Ấp 2 khinh trung uong huyen bình chánh năm 2024
Phân cấp hành chính Việt Nam là sự phân chia các đơn vị hành chính của Việt Nam thành từng tầng, cấp theo chiều dọc. Theo đó cấp hành chính ở trên (cấp trên) sẽ có quyền quyết định cao hơn, bắt buộc đối với cấp hành chính ở dưới (hay cấp dưới). Show
Phân cấp hành chính Việt Nam hiện nay theo Điều 110 Hiến pháp 2013 và Điều 2 Luật Tổ chức chính quyền địa phương gồm 3 cấp hành chính là:
Ngoài ra còn có đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập. Dưới xã có làng / thôn / bản / buôn / sóc / ấp..., dưới phường / thị trấn có khu dân cư / khu phố / khu vực / khóm / ấp. Khi lượng dân cư đông thì thôn làng dưới xã có thể chia ra các xóm, còn khu dân cư ở phường/thị trấn thì chia ra tổ dân phố, dưới tổ dân phố còn chia ra cụm dân cư. Đây là cấp cơ sở không pháp nhân, phục vụ cho quản lý dân cư nhưng không được xem là cấp hành chính, và những người tham gia quản lý hoạt động ở cấp này chỉ hưởng phụ cấp công tác mà không được coi là công chức. Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]Phân cấp hành chính Việt Nam Cấp tỉnh Thành phố trực thuộc trung ương Tỉnh Cấp huyện Quận Thành phố thuộc TPTTTƯ Thành phố thuộc tỉnh Thị xã Huyện Cấp xã Phường Thị trấn Xã
Thời quân chủ[sửa | sửa mã nguồn]Thời Pháp thuộc[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi bình định toàn bộ Việt Nam, Pháp tiến hành chia nước ta làm 3 xứ: Bắc Kỳ và Trung Kỳ đặt dưới chế độ bảo hộ và Nam Kỳ đặt dưới chế độ thuộc địa, tất cả đều trực thuộc liên bang Đông Dương. Về cơ bản, hệ thống hành chính không có nhiều sự thay đổi rõ rệt so với thời nhà Nguyễn. Pháp giữ nguyên các cấp hành chính như cũ, chỉ thực hiện một số thay đổi nhằm áp đặt sự cai trị. Cụ thể, các cấp hành chính như sau:
Tại Nam Kỳ, các cấp hành chính đều do người Pháp quản lý. Thời kỳ 1945 - 1954[sửa | sửa mã nguồn]Vào thời đế quốc Việt Nam, Việt Nam không còn là ba xứ riêng biệt. Các cấp hành chính gần như không thay đổi, tất cả đều do người Việt quản lý. Sau cách mạng tháng Tám, theo điều 57, chương V, Hiến pháp năm 1946: Nước Việt Nam về phương diện hành chính gồm có ba bộ: Bắc, Trung, Nam. Mỗi bộ chia thành tỉnh, mỗi tỉnh chia thành huyện, mỗi huyện chia thành xã. Như vậy vào thời kỳ này các đơn vị hành chính của Việt Nam được phân thành 4 cấp, ngoài các cấp xã, huyện, tỉnh như sau này thì vẫn còn có cấp Bộ (cả nước có 3 Bộ: Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ). Cấp phủ, châu bị bãi bỏ. Các tỉnh thời kỳ 1945 - 1946 (69 tỉnh, thành phố):
Tuy nhiên, đơn vị hành chính cấp Bộ (của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà) chỉ tồn tại trong khoảng vài năm rồi bỏ. Nhưng chính quyền Quốc gia Việt Nam thân Pháp thì lập chức Thủ hiến cho mỗi Phần (chính là Bộ theo cách gọi của họ). Ngày 19/7/1946, thành lập Đặc khu Hồng Gai trên cơ sở tách khỏi tỉnh Quảng Yên. Ngày 12/9/1947, Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ (chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), thay