Làm thế nào để có trí nhớ tốt tâm lý học đại cương
Khái niệm: Trí nhớ là quá trình tâm lý phản ánh những kinh nghiệm đã có của cá nhân dưới hình thức biểu tượng bằng cách ghi nhớ, giữ gìn và làm xuất hiện lại những điều mà con người đã trải qua. Show Sản phẩm tạo ra trong trí nhớ được gọi là biểu tượng. Đó là hình ảnh của sự vật, hiện tượng nảy sinh trong óc chúng ta khi không còn sự tác động trực tiếp của chúng vào giác quan ta. Như vậy, khác với cảm giác và tri giác nơi chỉ phản ánh sự vật, hiện tượng khi chúng đang trực tiếp tác động vào các giác quan, trí nhớ chỉ phản ánh sự vật, hiện tượng khi chúng không còn tác động trực tiếp vào các giác quan. Biểu tượng của trí nhớ chính là kết quả của sự chế biến và khái quát hóa các hình ảnh của tri giác trước đây. Không có tri giác thì không có biểu tượng được. Cho nên, những người bị mù bẩm sinh không hề có biểu tượng về màu sắc và những người bị điếc bẩm sinh đều không có biểu tượng về âm thanh. Biểu tượng của trí nhớ khác với hình ảnh của cảm giác, tri giác ở chỗ: biểu tượng của trí nhớ phản ánh sự vật, hiện tượng. Vì vậy, biểu tượng của trí nhớ vừa mang tính trực quan, vừa mang tính khái quát. Tuy nhiên, so với biểu tượng của tưởng tượng thì biểu tượng của trí nhớ không khái quát bằng. Hơn nữa, nếu biểu tượng của tưởng tượng mang tính sáng tạo, thì biểu tượng của trí nhớ mang tính tái tạo (tức là phản ánh một cách trung thành những gì đã trải qua). Cơ sở của trí nhớTheo học thuyết Pavlov về những quy luật hoạt động của thần kinh cao cấp, sự hình thành những đường liên hệ thần kinh tạm thời là cơ chế hình thành những kinh nghiệm của cá nhân. Ở đó, phản xạ có điều kiện (quá trình hình thành đường liên hệ thần kinh tạm thời giữa một nội dung mới và một nội dung đã được củng cố từ trước) là cơ sở sinh lý của sự ghi nhớ. Sự củng cố, bảo vệ đường liên hệ thần kinh tạm thời được thành lập là cơ sở sinh lý của sự giữ gìn và tái hiện. Tất cả những quá trình này gắn chặt và phụ thuộc vào mục đích của hành động. Theo quan điểm vật lý của lý thuyết sinh học về trí nhớ, những kích thích để lại những dấu vết mang tính chất vật lý (những thay đổi về điện và cơ trên các xinap nơi nối liền hai tế bào thần kinh) được đặc biệt chú ý. Người ta thấy rằng, những kích thích xuất phát từ những tế bào thần kinh hoặc được dẫn vào những nhánh của tế bào thần kinh khác hoặc quay trở lại thân tế bào. Bằng cách đó những tế bào này được thu thêm năng lượng. Một số nhà khoa học xem đây là cơ chế sinh lý của sự tích lũy những dấu vết và là bước trung gian từ trí nhớ ngắn hạn sang trí nhớ dài hạn. Vai trò của trí nhớTrí nhớ là quá trình tâm lý có liên quan chặt chẽ với toàn bộ đời sống tâm lý con người. Không có trí nhớ thì không có kinh nghiệm, không có kinh nghiệm thì không thể có một hoạt động nào, không thể tự ý thức, do đó cũng không thể hình thành nhân cách được. Nếu không có trí nhớ thì con người mãi mãi ở tình trạng của một đứa trẻ sơ sinh ( I.M. Xêsênôv).
Việc rèn luyện trí nhớ cho học sinh là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công tác trí dục lẫn đức dục trong nhà trường. Vì vậy, V.I. Lê nin đã nói: Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra. Các loại trí nhớTrí nhớ được phân loại theo đặc điểm của hoạt động mà trong đó diễn ra quá trình ghi nhớ và tái hiện. Người ta thường phân loại trí nhớ như sau: Dựa vào tính chất của tính tích cực tâm lý nổi bật nhất trong một hoạt dộng nào đó, trí nhớ được phân thành: trí nhớ vận động, trí nhớ xúc cảm, trí nhớ hình ảnh, trí nhớ từ ngữ logic.
