Học thuyết nào của Tôn Trung Sơn có ảnh hưởng tới cách mạng Việt Nam đầu thế ký 20

Thứ hai - 28/09/2020 14:34

    Tôn Trung Sơn (Tôn Văn, Tôn Dật Tiên, 1866 - 1925), là nhà cách mạng dân chủ vĩ đại của Trung Quốc. Ông sớm tham gia vào hoạt động cứu nước.
    Năm 1894, ông thành lập Hưng Trung Hội, là Hội cách mạng đầu tiên của giai cấp tư sản Trung Quốc để chuẩn bị các cuộc khởi nghĩa Quảng Châu (1895), Huệ Châu (1898) nhưng không thành công. Năm 1905, Tôn Trung Sơn hợp nhất Hưng Trung hội với một số tổ chức trong nước lập thành Trung Quốc Đồng minh hội do ông làm Tổng lý. Trên tờ Dân báo, cơ quan ngôn luận của Hội, ông đã công bố chủ nghĩa Tam Dân: "Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc"[1].     Cùng với nền tảng lý luận của mình, ông đã lãnh đạo thành công cuộc cách mạng Tân Hợi (1911). Cuộc cách mạng đã chấm dứt chế độ chuyên chế phong kiến hơn 2000 năm, lập nên nước Trung Hoa dân quốc và có ảnh hưởng sâu sắc đến phong trào đấu tranh của các nước thuộc địa và phụ thuộc ở châu Á. Chủ nghĩa Tam Dân có những tác động tích cực đến phong trào cách mạng Việt Nam ở cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, thời điểm đang khủng hoảng về đường lối cứu nước, một số sỹ phu yêu nước đã coi đây là nền tảng lý luận quan trọng cho việc hình thành tư tưởng cứu nước. Trong đó, Hồ Chí Minh là người chịu ảnh hưởng lớn đến sự hình thành tư tưởng của mình.    Sinh thời, Nguyễn Tất Thành cũng đã từng được nghe những từ “dân sinh”, “dân quyền”, “dân quốc” do các nhà Nho yêu nước nói đến trong khi đàm luận với cụ Nguyễn Sinh Sắc… với lòng tôn kính, khâm phục và trân trọng. Trong Tạp chí Thư tín quốc tế số 57 (năm 1924), Nguyễn Ái Quốc đã viết: Tôn Dật Tiên - người cha của cách mạng Trung Quốc, người đã một đời đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc thế giới để giải phóng quần chúng nhân dân. Nhưng phải sau khi về tới Quảng Châu (1924), Nguyễn Ái Quốc mới có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn qua sách vở và học trò của Tôn Văn, nghiên cứu và đánh giá rất cao chủ nghĩa ấy và thấy có những tư tưởng tiến bộ, tích cực có nhiều điểm thích hợp với điều kiện nước ta.    Cách lãnh đạo cách mạng của Tôn Trung Sơn cũng được Người quan tâm và học tập, đặc biệt là vận dụng đạo đức Nho giáo để tuyên truyền và giáo dục tinh thần cách mạng cho quần chúng. Coi những người lãnh đạo, nhân viên phải trung với nước, là đầy tớ của quần chúng nhân dân. Chính tư tưởng trên đã được Hồ Chí Minh vận dụng thành những lời nhắc nhở, giáo dục cho cán bộ, đảng viên chúng ta: “cán bộ là đầy tớ của nhân dân”, cán bộ phải “trung với nước, hiếu với dân”, phải “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, “phải khổ trước thiên hạ, vui sau thiên hạ” ...    Cũng như Tôn Trung Sơn, Hồ Chí Minh đã lấy “dân tộc độc lập” làm lý tưởng cho hành động của Người. Với lý tưởng ấy, Người đã vượt qua mọi khó khăn thử thách, bôn ba khắp bốn phương trời để tìm đường cho dân tộc theo đi.

    Sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước khi trở về Tổ quốc, Người đã viết thư chỉ rõ: “trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”[2], Hồ Chí Minh đã đúc kết ý chí đấu tranh cho độc lập tự do của nhân dân ta trong một câu nói bất hủ: Dù có đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng dành cho được độc lập. Ý chí ấy được khẳng định hơn nữa trong Bản Tuyên ngôn độc lập: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy. Đó là những lời bất hủ được Người tuyên bố trước toàn thể quốc dân đồng bào và bạn bè thế giới về quyền tự do độc lập của mọi người dân Việt Nam đáng được hưởng. Sau này, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, thực hiện quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc, Người ra lời kêu gọi vang dậy núi sông: Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Khi đế quốc Mỹ điên cuồng mở rộng chiến tranh leo thang ra miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi nhân dân cả nước quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược và đưa ra chân lý bất hủ, có giá trị cho mọi thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”[3].

    “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” không chỉ là tư tưởng mà còn là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Đó là lý do chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình độc lập, tự do của Việt Nam, đồng thời cũng là nguồn động viên đối với các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới, “Độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc. Vì vậy, Người không chỉ được tôn vinh là “Anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam mà còn được công nhận là Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX.

    Con đường sau giành độc lập dân tộc đã được Hồ Chí Minh định hướng rõ là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, có như thế thì dân quyền mới tự do, dân sinh mới hạnh phúc. Nếu như Tôn Trung Sơn với nguyên tắc “dân quyền tự do” thì Hồ Chí Minh của chúng ta lại phấn đấu xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân, mọi quyền lợi hạnh phúc đều thuộc về nhân dân. Người quan niệm nhà nước ấy mới thực hiện được sự phát triển hài hoà giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lâp dân tộc với tự do và hạnh phúc của con người. Hồ Chí Minh nói: “Độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì”[4]. Do đó, giành độc lập rồi phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội vì chủ nghĩa xã hội “là làm sao cho dân giàu, nước mạnh”[5], là mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng tự do. Sự phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa là một đảm bảo vững chắc cho nền độc lập của dân tộc.

    Qua đó, cho ta thấy tư tưởng của Bác đã toát lên ảnh hưởng của tư tưởng Tôn Trung Sơn, về sau ta còn thấy "tứ dân" của Bác đó là: dân tộc, dân quyền, dân sinh, dân trí, nghĩa là phát triển từ chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn. Hơn nữa, chính sách của Tôn Trung Sơn: thân Nga, liên Cộng, phù trợ Công nông cũng phù hợp với đường lối cách mạng Việt Nam và chính sách ấy đã được Hồ Chí Minh kết hợp một cách thật tài tình để giải phóng dân tộc Việt Nam, tạo ra một Việt Nam trong nhân loại, một tình hữu ái vô sản toàn thế giới như Ăngghen đã nói: Những tư tưởng dân tộc chân chính trong phong trào công nhân bao giờ cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính.    Tuy nhiên, chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn cơ bản vẫn là tư tưởng dân chủ tư sản, nằm trong hệ tư tưởng tư sản nên có nhiều hạn chế. Hồ Chí Minh đã nhận thấy những hạn chế ấy, cho nên khi cụ Phan Bội Châu định chuyển Việt Nam Quang Phục hội thành Việt Nam Quốc dân đảng, theo cương lĩnh của Tôn Trung Sơn thì Nguyễn Ái Quốc đã có những lời khuyên chân tình là không thể dừng lại ở những chủ trương của Quốc dân đảng. Hơn nữa, khi vận dụng “chính sách” mà Người cho là thích hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam như khẩu hiệu “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” rút ra từ chủ nghĩa Tam Dân và tư tưởng “Tự do - bình đẳng - bác ái” của cách mạng tư sản Pháp thành tiêu ngữ của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, thì Người đã phát triển khái niệm “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” lên một tầm cao mới, mang tính giai cấp, tính nhân dân, tính dân tộc và tính cách mạng triệt để của cách mạng dân tộc dân chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng, của giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng.

                                                                             CN. Hứa Thị Thoa


                                                                       Giảng viên Khoa Lý luận cơ sở


[1] https://vi.wikipedia.org/wiki/ Tôn Trung Sơn

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.CTQG, H.2011, t.3, tr230.

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.CTQG, H.2011, t.3, tr.1.

[4] Hồ Chí Minh, Tập 4, Sđd, 1995, tr.261.

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.CTQG, H.2011, t.1, tr.11.
 


