Viết đoạn văn ngắn cảm nhận về nhân vật bé Thu

“Chiếc lược ngà” là một tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Quang Sáng về cuộc sống gia đình Nam Bộ những năm kháng chiến chống Mĩ. Gia đình bị chia cách, cha con không nhận ra nhau, chính điều ấy đã dẫn đến hoàn cảnh bé Thu không nhận ra cha, trở nên bướng bỉnh và lạnh nhạt với ông Sáu. Tuy nhiên, chính trong hoàn cảnh ấy ta lại thấy tình yêu thương cha mãnh liệt của bé Thu được thể hiện khi cô bé nhận ra ông Sáu. Dưới đây là một số bài văn mẫu về nhân vật bé Thu trong tác phấm, chúc các bạn học tốt! Đây là dạng đề bài khá tiêu biểu trong bài học này trong đó nhân vật bé Thu và ông Sáu là 2 nhân vật trung tâm với rất nhiều cung bậc cảm xúc cũng như diễn biến nhân vật khác nhau đòi hỏi các em cần phải nêu rõ và cảm nhận sâu sắc

BÀI VĂN SỐ 1 CẢM NGHĨ VỀ NHÂN VẬT BÉ THU TRONG TÁC PHẨM CHIẾC LƯỢC NGÀ

Ta biết đến Nguyễn Quang Sáng thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành trong cách mạng, một người nghệ sĩ đa tài sáng tác nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim,… chủ yếu về con người Nam Bộ. Một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của ông là “Chiếc lược ngà”, viết về tình cha con sâu nặng. Hình ảnh một bé Thu gan lì bướng bỉnh nhưng có tình yêu thương cha sâu sắc mãnh liệt còn để lại ấn tượng mãi trong lòng người đọc.

Trích đoạn truyện ngắn “Chiếc lược ngà” xoay quanh cuộc gặp gỡ giữa hai cha con: ông Sáu và bé Thu sau 8 năm xa cách. Ngày ông Sáu lên đường đi kháng chiến, Thu chưa đầy một tuổi. Tám năm sau ông mới có dịp về thăm nhà nhưng thật trớ trêu Thu lại không chịu nhận cha. Tình huống truyện đặc sắc mà cảm động đã bộc lộ tình yêu thương cha sâu nặng của một em nhỏ trong thời kỳ đất nước còn bom đạn.

Thu xuất hiện là một cô bé hồn nhiên xinh xắn với mái tóc cắt ngang vai, mặc quần đen áo ông đỏ đang chơi ở nhà chòi. Sau bao năm xa cách, đứng trước con, ông Sáu không kìm nổi xúc động, cất tiếng gọi “Thu,con!”. Ngược lại với niềm mong mỏi ấy, Thu phản ứng khác thường, tỏ ra ngờ vực lảng tránh, ông Sáu càng đến gần, con bé lại càng đẩy ông ra. Đầu tiên, nghe gọi, con bé “giật mình, tròn mắt nhìn”. Đây là một hành động rất tự nhiên, sự ngạc nhiên khó hiểu của Thu khi thấy một người xa lạ gọi mình là con. Sau đó, khi ông Sáu lặp bặp: “Ba đây con”, con bé bỏ chạy và thét lên “Má, má”, đây là phản ứng sợ hãi rất dễ hiểu của một đứa trẻ, Thu chưa sẵn sàng tâm lí để đón nhận sự việc, đón nhận người cha em chưa một lần gặp mặt, hành động của Thu đáng thương hơn là đáng trách.

Thu cũng là một cô bé có cá tính, ngang ngạnh, bướng bỉnh. Mặc những cử chỉ quan tâm của ông Sáu, Thu vẫn gan lì không chịu gọi ba. Khi bị mẹ đánh, con bé chỉ nói chổng: “Vô ăn cơm”, “Cơm chín rồi”, gọi ông Sáu là “người ta”. Chiến tranh đã làm cha con chia lìa, nay còn làm con không nhận ra cha. Khi bị dồn đến đường cùng phải nhờ sự giúp đỡ của ông Sáu, nó vẫn không chịu lễ phép, chỉ nói “Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái”, “Cơm sôi rồi, nhão bây giờ”. Mặc dù sợ nhưng nó nhất quyết không chịu gọi ông Sáu là ba, nó lấy cái vá múc từng vá nước, lúc này dường như Thu đã trở nên đáng trách hơn là đáng thương, với bé Thu, người trong bức ảnh chụp chung với má mới chính là ba nó. Khi ông Sáu gắp cho nó cái trứng cá to, nó hất ra làm vợ văng tung tóe, bị cha đánh, nó chỉ ngồi im, cúi gằm, gắp cái trứng cá bỏ vào bát rồi đứng dậy sang ngoại và khóc ở bên đấy.