Trí nhớ từ ngữ logic đóng vai trò chính trong việc lĩnh hội tri thức. Dựa vào tính mục đích của hoạt động, trí nhớ được phân thành: trí nhớ không chủ định và trí nhớ có chủ định.
Dựa vào mức độ kéo dài của sự giữ gìn tài liệu đối với hoạt động, trí nhớ được phân thành trí nhớ ngắn hạn và trí nhớ dài hạn.
Các quá trình cơ bản của trí nhớTrí nhớ là một hoạt động bao gồm nhiều quá trình khác nhau và có quan hệ với nhau: ghi nhớ, giữ gìn, tái hiện và quên. Quá trình ghi nhớ:Là quá trình tạo dấu vết của đối tượng (tài liệu cần ghi nhớ) trên vỏ não, đồng thời cũng là quá trình gắn tài liệu mới vào chuỗi kinh nghiệm đã có. Đây là khâu đầu tiên của hoạt động trí nhớ và diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, cách thức khác nhau. Căn cứ vào mục đích của việc ghi nhớ, có 2 hình thức: ghi nhớ không chủ định và ghi nhớ có chủ định. Ghi nhớ không chủ định: Là tài liệu được ghi nhớ một cách tự nhiên, không cần phải đặt ra mục đích từ trước, không đòi hỏi phải nổ lực ý chí và không dùng một cách thức nào để ghi nhớ. Ghi nhớ có chủ định: Là tài liệu được ghi nhớ đã được xác định theo mục đích đã định trước, đòi hỏi sự nổ lực ý chí và sự lựa chọn các biện pháp, thủ thuật để ghi nhớ. Thông thường có hai cách ghi nhớ có chủ định: ghi nhớ máy móc và ghi nhớ ý nghĩa.
Quá trình gìn giữ:Là quá trình củng cố vững chắc các dấu vết đã được tạo trên vỏ não trong quá trình ghi nhớ. Có hai hình thức giữ gìn: tiêu cực và tích cực
Trong hoạt động học tập, quá trình giữ gìn được gọi là ôn tập. Quá trình tái hiện:Là quá trình làm sống lại (khôi phục lại) những nội dung đã được ghi lại và giữ gìn. Tái hiện thường diễn ra dưới 3 hình thức; nhận lại, nhớ lại và hồi tưởng.
Liên quan:
(Tài liệu tham khảo: Tài liệu giảng dạy Môn Tâm lý học đại cương) Các quá trình cơ bản của trí nhớ Mỗi quá trình này có một chức năng xác định, nhưng chúng không đối lập với nhau mà phụ thuộc vào nhau (ghi nhớ, giữ gìn tốt thì mới tới hiện tốt), thâm nhập vào nhau, chuyển hoá cho nhau (khi tái hiện đồng thời có tác dụng củng cố). Quá trình ghi nhớ Ghi nhớ là giai đoạn đầu tiên của một hoạt động nhớ. Đó là quá trình tạo nên dấu vết (“ấn tượng”) của đối tượng trên vỏ não, đóng thời cũng là quá trình gắn đối tượng đó với những kiến thức đã có. Quá trình ghi nhớ rất cần thiết để tiếp thu tri thức, tích lũy kinh nghiệm. Hiệu quả của việc ghi nhớ phụ thuộc không chỉ vào nội dung, tính chất của tài liệu nhớ mà còn phụ thuộc chủ yếu vào động cơ, mục đích, phương thức hành động của cá nhân. Nhiều công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa sự ghi nhớ và hoạt động đã khẳng định rằng, sự ghi nhớ một tài liệu nào đó là kết quả của hành động với tài liệu đó, đồng thời nó là điều kiện, phương tiện để thực hiện các hành động tiếp theo. Có nhiều hình thức ghi nhớ. Căn cứ vào mục đích ghi nhớ, người ta chia ghi nhớ thành ghi nhớ không chủ định và ghi nhớ có chủ định. Ghi nhớ không chủ định: là sự ghi nhớ không có mục đích đặt ra từ trước, không đòi hỏi phải nỗ lực ý chí hoặc không dùng một thủ thuật nào để ghi nhớ, tài liệu được ghi nhớ một cách tự nhiên. Tuy nhiên, không phải mọi sự kiện, hiện tượng đều được ghi nhớ một cách không chủ định như nhau. Mức độ ghi nhớ phụ thuộc vào sự hấp dẫn của nội dung tài liệu. Nếu nội dung tài liệu có khả năng tạo ra sự tập trung chú ý cao độ hay một xúc cảm mạnh mẽ thì sự ghi nhớ sẽ đạt hiệu quả cao. Do vậy, trong dạy học, nếu giáo viên tạo ra được ở học sinh động cơ học tập đúng đắn, có hứng thú sâu sắc đối với môn học thì học sinh sẽ dễ dàng ghi nhớ tài liệu một cách không chủ định, việc học tập trở nên nhẹ nhàng, hấp dẫn.
