nhân cáchphát triển kém, sau này trở thành tội phạm, đi vào con đường tọi lỗi, bănghoại về mặt nhân cách…Cần phê phán quan điểm cho rằng giáo dục là “ vạn năng “, xem đứa trẻnhư tờ giấy trắng mà trên đó nhà giáo dục muốn vẽ sao thì vẽ.Giáo dục một mặt cung cấp cho con người những trí thức, kỹ năng,kỹxảo,mặt khác, hình thành trong nhân cách họ những phẩm chất tâm lí cầnthiết theo yêu cầu cần của sự phát triển xã hội. Sản phẩm văn hóa của loàingười có thể biến thành tài sản tinh thần của nhân cách nhờ hoạt động dạyhọc và giáo dục. Trong xã hội hiện nay, gia đình, nhà trường và xã hội cóthể đạt tới một sự thống nhất cao hơn cao hơn trong việc giáo dục thế hệtrẻ.Như vậy, có thể kết luận rằng: giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sựhình thành và phát triển nhân cách, song không nên tuyệt đối hóa vai tròcủa giáo dục. Giáo dục không phải là vạn năng, bởi giáo dục chỉ vạch raphương hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách và thúc đẩy quátrinh hình thành và phát triển nhân cách theo hướng đó. Còn cá nhân cóphát triển theo hướng đó hay không và phát triển theo mức độ nào thì giáodục không quyết định trực tiếp được mà cái quyết định trực tiếp lại chính làhoạt động và giao tiếp của mỗi cá nhân. Do đó, cần phải tiến hành giáodục trong mố quan hệ hữu cơ với việc tổ chức hoạt động, tổ chức quan hệgiao tiếp, hoạt động cùng nhau trong mối quan hệ xã hội nhóm và tập thể.Đặc biệt, con người là thực thể tích cực, có thể tự hình thành và biến đổinhân cách của mình một cách có ý thức, có khả năng tự cải tạo chính bảnthân mình, có nhu cầu tự khẳng định, tự ý thức, tự điều chỉnh cho nên conngười hoạt động giáo dục. Hoạt động này là quá trình con người tự biếtkiềm chế bản thân mình, biết hướng nhu cầu, hứng thú, giá trị của mìnhcho phù hợp với những chuẩn mực đạo đức, giá trị của xã hội. vì vậy giáodục không được tách rời với tự giáo dục, tự rèn luyện,tự hoàn thiện nhâncách ở mỗi cá nhân. Đó là nguyên nhân tại sao, cùng một môi trường giáodục mà có những người lại thành công trong cuộc sống, có những ngườithì lại lâm vào con đường tội lỗi, phạm pháp…