Thu quả là một cô bé ngang ngạnh, nhưng phản ứng của em không hoàn toàn đáng trách vì em còn quá nhỏ để hiểu được mọi chuyện, hơn tất cả, cách hành xử của Thu là do em yêu thương cha quá nhiều. Trong giờ phút chia tay, thái độ và hành động của Thu đã bắt đầu thay đổi. Mặt con bé tối sầm lại, buồn rầu và đôi mắt nó xôn xao. Nó hét lên “Baa..aa..aa”, tiếng gọi kéo dài của tình phụ tử nồng nàn, của sự dồn nén bao nhiêu lâu nay. Cách thể hiện tình cảm ấy chứng tỏ tình yêu thương cha của Thu lớn đến chừng nào, tiếng kêu như tiếng xé, nghệ thuật so sánh và nói quá khắc đậm giây phút xúc động nghẹn ngào. Hóa ra Thu không chịu nhận ba là do vết thẹo dài không giống trong ảnh, khi biết đó là ba, Thu đã bày tỏ tình cảm vô cùng mãnh liệt. Con bé chạy xô tới, nhảy thót lên ôm cổ ba: “Ba ở nhà với con”, bé Thu mong ba ở lại để có thể bù đắp cho ba những tình cảm thiếu hụt đã qua. Thu hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài trên má ba nó. Những cái hôn thể hiện tình yêu sâu sắc và sự hối hận của Thu vì những hành động lạnh nhạt với ba. Thu siết chặt lấy cổ, dang cả hai chân câu chặt lấy ba, đôi vai bé nhỏ của con bé run run “Ba về ba mua cho con một cây lược nghe ba”. Giây phút chia tay của cha con ông Sáu vô cùng cảm động, tình cha con mới chợt đồng điệu thì cũng là lúc ông Sáu phải rời đi. Qua tác phẩm, ta cảm nhận được tình yêu thương cha mãnh liệt đáng trân trọng của cô bé 8 tuổi. Đồng thời thêm thấm thía những đau thương mất mát mà chiến tranh gây ra cho bao gia đình, bao con người, thêm trân trọng giá trị thiêng liêng của hạnh phúc gia đình đơn sơ, giản dị.

Xem thêm:  Chuyển bài thơ Bếp lửa thành một câu chuyện qua lời kể của người cháu

Có thể khẳng định “Chiếc lược ngà” là một truyện cổ tích thời hiện đại về tình phụ tử thiêng liêng. Hiểu thêm vẻ đẹp tâm hồn của một em bé Nam Bộ vừa hồn nhiên trong sáng, vừa có cá tính rạch ròi, quyết liệt với tình yêu thương cha sâu sắc trong những năm tháng đất nước còn chưa im tiếng súng.


Hình ảnh bé Thu rất dễ thương rất mạnh mẽ, nhiều lúc người đọc cảm thấy giận, nhưng nếu đặt mình vào hoàn cảnh của bé thì đó là 1 điều đáng thương hơn là đáng trách, nhưng cuối cùng thì tình cảm cha con cũng được chắp nối và bùng nổ vào đoạn cuối của câu chuyện

BÀI VĂN MẪU SỐ 2 CẢM NGHĨ VỀ NHÂN VẬT BÉ THU TRONG CHIẾC LƯỢC NGÀ:

Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, quê ở Chợ Mới, tỉnh An Giang. Là bộ đội thời đánh Pháp, sau năm 1954 tập kết ra miền Bắc mới bắt đầu viết văn. Trong những năm đánh Mĩ, ông sống và hoạt động tại chiến trường Nam Bộ. Những trang văn của ông đậm đặc màu sắc Nam Bộ, bao sự tích anh hùng, những tình huống hấp dẫn đầy kịch tính và giàu chất. Ông để lại nhiều tác phẩm đặc sắc bằng nhiều thể loại, các tập truyện ngắn và nhiều tiểu thuyết khác nổi tiếng, được bạn đọc đón nhận. Ngoài ra ông còn có một số kịch bản phim. Có thể nói, “Chiếc lược ngà” chính là tác phẩm đã làm nên tên tuổi của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Tác phẩm được viết năm 1966 khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ những năm kháng chiến chống Mĩ.