Những tin cũ hơn

Những tin mới hơn

Chủ nghĩa Tam Dân hay Học thuyết Tam Dân (phồn thể: 三民主義, giản thể: 三民主义)[1] là một cương lĩnh chính trị do Tôn Dật Tiên đề xuất, với tinh thần biến đất nước Trung Hoa (khi đó đang trong triều đại nhà Thanh của người Mãn Châu) thành một quốc gia tự do, phồn vinh và hùng mạnh. Việc kế thừa và hiện thực ngày nay thể hiện rõ nhất trong tổ chức chính quyền của Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Triết lý này cũng xuất hiện trong dòng đầu tiên của Quốc ca Trung Hoa Dân Quốc. Cương lĩnh (hay học thuyết) chính trị này bao gồm: Dân tộc độc lập (民族獨立), Dân quyền tự do (民權自由), Dân sinh hạnh phúc (民生幸福). Chủ nghĩa Tam dân có ảnh hưởng đến cả Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch, cả hai đều mến mộ Tôn Trung Sơn, cho dù là đối thủ của nhau và đều hay được xem là những nhà cai trị độc đoán.

Học thuyết nào của Tôn Trung Sơn có ảnh hưởng tới cách mạng Việt Nam đầu thế ký 20
Chủ nghĩa Tam Dân

Tôn Dật Tiên (Tôn Trung Sơn), người đề xuất Chủ nghĩa Tam dân.

Phồn thể三民主義Giản thể三民主义

 

Khái niệm đầu tiên xuất hiện trên tờ Dân Báo năm 1905 là "Tam đại chủ nghĩa" (三大 主義, Ba nguyên tắc lớn) thay vì "Tam dân chủ nghĩa" (三民主義) như ngày nay.

Năm 1894, khi tổ chức Hưng Trung Hội được thành lập, Tôn Dật Tiên mới chỉ hình thành hai nguyên tắc đại cương: dân tộc và dân quyền. Ông đã chọn ý tưởng thứ ba - dân sinh, trong chuyến đi ba năm đến châu Âu từ năm 1896 đến năm 1898.[2] Ông đã công bố tất cả ba ý tưởng vào mùa xuân năm 1905, trong một chuyến đi khác đến châu Âu. Ông đã trình bày bài phát biểu đầu tiên của "Chủ nghĩa Tam Dân" ở Brussels (Bỉ).[3] Ông tổ chức Hưng Trung Hội ở nhiều thành phố châu Âu. Có khoảng 30 thành viên trong chi nhánh Brussels vào thời điểm đó, còn có 20 thành viên ở Berlin và 10 thành viên ở Paris.[3] Sau khi Trung Quốc Đồng minh Hội thành lập, Tôn Dật Tiên xuất bản một bài xã luận ở tờ Dân Báo (民報).[2] Đây là lần đầu tiên các ý tưởng được thể hiện bằng văn bản. Sau này, trong ấn bản kỷ niệm của Dân Báo, bài phát biểu dài của ông về Tam Dân đã được in, và các biên tập viên của tờ báo đã thảo luận vấn đề sinh kế của người dân.[2]

Hệ tư tưởng này được cho là bị ảnh hưởng nặng nề bởi kinh nghiệm của Tôn Dật Tiên trong thời gian ông ở Hoa Kỳ và chứa đựng các yếu tố của phong trào tiến bộ của Mỹ. Tư tưởng của Lincoln "chính phủ của nhân dân, bởi nhân dân, cho nhân dân", như một nguồn cảm hứng cho Tam Dân của Tôn Dật Tiên.[3] Chủ nghĩa Tam Dân về con người được kết nối với nhau như là phương châm cho sự phát triển hiện đại hóa của Trung Quốc được kéo dài bởi Hồ Hán Dân.[4]