đổi sắp xếp lại hành chính 2 tỉnh Châu Đốc và Long Xuyên để thành lập các tỉnh mới có tên là Long Châu Tiền và Long Châu Hậu. Ngày 12/2/1950, thành lập tỉnh Vĩnh Phúc trên cơ sở sáp nhập 2 tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên. Tháng 8/1950, thành lập đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn trên cơ sở thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn. Tháng 10/1950, thành lập tỉnh Long Châu Hà trên cơ sở sáp nhập 2 tỉnh Long Châu Hậu và Hà Tiên. Tháng 6/1951, 2 tỉnh Long Châu Tiền và Sa Đéc hợp nhất thành tỉnh Long Châu Sa. Tháng 5/1951, Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ đã thay đổi sắp xếp hành chính nhiều tỉnh ở Nam Bộ như sau:
Các tỉnh mới này ở Nam Bộ tồn tại đến tháng 8/1954 thì giải thể, phân chia đơn vị hành chính trở lại giống như thời gian trước năm 1947. Thời kỳ 1954 - 1975[sửa | sửa mã nguồn]Miền Bắc Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]Trong thành phố trực thuộc trung ương, thời kỳ 1954-1958 có các cấp hành chính quận (ở cả nội thành và ngoại thành), dưới quận có khu phố (ở nội thành) và xã (ở ngoại thành, ngoài ra có phố là cấp không thông dụng, như phố Gia Lâm ở Hà Nội). Năm 1958, nội thành bỏ quận, thay bằng khu, dưới khu là khối dân phố, ngoại thành có quận (từ năm 1961 đổi là huyện) và xã. Năm 1974, đổi tên gọi khối dân phố thành cấp tiểu khu. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1954 có 34 đơn vị hành chính:
Năm 1955: Tỉnh Quảng Yên và đặc khu Hòn Gai hợp nhất thành khu Hồng Quảng; bỏ 2 tỉnh Lai Châu, Sơn La để lập Khu tự trị Thái Mèo. Cả nước có 29 tỉnh thành. Theo Hiến pháp năm 1959, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phân cấp hành chính như sau: Các đơn vị hành chính trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phân định như sau:
Như vậy ở thời kỳ này cấp Bộ đã không còn, nhưng lại xuất hiện các khu tự trị. Miền Bắc Việt Nam có 2 khu tự trị, được thành lập từ năm 1955-1956: Khu tự trị Tây Bắc (ban đầu gọi là Khu tự trị Thái Mèo) và Khu tự trị Việt Bắc. Khu tự trị Tây Bắc lúc đầu chỉ có các cấp châu (tương đương huyện) và xã, bỏ cấp tỉnh, nhưng đến năm 1963 đã lập lại các tỉnh. 2 khu tự trị này tồn tại đến tháng 12/1975. Năm 1961, Quốc hội quyết định mở rộng địa giới Hà Nội, sáp nhập thêm một số xã của Hà Đông, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc và Hưng Yên. Năm 1962, 2 tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh hợp nhất thành tỉnh Hà Bắc, tỉnh Kiến An nhập vào thành phố Hải Phòng; tái lập 2 tỉnh Lai Châu, Sơn La từ Khu tự trị Thái Mèo và thành lập tỉnh Nghĩa Lộ thuộc khu tự trị Tây Bắc. Cả nước có 30 tỉnh thành. Năm 1963, tỉnh Hải Ninh và khu Hồng Quảng hợp nhất thành tỉnh Quảng Ninh. Cả nước có 30 tỉnh thành. Năm 1965, 2 tỉnh Bắc Cạn, Thái Nguyên hợp nhất thành tỉnh Bắc Thái; 2 tỉnh Hà Nam, Nam Định hợp nhất thành tỉnh Nam Hà, 2 tỉnh Hà Đông và Sơn Tây hợp nhất thành tỉnh Hà Tây. Cả nước có 27 tỉnh thành. Năm 1968, 2 tỉnh Hưng Yên, Hải