Ông Sáu sau tám năm chiến đấu ở chiến trường, khi được nghỉ phép về thăm nhà, lòng ông nôn nao vì biết sắp được gặp con gái của mình, khi ông đi, con gái của mình mới được hơn một tuổi, lần này trở về không tránh khỏi cảm giác hồi hộp, mong chờ. Có lẽ, tình cảm cha con thiêng liêng khiến ông nhận ngay ra bé Thu khi thuyền vừa mới cập bến, đó là một đứa bé khoảng lên chín, lên mười đang chơi ở gốc xoài. Sự xúc động, vui sướng khiến ông nghẹn ngào gọi tên con: “Thu! Con…”. Khi nghe tiếng ông Sáu ở bến xuồng, Thu “giật mình tròn mắt nhìn” Nó ngơ ngác lạ lùng nhìn rồi bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên “ má, má”. Có lẽ khi nhìn thấy một người lạ mặt, cùng với vết thẹo dài đã khiến cho Thu sợ.

Trong những ngày ông Sáu ở nhà, Thu lại cực kì xa lánh ông, ông càng vỗ về thì nó lại càng đẩy ra, khiến ông sáu rất buồn, con bé cũng không chịu gọi ông là ba. Khi mẹ bảo Thu “mời ba vô ăn cơm”, Thu gọi “trổng” “vô ăn cơm”. Nồi cơm sôi, không tự chắt được con bé cũng nhất quyết không chịu gọi ba để được giúp đỡ. Có thể thấy tính cách của Thu khá ương ngạnh, cá tính, ngang bướng. Nhất là khi Thu quá đáng hất văng miếng trứng cá của ông Sáu gắp cho nó. Bị ba đánh, tưởng như Thu như bao đứa trẻ khác ăn vạ, khóc lóc với mẹ, hay đòi lên án, mà kết quả khiến ta bất ngờ. Nhưng không, nó ngồi im, đầu cúi gằm xuống. “Nghĩ thế nào nó cầm đũa, gắp lại cái trứng cá để vào chén, rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm”. Ít nhiều dù trẻ con, nhưng Thu có tính cách mạnh mẽ, không chịu khóc lấy một giọt nào, mà chạy sang nhà bà ngoại mới oà khóc không dỗ được.

Xem thêm:  Bàn về đọc sách, nhất là đọc các tác phẩm văn học lớn, người xưa nói: “Tuổi trẻ… thưởng trăng trên đài”. Em hãy viết đoạn văn nêu cách hiểu của bản thân về câu nói trên

Rồi sau đó, em nghe bà kể mới biết chính chiến tránh đã đem lại vết thẹo dài trên mặt ba. Vừa thương ba, vừa hối hận và căm thù chiến tranh, cảm xúc của em khiến ta thấy xúc động, sự ương ngạnh những ngày qua được giải đáp, con bé thấy ông Sáu trên ảnh không có vết thẹo nên mới không tin, sự ương bướng đó chính là sự bảo vệ cha trong tim cô bé. Khi Thu nhận ra cha, chỉ khi ông Sáu buồn rầu quay lại nhìn nó – không dám lại gần sợ nó lại bỏ chạy như lần trước – nói: “Ba đi nghe con” thì nó bất ngờ lao đến thét lên: Ba., a… a…ba! Rồi ôm chặt lấy ông nức nở “Con không cho ba đi”, tiếng “ba” như vỡ tung ra từ sự nhớ nhung, “nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó”, khóc và hôn lên vết thẹo, thương ba đến vô hạn. Thu vốn là đứa trẻ rất giàu tình cảm.

Thành công trong cách xây dựng nhân vật bé Thu – một cô bé bướng bỉnh, cá tính nhưng có tình cảm yêu ba tha thiết cảm động. Nguyễn Quang Sáng đã tỏ ra rất am hiểu tâm lí trẻ thơ, miêu tả chính xác và độc đáo, bởi vậy nhà văn đã tạo nên được một nhân vật trẻ thơ sống động gây xúc động sâu xa trong lòng người đọc.