Thông thường có hai cách ghi nhớ có chủ định: ghi nhớ máy móc và ghi nhớ ý nghĩa.
Ghi nhớ máy móc thường dẫn đến sự ghi nhớ một cách hình thức, tổn nhiều thời gian, khi quên khó có thể hồi tưởng được. Tuy nhiên, trong cuộc sống, ghi nhớ máy móc có lúc lại cần thiết, nhất là khi ghi nhớ tời liệu không có nội dung khái quát như số nhà, số điện thoại, ngày tháng năm sinh… Ghi nhớ ý nghĩa: là loại ghi nhớ dựa trên sự thông hiểu nội dung của tài liệu, trên sự nhận thức được mối liên hệ logic giữa các bộ phận của tài liệu đó. Tức là ghi nhớ tài liệu trên cơ sở hiểu bản chốt của nó. Ở đây, quá trình ghi nhớ gắn liền với quá trình tư duy và tưởng tượng nhằm nắm lấy logic nội tại (bàn chất) của tài liệu. Do vậy, người ta còn gọi ghi nhớ ý nghĩa là ghi nhớ logic. Ghi nhớ ý nghĩa là loại ghi nhớ chủ yếu trong hoạt động nhận thức, nó đảm bảo cho sự lĩnh hội tri thức một cách sâu sốc, bền vững. Loại ghi nhớ này tốn ít thời gian hơn ghi nhớ máy móc, nhưng lại tiêu hao năng lượng thần kinh nhiều hơn. Quá trình giữ gìn Giữ gìn lờ quá trình củng cố vững chắc những dấu vết hình thành trên vỏ não trong quá trình ghi nhớ. Nếu không có sự giữ gìn (củng cố) thì không thể nhớ bền, nhó chính xác được. Do vậy, “văn ôn võ luyện” là rất cần thiết để gìn giữ tài liệu trong trí óc. Có hai hình thức giữ gìn: tiêu cực và tích cực.
phải tri giác tời liệu đó. Quá trình tái hiện Tái hiện là một quá trình trí nhớ làm sống lại những nội dung đã ghi nhổ và giữ gìn. Quá trình này có thể diễn ra dễ dàng (“tự động”) hoặc rất khó khăn (phải nỗ lực nhiều). Tài liệu thường được tái hiện dưới ba hình thức: nhộn lại, nhớ lại và hỏi tường.
Trong nhận lại đổi khi đòi hỏi những quá trình rất phức tạp để đạt tới một kết quả xác định (chẳng hạn, phải dựa vào một đối tượng đã biết đề tưởng tượng lại những cái có liên quan, dần dần ta nhớ chính xác cái ta cần), ở đây, sự nhận lại chuyển sang sự nhớ lại.