Dương hợp nhất thành tỉnh Hải Hưng; 2 tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc hợp nhất thành tỉnh Vĩnh Phú. Cả nước có 25 tỉnh thành. Đến năm 1975, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có 2 thành phố trực thuộc trung ương và 23 tỉnh: Miền Nam Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]Chính quyền Việt Nam Cộng hòa phân ra các cấp hành chính: tỉnh, quận (tương đương với quận và huyện ngày nay), xã; ngoài ra còn có 10 thị xã tự trị. Toàn miền Nam Việt Nam từ khoảng năm 1965 chia thành 44 tỉnh. Về mặt quân sự, trên cấp tỉnh còn có Vùng chiến thuật (lập ra năm 1961) và đến năm 1970 đổi tên thành Quân khu. Tất cả miền Nam Việt Nam có 4 Vùng chiến thuật (Quân khu). Cấp tỉnh đóng trụ sở tại thị xã, về mặt quân sự gọi là tiểu khu, cấp quận đóng trụ sở tại thị trấn quận lị, về mặt quân sự gọi là chi khu. Tỉnh Gia Định về sau cùng với thủ đô Sài Gòn trở thành Biệt khu Thủ đô, đứng đầu là Đô trưởng. Năm 1974, Việt Nam Cộng hòa gồm 43 tỉnh và Đô thành Sài Gòn, trong đó có 10 thị xã và 257 quận: Stt Tên tỉnh Năm thành lập Đơn vị hành chính (Thị xã và Quận) Tên Tỉnh lỵ Chú thích Đô thành Sài Gòn 1865 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10 và 11 Thủ đô Sài Gòn 1 Quảng Trị 1900 Cam Lộ, Đông Hà, Gio Linh, Hải Lăng, Hướng Hóa, Mai Lĩnh và Triệu Phong Quảng Trị Khu vực Trung nguyên Trung phần 2 Thừa Thiên 1822 (phủ Thừa Thiên) Tx Huế, quận Hương Điền, Hương Thủy, Hương Trà, Nam Hòa, Phong Điền, Phú Lộc, Phú Thứ, Phú Vang, Quảng Điền Huế nt 3 Quảng Nam 1831 Tx Đà Nẵng, quận Duy Xuyên, Đại Lộc, Điện Bàn, Đức Dục, Hiếu Đức, Hiếu Nhơn, Hòa Vang và Thường Đức Hội An nt 4 Quảng Tín 1956 Hậu Đức, Lý Tín, Tam Kỳ, Thăng Bình và Tiên Phước Tam Kỳ nt 5 Quảng Ngãi 1832 Ba Tơ, Bình Sơn, Đức Phổ, Minh Long, Mộ Đức, Nghĩa Hành, Sơn Hà, Sơn Tịnh, Trà Bồng và Tư Nghĩa Quảng Ngãi nt 6 Bình Định 1921 Tx Quy Nhơn, quận An Nhơn, An Túc, Bình Khê, Hoài Ân, Hoài Nhơn, Phù Cát, Phù Mỹ, Tam Quan và Tuy Phước Quy Nhơn nt 7 Phú Yên 1921 Đồng Xuân, Hiếu Xương, Sông Cầu, Sơn Hòa, Tuy An và Tuy Hòa Tuy Hòa nt 8 Khánh Hòa 1931 Tx Cam Ranh, Tx Nha Trang, quận Cam Lâm, Diên Khánh, Khánh Dương, Ninh Hòa, Vạn Ninh và Vĩnh Xương Nha Trang nt 9 Ninh Thuận 1901 An phước, Bửu Sơn, Du Long, Sông Pha và Thanh Hải Phan Rang nt 10 Bình Thuận 1827 Hải Long, Hải Ninh, Hàm Thuận, Hòa Đa, Phan Lý Chàm, Thiện Giáo và Tuy Phong Phan Thiết nt 11 Kon Tum 1913 Chương Nghĩa, Dak Sut, Dak To và Kontum Kontum Khu vực Cao nguyên Trung phần 12 Pleiku 1932 Lệ Trung, Phú Nhơn, Thanh An và Thuận Đức Pleiku nt 13 Phú Bổn 1962 Phú Thiện, Phú Túc và Thuần Mẫn Hậu Bổn (Cheo Reo) nt 14 Đắk Lắk 1923 Ban Mê Thuột, Buôn Hồ, Lạc Thiện và Phước An Ban Mê Thuột nt 15 Quảng Đức 1959 Đức Lập, Khiêm Đức và Kiến Đức Gia Nghĩa nt 16 Tuyên Đức 1958 Tx Đà Lạt, quận Đơn Dương, Đức Trọng và Lạc Dương Đà Lạt Tùng Nghĩa nt 17 Lâm Đồng 1958 Bảo Lộc, Di Linh Bảo Lộc nt 18 Bình Tuy 1956 Hàm Tân, Hoài Đức và Tánh Linh Hàm Tân Khu vực Nam phần Hiện nay:Đông