Diễn biến tâm trạng của bé Thu trong truyện để lại cho người đọc rất nhiều cảm xúc và tâm trạng khác nhau, nhưng khi đọc hết câu chuyện và hiểu hơn về hoàn cảnh của bé cũng như của ông Sáu thì mới cảm nhận cái đau thương mất mát của chiến Tranh và sự quý báu của tình cảm cha con tình cảm gia đình

BÀI VĂN SỐ 3 CẢM NHẬN NHÂN VẬT BÉ THU TRONG “CHIẾC LƯỢC NGÀ”

Với nhà thơ Hữu Thỉnh – Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, Nguyễn Quang Sáng là “nhà văn của đồng bằng Nam Bộ”. Bởi “văn chương của ông hồn hậu, mang được hơi thở, phong cách lẫn khẩu khí, phong độ của người dân Nam Bộ rất rõ. […]Đọc văn anh có cảm giác như được tiếp xúc với cuộc đời thật, với hơi thở cuộc sống thật, với những con người thật mình đã từng gặp đâu đó”. Thật vậy, đọc “Chiếc lược ngà”, qua hình tượng bé Thu, ta như thấy được hình ảnh con người Nam Bộ ở đó.

“Chiếc lược ngà” được viết văn 1966, vào những năm tháng chiến đấu gian khổ, khốc liệt và đau thương nhất của đồng bào Nam Bộ thời chống Mĩ cứu nước. Tác phẩm được chia thành hai lát cắt bởi khoảng cách 12 năm: nhân vật ông Ba gặp cô bé bơ vơ Thu 8 tuổi và tái ngộ cô giao liên Thu 20 tuổi lại có thể chia thành hai câu chuyện: câu chuyện về tình cha con của ông Sáu với Thu, và câu chuyện tài trí của giao liên Thu. Với kết cấu mở, không bó buộc, Nguyễn Quang Sáng đưa người đọc đến với câu chuyện vùng đất miền Tây một cách chân thực và tự nhiên nhất.

Ta thấy được hình ảnh của bao đứa bé miền Nam trong hình ảnh bé Thu. Cô bé phải xa cha khi chưa đầy một tuổi. Tám năm trời, hai cha con chỉ biết nhau qua tấm ảnh. Lần nghỉ phép ba ngày là cơ hội hiếm có để hai cha con gặp lại nhau. Nhưng chỉ vì vết sẹo không giống trong ảnh mà Thu nhất định không chịu nhận ông Sáu là ba. Đến lúc nhận ra thì cũng là giây phút cha phải lên đường. Phút giây gặp gỡ ấy là đầu tiên trong 8 năm của cô bé mà cũng là duy nhất trong cuộc đời cô giao liên ấy.

Điều đầu tiên chúng ta có thể nhận thấy ở cô bé Thu chính là một cô bé bướng bỉnh, có cá tính mạnh mẽ. Phút giây hội ngộ sau bao năm xa cách, trái với sự háo hức và tưởng tượng của aanh Sáu, bé Thu vụt chạy đi, nét mặt đầy sợ hãi kêu “má, má” khiến anh Sáu chỉ biết “nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai cánh tay buông xuống như bị gãy”. Trong ba ngày nghỉ phép ngắn ngủi, người cha ấy chẳng đi đâu, chỉ ở nhà với mong muốn được gần con hơn nhưng con bé lại tỏ ra rất cứng đầu, nhất định không chịu gọi một tiếng “ba”. Nhà văn đã dựng lên một loạt những chi tiết miêu tả hành động, lời nói và thái độ cố chấp của Thu: Khi má bắt kêu ba vô ăn cơm, Thu vẫn chỉ nói trống không “Vô ăn cơm! Cơm chín rồi”, “con kêu rồi mà người ta không nghe”. Hai tiếng “người ta” như một lưỡi dao đâm vào trái tim người cha, anh chỉ biết khẽ lắc đầu cười”. Và cô bé vẫn giữ thái độ kiên quyết ấy, trong mọi tình huống:  “Cơm sôi rồi, chắt nước dùm cái.”,”Cơm nhão bây giờ”. Khi ông Sáu gắp cái trứng cá vào chén cho nó thì cô bé “liền lấy đũa xoi vào chén, để rồi bất thần hất cái trứng ra, cơm văng tung tóe cả bàn”. Sau cái đánh của ông Sáu đánh mà vẫn cô bé vẫn không khóc: “Gắp cái trứng cá vào chén”. Hành động ấy chính là đỉnh điểm của thái độ cương quyết từ chối tình yêu thương của ông Sáu. Tính cách mạnh mẽ đến bướng bỉnh, bấp chấp ấy đôi khi khiến người đọc khó hiểu và cả giận em mà thương cho anh Sáu nữa. Nhưng ta vẫn không thể ngưng mỉm cười với hành động giận dỗi rất dễ thương của trẻ con: “xuống bến, nó nhảy xuống xuồng, mở lòi tói cố làm cho dây lòi tói khua rổn rảng, khua thật to”. Và rồi lại không khỏi xúc đọng và thương cho em vì những suy nghĩ rất ngây thơ: vì vết sẹo trên mặt không giống với người cha trong ảnh mà em nhất quyết không chịu nhận cha. Thì ra, tất cả những sự bướng bỉnh, kiên quyết kia của Thu, chỉ là em đang cố giữ gìn hình ảnh người cha trong kí ức, bảo vệ tình cảm của mình với người cha ấy và không muốn ai thay thế điều đó. Sự bướng bỉnh cũng chỉ là cái bọc cho tình yêu thương xa sâu nặng của một tâm hồn trẻ thơ non nớt, chưa hiểu chuyện mà thôi.