"Chủ nghĩa dân tộc" (民族主義, Mínzú Zhǔyì), nghĩa đen là "Chủ nghĩa dân túy" hoặc "sự cai trị/chính phủ của Nhân dân" hay "Dân tộc", mô tả rõ ràng một quốc gia hơn là một nhóm người được thống nhất bởi một mục đích, do đó cách dịch thường được sử dụng và khá chính xác là "chủ nghĩa dân tộc". Bằng cách này, theo Tôn Trung Sơn có nghĩa là độc lập khỏi sự thống trị hoặc áp bức của đế quốc. Để đạt được điều này, ông tin rằng Trung Quốc phải phát triển một "Chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc"," Dân tộc Trung Hoa, trái ngược với một "chủ nghĩa dân tộc-sắc tộc," để đoàn kết tất cả các sắc tộc khác nhau của Trung Quốc. Những người này chủ yếu bao gồm năm nhóm chính, người Hán, người Mông Cổ, người Tây Tạng, người Mãn Châu và người Hồi giáo (chẳng hạn như người Duy Ngô Nhĩ), cùng được biểu tượng bằng Lá cờ Năm màu của nền Cộng hòa thứ nhất (1911–1928). Ý thức về chủ nghĩa dân tộc này khác với ý tưởng về "chủ nghĩa sắc tộc,"tương tự như ý nghĩa của chủ nghĩa dân tộc trong ngôn ngữ Trung Quốc. Để đạt được điều này, ông tin rằng Trung Quốc phải phát triển một "ý thức dân tộc" để đoàn kết các dân tộc ở Trung Quốc mà tiêu biểu là người Hán trước sự áp bức của người Mãn Châu và sự xâm lược của các đế quốc bên ngoài. Ông cho rằng "minzu", có thể được dịch là "con người", "quốc tịch" hoặc "chủng tộc", được định nghĩa bằng cách chia sẻ chung huyết thống, sinh kế, tôn giáo, ngôn ngữ và phong tục.

Dân quyền tự do

"Chủ nghĩa dân quyền" (民權主義, Mínquán Zhǔyì), nghĩa đen là "quyền lực của Nhân dân" hoặc "chính phủ do Nhân dân." Đối với Tôn Trung Sơn, nó đại diện cho một chính phủ hợp hiến của phương Tây. Ông chia đời sống chính trị theo lý tưởng của mình đối với Trung Quốc thành hai tập hợp "quyền lực": quyền lực chính trị và quyền lực quản trị

Quyền lực chính trị (政權, zhèngquán) là quyền của người dân để bày tỏ mong muốn chính trị của họ, tương tự như quyền của công dân hoặc nghị viện ở các quốc gia khác và được đại diện bởi Quốc hội. Có bốn quyền sau: bầu cử (選舉), bãi miễn (罷免), triệu hồi(罷免), Sáng kiến (創制), và trưng cầu dân ý (複決). Những điều này có thể được coi là "quyền dân sự".

Quyền lực quản trị (治權, zhìquán) là quyền lực của quản lý. Tại đây, ông đã mở rộng lý thuyết hiến pháp Âu-Mỹ về một chính phủ ba nhánh và một hệ thống kiểm tra và cân bằng bằng cách kết hợp các hệ thống hành chính truyền thống của Trung Quốc để tạo ra một chính phủ gồm năm nhánh (mỗi nhánh được gọi là Yuan (院, yuàn, nghĩa là "Viện"). Lập pháp Viện, Hành chính Viện, và Tư pháp Viện xuất phát từ tư tưởng của Montesquieuan; Giám sát viện và Khảo thí Viện xuất phát từ truyền thống Trung Quốc. (Lưu ý rằng Lập pháp Viện trước tiên được dùng như một nhánh quản trị tương đương với Quốc hội.)

Dân sinh hạnh phúc[5]

"Chủ nghĩa dân sinh" (民生主義, Mínshēng Zhǔyì), đôi khi được dịch là "phúc lợi/sinh kế của Nhân dân", "Chính phủ vì Nhân dân". Khái niệm này có thể được hiểu là phúc lợi xã hội và là sự chỉ trích trực tiếp những bất cập của chủ nghĩa tư bản. Ông chịu ảnh hưởng của nhà tư tưởng người Mỹ Henry George. Tôn Trung Sơn dự định đưa ra một cuộc cải cách thuế theo chủ nghĩa Georgist.[6] Thuế giá trị đất ở Đài Loan là một di sản của nó. Tôn Trung Sơn nói rằng thuế giá trị đất đai là "phương tiện duy nhất để hỗ trợ chính phủ là một loại thuế vô hạn công bằng, hợp lý và được phân phối công bằng, và trên đó chúng tôi sẽ tìm ra hệ thống mới của mình."[7]