Nam Bộ 19 Phước Tuy 1957 Tx Vũng Tàu, quận Đất Đỏ, Đức Thạnh, Long Điền, Long Lễ và Xuyên Mộc Phước Lễ nt 20 Long Khánh 1956 Định Quán, Kiệm Tân và Xuân Lộc Xuân Lộc nt 21 Biên Hòa 1900 Công Thanh, Dĩ An, Đức Tu, Long Thành, Nhơn Trạch và Tân Uyên Biên Hòa nt 22 Gia Định 1899 Bình Chánh, Cần Giờ, Gò Vấp, Hóc Môn, Nhà Bè, Quảng Xuyên, Tân Bình và Thủ Đức Gia Định nt 23 Bình Dương 1956 Bến cát, Châu Thành, Lái Thiêu, Phú Hòa, Phú Giáo và Trị Tâm Phú Cường nt 24 Tây Ninh 1900 Hiếu Thiện, Khiêm Hạnh, Phú Khương và Phú Ninh Tây Ninh nt 25 Bình Long 1956 An Lộc, Chơn Thành và Lộc Ninh An Lộc nt 26 Phước Long 1956 Bố Đức, Phước Bình, Đôn Luân và Đức Phong Phước Bình nt 27 Hậu Nghĩa 1963 Củ chi, Đức Hòa, Đức Huệ và Trảng Bàng Khiêm Cương nt 28 Long An 1956 Bến Lức, Cần Đước, Cần Giuộc, Kiến Bình, Thủ Thừa, Rạch Kiến, Tân Trụ, Thủ Thừa và Tuyên Nhơn Tân An Hiện nay: Tây Nam Bộ 29 Kiến Tường 1956 Ấp Bắc, Châu Thành và Tuyên Bình Mộc Hóa nt 30 Gò Công 1900 Hòa Bình, Hòa Đồng, Hòa Lạc và Hòa Tân Gò Công nt 31 Định Tường 1956 Tx Mỹ Tho, quận Bến Tranh, Cai Lậy, Cái Bè, Châu thành, Chợ Gạo, Giáo Đức, Hậu Mỹ và Sầm Giang Mỹ Tho nt 32 Kiến Phong 1956 Cao Lãnh, Đồng Tiến, Hồng Ngự, Kiến Văn, Mỹ An và Thanh Bình Cao Lãnh nt 33 Châu Đốc 1900 An Phú, Châu Phú, Tân Châu, Tịnh Biên và Tri Tôn Châu Phú nt 34 Kiến Hòa 1956 Ba Tri, Bình Đại, Đôn Nhơn, Giồng Trôm, Hàm Long, Hương Mỹ, Mỏ cày, Thạnh Phú và Trúc Giang Trúc Giang nt 35 Vĩnh Long 1900 Bình Minh, Châu Thành, Chợ Lách, Minh Đức, Tam Bình, Trà Ôn và Vũng Liêm Vĩnh Long nt 36 Sa Đéc 1900 Đức Thạnh, Đức Thịnh, Đức Tôn và Lấp Vò Sa Đéc nt 37 An Giang 1900 Châu Thành, Chợ Mới, Huệ Đức và Thốt Nốt Long Xuyên nt 38 Kiên Giang 1920 Tx Rạch Giá, quận Hà Tiên, Hiếu Lễ, Kiên An, Kiên Bình, Kiên Lương, Kiên Tân và Kiên Thành Rạch Giá nt 39 Vĩnh Bình 1956 Càng Long, Cầu Kè, Cầu Ngang, Châu Thành, Long Toàn, Tiểu Cần và Trà Cú Phú Vinh nt 40 Phong Dinh 1900 Tx Cần Thơ, quận Châu Thành, Phong Điền, Phong Phú, Phong Thuận, Phụng Hiệp, Thuận Nhơn và Thuận Trung Cần Thơ nt 41 Ba Xuyên 1956 Hòa Trị, Kế Sách, Lịch Hội, Long Phú, Mỹ Xuyên, Ngã Năm, Thạnh Trị và Thuận Hòa Khánh Hưng nt 42 Chương Thiện 1961 Đức Long, Hưng Long, Kiên Hưng, Kiên Long, Kiên Thiện và Long Mỹ Vị Thanh nt 43 Bạc Liêu 1900 Giá Rai, Phước Long, Vĩnh Châu và Vĩnh Lợi Bạc Liêu nt 44 An Xuyên 1956 Đầm Dơi, Hải Yến, Năm Căn, Quản Long, Sông Ông Đốc và Thới Bình Quản Long nt Từ năm 1975, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam chỉ dùng tên gọi quận cho khu vực nội thành thành phố, các quận còn lại đổi thành huyện. Sau khi thống nhất đất nước[sửa | sửa mã nguồn]Phân cấp hành chính Việt Nam năm 1976 Tháng 12/1975, Quốc hội Việt Nam khóa V đã ra nghị quyết theo đó cấp khu trong hệ thống hành chính bị bãi bỏ. Các khu tự trị bị giải thể. Việc phân chia các tỉnh, huyện, xã đổi mới liên tục đến mức bản đồ hành chính vừa lập xong đã bị lạc hậu vì thay đổi địa giới và tên gọi các đơn vị. Cuối năm 1975:
Cả nước có 18 tỉnh thành. Đầu năm 1976:
Cả nước có 38 tỉnh thành. Năm 1980, Việt Nam có Hiến pháp mới. Tại đây quy định rằng: Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau
Ngày 3/1/1981, Hội đồng Chính phủ quyết định thống nhất tên gọi các đơn vị hành chính cơ sở ở nội thành, nội thị thuộc các thành phố, thị xã là phường (trước đây là tiểu khu), dưới cấp quận (trước đây là khu phố). Năm 1976, cả nước có 38 tỉnh thành:
Năm 1978, Quốc hội Việt Nam phê chuẩn mở rộng địa giới Hà Nội, sáp nhập thêm 5 huyện Ba Vì, Thạch Thất, Phúc Thọ, Đan Phượng, Hoài Đức và thị xã Sơn Tây của tỉnh Hà Sơn Bình, một phần huyện Mê Linh và Sóc Sơn của tỉnh Vĩnh Phú. Cùng năm, tách tỉnh Cao Lạng thành 2 tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn. Cả nước có 39 tỉnh thành. Năm 1979, thành lập Đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo, tương đương cấp tỉnh. Cả nước có 40 tỉnh thành. Năm 1982, sáp nhập huyện đảo Trường Sa của tỉnh Đồng Nai vào tỉnh Phú Khánh. Năm 1989, tỉnh Bình Trị Thiên tách ra thành 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế; tỉnh Nghĩa Bình tách ra thành 2 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định; tỉnh Phú Khánh tách ra thành 2 tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa. Cả nước có 44 tỉnh thành. Những năm 1991 - 1992:
Cả nước có 53 tỉnh thành. Năm 1997:
Cả nước có 61 tỉnh thành. Năm 2004, tỉnh Lai Châu cũ tách ra thành 2 tỉnh Lai Châu mới và Điện Biên. Tỉnh Đắk Lắk tách ra thành 2 tỉnh Đắk Lắk mới và Đắk Nông. Tỉnh Cần Thơ tách ra thành thành phố Cần Thơ và tỉnh Hậu Giang. Cả nước có 64 tỉnh thành. Ngày 29/5/2008, Quốc hội Việt Nam đã biểu quyết thông qua Nghị quyết về việc điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà Nội và một số tỉnh có liên quan, theo đó hợp nhất toàn tỉnh Hà Tây, 4 xã Yên Trung, Yên Bình, Tiến Xuân và Đông Xuân thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình và huyện Mê Linh thuộc tỉnh Vĩnh Phúc về thành phố Hà Nội. Nghị quyết này có hiệu lực từ ngày 1/8/2008. Hiện nay, cả nước có 63 tỉnh thành. Phân cấp hiện tại[sửa | sửa mã nguồn]Phân cấp hành chính Việt Nam theo Hiến pháp 2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 (sửa đổi 2019)Theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 , căn cứ vào Hiến pháp Việt Nam 2013 được thông qua tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIII ngày 19/06/2015 quy định tại chương I: CHƯƠNG I: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
1. Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh) 2. Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện) 3. Xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) 4. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lậpTheo đó Việt Nam có 3 cấp hành chính: Cấp tỉnh[sửa | sửa mã nguồn]Sau nhiều lần chia tách và nhập lại, tính đến nay, Việt Nam có 63 đơn vị hành chính cấp Tỉnh, bao gồm 5 thành phố trực thuộc trung ương và 58 tỉnh (tương ứng với chữ số được đánh dấu trên "bản đồ Hành chính Việt Nam").