Xem thêm:  Soạn bài lớp 9: Con chó Bấc

Và tình yêu ba sâu nặng của cô bé cũng được thể hiện trong cảnh cảm động nhất của thiên truyện: giây phút chia ly với anh Sáu. Sáng hôm đó, bé Thu được bà ngoại dẫn về nhà, nhưng em vẫn không dám vào gặp ba. Cô bé cứng cỏi lại như thể bị bỏ rơi: Bé Thu đã đứng dõi theo tất cả những hành động của mọi người. Khi nhìn thẳng, đối diện với người cha “đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao”. Đằng sau đôi mắt trẻ thơ ấy biết đâu là những con sóng tình cảm đang xô đẩy dạt dào. Phải đến khi ông Sáu nói lời tạm biệt thì tình cảm trong cô bé bỗng trỗi dậy, thốt thành tiếng:”Baaaa!”. Tiếng kêu như tiếng xé, rồi cô bé “chạy nhanh như sóc ôm lấy cổ ba nó”. Một loạt những cử chỉ liên tiếp: hôn khắp mọi nơi: nó hôn tóc hôn cổ, hôn cả vết thẹo dài trên má của ba – thứ mà đã khiến cha con nó không thể bên nhau trong ba ngày ngắn ngủi nhưng lại là niềm tự hào lớn lao. Và khi ông Sáu nói “Ba đi rồi ba về với con” thì cô bé hét lên: “không”, hai tay siết chặt cổ, dang cả hai chân quặp lấy ba, đôi vai nhỏ run run. Với tất cả sức lực và nước mắt của mình, cô bé mong ba có thể đừng đi, để cô bé có thể bù lại những ngày đã qua, những ân hận trong lòng cô bé. Nhưng cuộc chia ly nào cũng phải có rời xa. Thu đành phải nhìn ba ra đi, và là sự ra đi mãi mãi đối với cô bé…

Như vậy, trong hai cảnh, chúng ta đã thấy hai cô bé Thu hoàn toàn khác nhau. Nhưng dù là bé Thu bướng bỉnh, mạnh mẽ hay bé Thu đầy tình yêu thương cũng chỉ là hai mặt của tình yêu ba sâu nặng. Hình ảnh cô bé Thu hay hình ảnh của biết bao đứa trẻ Nam Bộ, câu chuyện của anh Sáu hay câu chuyện của biết bao gia đình miền Nam. Nguyễn Quang Sáng đã thể hiện tài hoa của mình trong việc thấu hiểu, nắm bắt và thể hiện tâm tư của đứa trẻ. Cách xây dựng tình huống bất ngờ với ngôn ngữ rất từ nhiên, hình ảnh đậm chất Nam Bộ đã góp phần tạo nên thành công truyện. Nguyễn Quang Sáng đi qua làng văn bằng một cái dáng thấp đậm, vừa gần gũi chan hòa vừa nghiêng ngửa phóng túng như thế! Chính tính cách Nguyễn Quang Sáng làm phong phú thêm hương vị cho tác phẩm Nguyễn Quang Sáng. Đọc những trang văn Nguyễn Quang, không thể nào phủ nhận: ông luôn biết cách tìm kiếm những chi tiết nhỏ để vun đắp một cuộc đời lớn!

Xin kết lại bằng nhận xét của nhà văn – nhà phê bình văn học Ngô Thảo về “một trong những con khủng long quý hiếm của nền văn học thời chiến trận mà tác phẩm không có hận thù”, một câu ngắn gọn nhưng không thể đầy đủ hơn: “Nhà văn sinh ra vốn được mặc định phải gánh trên vai rất nhiều trọng trách. Riêng ông Sáng chẳng chịu gánh cái gì nhưng mang lại một gánh sách cho đời, âu cũng là một trường hợp đặc biệt”.

Video liên quan

Chủ Đề