Hồi tưởng là hình thức tái hiện đòi hỏi sự cố gắng rất nhiều của trí tuệ. Đây là một hành động trí tuệ phức tạp, kết quả của nó phụ thuộc vào việc cá nhãn ý thức rõ ràng, chính xác đến mức nào nội dung của nhiệm vụ tái hiện. Trong sự hồi tưởng, những ấn tượng trước dãy không được tái hiện một cách máy móc, mò thường được sắp xếp khác đi, gắn liền với những sự kiện mới. Sự quên Không phải mọi dấu vết, ấn tượng trong não của con người đều được giữ gìn và làm sống lại một cách như nhau, nghĩa là trong trí nhớ của con người có hiện tượng quên. Quẻn là không tái hiện được nội dung đã ghi nhớ trước đày vào thời điểm nhất định. Quên cũng có nhiều mức độ: quên hoàn toàn (không nhớ lại, không nhận lại dược), quên cục hộ (không nhớ lại, nhưng nhận lại dược). Nhưng ngay cả quên hoàn toàn cũng không có nghĩa là các dấu vết ghi nhớ đổ hoàn toàn mất đi, không đề lại dấu vết nào. Trong thực tế, nó vẫn còn lại dấu vết nhất định trên vỏ não, chỉ có điều con người không làm cho nó sống lại khi cần thiết mà thôi. Ngoài ra còn có hiện tượng quên tạm thời, nghĩa là trong thời gian dài không thể nào nhớ lại được, nhưng trong một lúc nào đó đột nhiên nhớ lại được. Đó là hiện tượng sực nhớ. Nguyên nhân của sự quên. Thuộc về sức khỏe: Có thể do quá trình ghi nhớ, có thể do các quy luật ức chế hoạt động thần kinh (ức chế ngược, ức chế xuôi, ức chế tới hạn) Nguyên nhân khách quan: Trong quá trình ghi nhớ và do không gắn được vào hoạt động hằng ngày, không phù hợp với nhu cầu, hứng thú, sở thích cá nhân hoặc ít có ý nghĩa thực tiễn đổi với cá nhân. Nguyên nhân chủ quan: Không sử dụng thường xuyên => không củng cố hàng ngày hoặc ít sử dụng. Quên khi gặp kích thích mạnh hoặc mới lạ. Khi ghi nhớ máy móc. Quy luật của sự quên
Ví dụ: tổ trưởng nhắc Lan đi họp nhóm vào sáng thứ 2 tuần kế tiếp tuần đang học. vì cuộc họp nhóm diễn ra không thường xuyên và cố định vào các tuần nên Lan thường xuyên quên.
Ví dụ: khi bạn học năm mươi từ mới tiếng anh. Lần đầu tiên học qua một lượt bạn nhớ được khoảng năm đến mười từ.sau vài lần tiếp theo số từ bạn nhớ được tăng lên dần dần và đạt tới năm mươi từ như đã đặt ra.
Ví dụ: khi đọc song một câu chuyện dài chúng ta sẽ nắm rõ được cốt truyện và một số ý phụ. Theo thời gian chúng ta sẽ quên câu chuyện ấy nhưng chúng ta sẽ quên ý phụ trước, cốt truyện quên sau.
Ví dụ: Hoa đang có trí nhớ rất bình thường. Nhưng do mẹ Hoa mất đột ngột – đây là một tác động mạnh gây sốc cho Hoa. Sau đó Hoa gần như quên hết mọi chuyện trước đó.
Ví dụ: khi đọc một bài thơ chữ hán và một bài thơ lục bát. Thì ta dễ thuộc bài thơ lục bát hơn vì thơ lục bát có vần điệu, ngôn từ dễ hiểu, nội dung dễ nắm bắt. Biện pháp để chống sự quên. Phải tập trung chú ý cao khi ghi nhớ, có hứng thú, say mê, và ý thức được tầm quan trọng của tài liệu ghi nhớ, xác định được tâm thế ghi nhớ tài liệu lâu dài đối với tài liệu. Phải lựa chọn, phối hợp các loại ghi nhớ một cách hợp lý, phù hợp với tính chất, nội dung của tài liệu với nhiệm vụ và mục đích ghi nhớ. Ghi nhớ logic là hình thức ghi nhớ tốt nhất trong học tập. Để ghi nhớ tốt đòi hỏi người học tập phải lập dàn bài cho tài liệu học, tức là tìm ra những đơn vị logic cấu tạo nên tài liệu đó. Dàn ý này được xem là điểm tựa để ôn tập và tái hiện tài liệu khi cần thiết. Phối hợp nhiều giác quan khi ghi nhớ, sử dụng các thao tác trí tuệ để ghi nhớ tài liệu, gắn tài liệu ghi nhớ với vốn kinh nghiệm bản thân. Làm thế nào để giữ gìn (ôn tập) tốt?
|