Cấp huyện[sửa | sửa mã nguồn]Đây là cấp hành chính cấp 2 của Việt Nam, thấp hơn (về thẩm quyền), và thông thường thì cấp này cũng có quy mô dân số, diện tích, kinh tế nhỏ hơn cấp tỉnh. Đây là cấp hành chính cao hơn cấp xã, phường, thị trấn. Cấp hành chính này có nhiều tên gọi khác nhau tùy theo cấp hành chính nó trực thuộc, gồm "Huyện", "Thị xã", "Quận", "Thành phố thuộc tỉnh", "Thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương", gọi tuần tự theo mức đô thị hóa. Trong đó, quận và thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương không có trong tỉnh, chỉ áp dụng cho các đơn vị nội thành của thành phố thuộc trung ương. Thành phố thuộc tỉnh không có trong thành phố trực thuộc trung ương. Theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương được Quốc hội khóa XIII thông qua 19/6/2015, chính thức có hiệu lực từ 1/1/2016 đã bổ sung thêm đơn vị hành chính Thành phố thuộc Thành phố trực thuộc trung ương. Điều này nhằm tạo điều kiện cho mục tiêu thực hiện Đề án thành lập chính quyền đô thị của TP HCM. Đến ngày 9/12/2020, Quốc hội khóa 14 chính thức thông qua việc thành lập đơn vị Thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương đầu tiên của cả nước tại Thành phố Hồ Chí Minh là Thành phố Thủ Đức, bằng việc sáp nhập 3 quận Thủ Đức cũ, quận 2 và quận 9. Cấp xã[sửa | sửa mã nguồn]Đây là đơn vị hành chính cấp cơ sở, thấp hơn cấp Huyện. Gọi xã, phường, thị trấn là tùy theo mức đô thị hóa. Trong đó, phường không có trong huyện, xã không có trong quận, thị trấn chỉ có trong huyện. Có 5 đơn vị hành chính cấp huyện không có đơn vị cấp xã (đều là các huyện đảo), bao gồm: Cồn Cỏ (Quảng Trị), Bạch Long Vĩ (Hải Phòng), Hoàng Sa (Đà Nẵng), Lý Sơn (Quảng Ngãi), Côn Đảo (Bà Rịa – Vũng Tàu). Phân cấp địa lý[sửa | sửa mã nguồn]Việt Nam được chia thành 3 miền địa lý, mỗi miền lại được chia thành nhiều vùng địa lý. Phân cấp bầu cử[sửa | sửa mã nguồn]Trong thời điểm bầu cử Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp, mỗi tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương được chia thành nhiều đơn vị bầu cử. Mỗi đơn vị bầu cử lại được chia thành nhiều khu vực bỏ phiếu. Số lượng đơn vị bầu cử ở mỗi tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương tùy vào dân số ở khu vực đó. Trong cuộc bầu cử năm 2011, Việt Nam có 183 đơn vị bầu cử và 89.960 khu vực bỏ phiếu. Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
|