Dấu hiệu bệnh tim ở trẻ sơ sinh
Bệnh tim bẩm sinh hay khuyết tật tim bẩm sinh là một bất thường về tim khi sinh đi kèm các triệu chứng phức tạp có thể đe dọa đến tính mạng. Mặc dù có nhiều loại dị tật tim bẩm sinh khác nhau, nhưng có thể chia bệnh này thành ba loại chính:
Bệnh tim bẩm sinh Cyanotic và Acyanotic: Nhiều bác sĩ phân loại bệnh tim bẩm sinh là bệnh tim bẩm sinh tím tái hoặc bệnh tim bẩm sinh acyanotic. Trong cả hai loại, tim không được bơm máu hiệu quả như bình thường. Sự khác biệt chính là bệnh tim bẩm sinh tím tái gây ra nồng độ oxy trong máu thấp, và bệnh tim bẩm sinh acyanotic không xảy ra. Em bé bị giảm lượng oxy có thể bị khó thở và hơi xanh da. Một khuyết tật tim bẩm sinh thường được phát hiện trong siêu âm thai hoặc các xét nghiệm cụ thể khác như siêu âm tim, X-quang ngực hoặc chụp MRI. Xem thêm: Thai sản trọn gói Trong một số trường hợp, các triệu chứng của khuyết tật tim bẩm sinh có thể không xuất hiện cho đến ngay sau khi sinh. Trẻ sơ sinh bị khuyết tật tim có thể gặp:
Trong các trường hợp khác, các triệu chứng của khuyết tật tim bẩm sinh có thể không xuất hiện cho đến nhiều năm sau khi sinh. Khi các triệu chứng khi phát triển có thể bao gồm:
Bệnh tim bẩm sinh xảy ra do vấn đề về sự phát triển trong cấu trúc tim khiến chức năng và hoạt động của tim bị ảnh hưởng. Mặc dù rất khó phát hiện nguyên nhân cụ thể gây bệnh nhưng có thể do một số nguyên nhân như sau:
Việc điều trị khuyết tật tim bẩm sinh phụ thuộc vào loại và mức độ nghiêm trọng của khuyết tật. Một số em bé bị dị tật tim nhẹ tự lành theo thời gian. Những người khác có thể có khiếm khuyết nghiêm trọng cần điều trị lâu dài bằng các phương pháp sau đây: Thuốc Có nhiều loại thuốc có thể giúp tim hoạt động hiệu quả hơn. Một số cũng có thể được sử dụng để ngăn ngừa cục máu đông hình thành hoặc kiểm soát nhịp tim không đều. Thiết bị cấy ghép tim Một số biến chứng liên quan đến khuyết tật tim bẩm sinh có thể được ngăn ngừa bằng cách sử dụng một số thiết bị, bao gồm máy tạo nhịp tim và máy khử rung tim cấy ghép (ICD). Máy tạo nhịp tim có thể giúp điều chỉnh nhịp tim bất thường và ICD có thể điều chỉnh nhịp tim bất thường đe dọa tính mạng. Thủ tục ống thông tim Kỹ thuật đặt ống thông cho phép các bác sĩ điều trị một số khuyết tật tim bẩm sinh mà không cần phẫu thuật mở ngực và tim. Trong các thủ tục này, bác sĩ sẽ chèn một ống mỏng vào tĩnh mạch ở chân và hướng lên tim. Sau khi ống thông ở đúng vị trí, bác sĩ sẽ sử dụng các dụng cụ nhỏ luồn qua ống thông để điều trị khiếm khuyết. Phẫu thuật mổ mở Nếu thủ thuật ống thông tim không thể can thiệp để điều tị khuyết tật tim bẩm sinh thì các bác sĩ có thể thực hiện phẫu thuật tim hở để đóng các lỗ trên tim, sửa chữa van tim hoặc mở rộng các mạch máu. Ghép tim Trong những trường hợp hiếm gặp khi các khuyết tật tim bẩm sinh quá phức tạp để khắc phục, có thể cần ghép tim. Trong thủ tục này, trái tim của đứa trẻ được thay thế bằng một trái tim khỏe mạnh từ một người hiến tặng. Tùy thuộc vào khuyết tật, chẩn đoán và điều trị có thể bắt đầu ngay sau khi sinh, trong thời thơ ấu hoặc ở tuổi trưởng thành. Một số khiếm khuyết không gây ra bất kỳ triệu chứng nào cho đến khi đứa trẻ trưởng thành, vì vậy chẩn đoán và điều trị có thể bị trì hoãn. Trong những trường hợp này, các triệu chứng của khuyết tật tim bẩm sinh mới được phát hiện có thể bao gồm:
Việc điều trị bệnh tim bẩm sinh ở người lớn cũng có thể khác nhau tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của khuyết tật tim. Một số người có thể chỉ cần theo dõi tình trạng của họ chặt chẽ, và những người khác có thể cần dùng thuốc và phẫu thuật. Phụ nữ đang mang thai hoặc dự định có thai có thể thực hiện một số biện pháp phòng ngừa để giảm nguy cơ sinh em bé bị khuyết tật tim bẩm sinh:
Các biến chứng bệnh tim bẩm sinh có thể phát triển nhiều năm sau khi bạn được điều trị bao gồm:
**Lưu ý: Những thông tin cung cấp trong bài viết của Bệnh viện Đa khoa Hồng Ngọc mang tính chất tham khảo, không thay thế cho việc chẩn đoán hoặc điều trị y khoa. Người bệnh không được tự ý mua thuốc để điều trị. Để biết chính xác tình trạng bệnh lý, người bệnh cần tới các bệnh viện để được bác sĩ thăm khám trực tiếp, chẩn đoán và tư vấn phác đồ điều trị hợp lý. Theo dõi fanpage của Bệnh viện Đa khoa Hồng Ngọc để biết thêm thông tin bổ ích khác: https://www.facebook.com/BenhvienHongNgoc/
Những thay đổi với hệ thống tuần hoàn này xuất hiện sau vài nhịp thở đầu tiên, dẫn đến
Sức cản động mạch phổi giảm mạnh do giãn mạch gây ra do sự giãn nở phổi làm tăng Pao2, và giảm Paco2. Với lực đàn hồi của xương sườn và thành ngực làm giảm áp lực khoảng kẽ của phổi, làm tăng thêm lưu lượng máu qua các mao quản phổi. Tăng dòng máu trở về tĩnh mạch phổi làm tăng áp lực tâm nhĩ trái, do đó làm giảm sự chênh lệch áp giữa tâm nhĩ trái và phải; ảnh hưởng này góp phần giúp đóng chức năng của lỗ bầu dục.
Khi dòng máu qua phổi được thiết lập, máu trở về tĩnh mạch phổi tăng lên, làm tăng áp lực tâm nhĩ trái. Tăng thông khí làm tăng Pao2, làm co động mạch rốn. Lưu lượng máu rau thai giảm hoặc ngừng, làm giảm lượng máu trở về tâm nhĩ phải. Do đó, áp lực nhĩ phải giảm trong khi áp lực nhĩ trái tăng lên; kết quả là hai thành phần thời kỳ bào thai của vách ngăn giữa tâm nhĩ được đẩy lại với nhau, (vách tiên phát và vách thứ phát) làm dừng sự lưu thông máu qua lỗ bầu dục. Ở hầu hết các trường hợp, hai vách ngăn liên kết với nhau và lỗ bầu dục đóng lại.
Ngay sau khi chào đời, sức cản hệ thống trở nên cao hơn sức cản của phổi, trái ngược với thời kì bào thai. Do đó, hướng dòng máu chảy qua ống động mạch bị đảo ngược, tạo ra shunt trái sang phải (được gọi là sự tuần hoàn chuyển tiếp). Tình trạng này kéo dài từ vài phút sau khi sinh (khi dòng máu đến phổi tăng lên và đóng chức năng lỗ bầu dục) cho đến khoảng từ 24 đến 72 giờ, khi ống động mạch bị co lại. Máu qua ống động mạch từ động mạch chủ có phân áp oxy cao (Po2) kèm theo sự thay đổi chuyển hóa prostaglandin, dẫn đến co thắt và đóng ống động mạch. Một khi các ống động mạch đóng lại, tuần hoàn của trẻ giống như tuần hoàn ở người trưởng thành. Hai tâm thất lúc này bơm máu liên tục và không có shunt chệch áp giữa tuần hoàn phổi và tuần hoàn hệ thống.
Trong những ngày đầu ngay sau sinh, một trẻ sơ sinh bị căng thẳng có thể trở lại với tuần hoàn của bào thai. Trẻ sơ sinh ngạt với tình trạng thiếu oxy và tăng carbonic máu gây co thắt các động mạch phổi và giãn ống động mạch, đảo ngược các quá trình được mô tả phía trên và dẫn đến tồn tại luồng shunt từ phải sang trái, thông qua-còn ống động mạch Còn ống động mạch (PDA) , làm mở lại lỗ bầu dục, hoặc cả hai. Hậu quả, trẻ sơ sinh bị thiếu oxy máu nặng có thể có tình trạng tăng áp động mạch phổi dai dẳng Tăng huyết áp phổi dai dẳng của trẻ sơ sinh hoặc tồn tại tuần hoàn thai nhi (mặc dù không có tuần hoàn rốn). Mục tiêu của điều trị là loại bỏ các tình trạng gây ra sự co thắt mạch phổi. |