Ông chia sinh kế thành bốn lĩnh vực: quần áo, thực phẩm, nhà ở và di chuyển; và hoạch định cách một chính phủ lý tưởng (Trung Quốc) có thể chăm sóc những điều này cho người dân của mình. Tôn Trung Sơn chết trước khi ông có thể giải thích đầy đủ tầm nhìn của mình về Nguyên tắc này và nó đã là chủ đề của nhiều cuộc tranh luận trong cả Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc, sau đó cho rằng Tôn ủng hộ chủ nghĩa xã hội. Tưởng Giới Thạch nêu rõ thêm nguyên tắc Dân sinh về tầm quan trọng của phúc lợi xã hội và các hoạt động giải trí đối với một Trung Quốc hiện đại hóa vào năm 1953 tại Đài Loan.[8]

Chủ nghĩa Tam Dân được tuyên bố là cơ sở cho các hệ tư tưởng của Quốc dân đảng dưới thời Tưởng Giới Thạch, của Đảng Cộng sản Trung Quốc dưới thời Mao Trạch Đông, và của Chính phủ Quốc gia được tổ chức lại của Trung Quốc dưới thời Uông Tinh Vệ. Quốc Dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc phần lớn đồng ý về ý nghĩa của Dân tộc, nhưng khác biệt rõ rệt về ý nghĩa của "Dân quyền" và "Dân sinh" vốn được Quốc Dân Đảng hiểu theo thuật ngữ dân chủ xã hội phương Tây và đảng Cộng sản giải thích theo thuật ngữ Mác xít và cộng sản.Chính phủ cộng tác Nhật Bản giải thích chủ nghĩa dân tộc ít hơn về chủ nghĩa chống đế quốc và nhiều hơn về hợp tác với Nhật Bản để tiến tới Đại châu Á về mặt lý thuyết, nhưng trên thực tế, điển hình là lợi ích của Nhật Bản.

Đài Loan

 

Một bảng hiệu trên đảo Đại Đảm gần Kim Môn đối diện với Trung Quốc Đại lục tuyên bố "Tam Dân chủ nghĩa thống nhất Trung Quốc"

Có một số viện giáo dục đại học (các phòng/khoa đại học và viện sau đại học) ở Đài Loan đã từng cống hiến hết mình cho việc 'nghiên cứu và phát triển' Tam dân về khía cạnh này. Kể từ cuối những năm 1990, các viện này đã tự định hướng lại để các học thuyết chính trị khác cũng được thừa nhận là đáng được xem xét, và đã đổi tên thành trung lập hơn về mặt tư tưởng (chẳng hạn như Democratic Studies Institute).

Ngoài hiện tượng thể chế này, nhiều đường phố và doanh nghiệp ở Đài Loan được đặt tên là "Sān-mín" hoặc cho một trong ba nguyên tắc. Trái ngược với những tên đường phố có nguồn gốc chính trị khác, không có sự đổi tên lớn nào cho những đường phố hoặc tổ chức này trong những năm 1990.

Mặc dù thuật ngữ "Tam dân chủ nghĩa" (三民主義) đã ít được gọi một cách rõ ràng hơn kể từ giữa những năm 1980, không có đảng chính trị nào công kích các nguyên tắc của nó một cách rõ ràng bằng các hoạt động dưới thời thiết quân luật ngoại trừ các nhóm phong trào Tangwai như Đảng Dân Tiến. Tam dân rõ ràng vẫn là một phần trong cương lĩnh của Quốc dân đảng và trong Hiến pháp của Trung Hoa Dân Quốc.

Đối với những người ủng hộ Đài Loan độc lập, một số phản đối liên quan đến cam kết hiến pháp chính thức đối với một loạt các nguyên tắc chính trị cụ thể. Ngoài ra, họ đã chống lại việc giảng dạy bắt buộc trong các trường học và đại học, hiện đã bị bãi bỏ theo kiểu chắp vá bắt đầu từ cuối những năm 1990. Tuy nhiên, có rất ít sự thù địch cơ bản đối với bản thân nội dung các nguyên tắc. Trong những vòng kết nối này, thái độ đối với Tam Dân trải rộng từ sự thờ ơ đến việc diễn giải lại Tam Dân trong bối cảnh địa phương của Đài Loan hơn là trong bối cảnh Trung Quốc.

Việt Nam

Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội là một liên hiệp các nhóm Việt Nam dân tộc chủ nghĩa, do Việt Nam Quốc dân Đảng thân Trung Quốc điều hành. Việt Nam Quốc Dân Đảng dịch trực tiếp thành Vietnamese Kuomintang, và nó dựa trên đảng Quốc Dân Đảng của Trung Quốc. Mục tiêu đã nêu của nó là để thống nhất với Trung Quốc theo Tam Dân, và chống lại Đế quốc Nhật Bản và Pháp.[9][10] Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội được quản lý bởi Nguyễn Hải Thần. Tướng Trương Phát Khuê đã khôn khéo ngăn chặn Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh tham gia liên minh, vì mục tiêu chính của ông là ảnh hưởng của Trung Quốc ở Đông Dương.[11] Quốc Dân Đảng đã hỗ trợ những người Việt Nam theo chủ nghĩa dân tộc này trong Thế chiến thứ hai để chống lại lực lượng Nhật Bản.[12]

Tiêu ngữ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam dù có nền chính trị đi theo chủ nghĩa cộng sản nhưng cũng lấy từ Chủ nghĩa Tam dân.[13]

  • Trường Quân sự Hoàng Phố.
  • Quốc dân Cách mệnh Quân.
  • Lịch sử Trung Hoa Dân Quốc.
  • Chính trị Trung Hoa Dân Quốc.

  1. ^ Stéphane Corcuff (editor) Memories of the Future: National Identity Issues and the Search for a New Taiwan. ISBN 0765607921
  2. ^ a b c Li Chien-Nung, translated by Teng, Ssu-yu, Jeremy Ingalls. The political history of China, 1840–1928. Princeton, NJ: Van Nostrand, 1956; rpr. Stanford University Press. ISBN 0-8047-0602-6, ISBN 978-0-8047-0602-5. pp. 203–206.
  3. ^ a b c Sharman, Lyon (1968). Sun Yat-sen: His life and its meaning, a critical biography. Stanford: Stanford University Press. tr. 94, 271.
  4. ^ “+{中華百科全書‧典藏版}+”. ap6.pccu.edu.tw. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2015.
  5. ^ Một số nội dung cơ bản trong tư tưởng dân sinh của Tôn Trung Sơn, Nguyễn Tài Thư, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Tạp chí Triết học
  6. ^ Trescott, Paul B. (2007). Jingji Xue: The History of the Introduction of Western Economic Ideas Into China, 1850-1950. Chinese University Press. tr. 46–48. ISBN 9789629962425. The teachings of your single-taxer, Henry George, will be the basis of our program of reform.
  7. ^ Post, Louis Freeland (ngày 12 tháng 4 năm 1912). "Sun Yat Sen's Economic Program for China". The Public. 15: 349. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2016.
  8. ^ “〔民生主義育樂兩篇補述〕”. terms.naer.edu.tw. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2015.
  9. ^ James P. Harrison (1989). The endless war: Vietnam's struggle for independence. Columbia University Press. tr. 81. ISBN 0-231-06909-X. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2010. Chang Fa-Kuei vnqdd.
  10. ^ United States. Joint Chiefs of Staff. Historical Division (1982). The History of the Joint Chiefs of Staff: History of the Indochina incident, 1940-1954. Michael Glazier. tr. 56. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2010.
  11. ^ Oscar Chapuis (2000). The last emperors of Vietnam: from Tu Duc to Bao Dai. Greenwood Publishing Group. tr. 106. ISBN 0-313-31170-6. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2010.
  12. ^ William J. Duiker (1976). The rise of nationalism in Vietnam, 1900-1941. Cornell University Press. tr. 272. ISBN 0-8014-0951-9. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2010.
  13. ^ Tam dân chủ nghĩa vẫn còn thời sự với VN, BBC Tiếng Việt, 7 tháng 10 2011

  • Toàn văn Chủ nghĩa Tam dân của Tiến sĩ Tôn Dật Tiên (chữ Hán phồn thể) Lưu trữ 2009-07-24 tại Wayback Machine
  • Tôn Trung Sơn (1995). Chủ nghĩa Tam Dân. Nguyễn Như Diệm; Nguyễn Tu Tri biên dịch.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách dịch giả (liên kết) Nhà phát hành: Viện Thông tin Khoa học Xã hội, dưới sự giúp đỡ của Văn phòng Kinh tế và Văn hóa Đài Bắc tại Hà Nội.

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Chủ_nghĩa_Tam_Dân&oldid=68564448”