Một số kinh nghiệm dạy tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của học sinh

Một số kinh nghiệm dạy tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.91 MB, 32 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”.
Đề tài:
“Một số kinh nghiệm dạy Tập làm văn
lớp 2, 3
phát huy tính tích cực của học sinh”
I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
- Tập làm văn là một phân mơn quan trọng của mơn Tiếng Việt, nó giúp học
sinh có năng lực sử dụng Tiếng Việt để học tập, giao tiếp. Trau dồi những ứng xử có
văn hố, tinh thần trách nhiệm trong cơng việc, bồi dưỡng những tình cảm lành mạnh,
tốt đẹp qua nội dung bài dạy.
- Để làm được một bài Tập làm văn, học sinh cần phải huy động các kiến thức
về tập đọc, luyện từ và câu, các hiểu biết về mơi trường xung quanh cuộc sống … Nói
chung mơn tập làm văn đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức tổng hợp từ
các phân mơn khác của mơn Tiếng Việt. Bởi vậy, Tập làm văn mang tính thực hành
tồn diện, tổng hợp.
- Ngồi ra mơn Tập làm văn còn mang tính sáng tạo vì một bài tập làm văn thể
hiện sự suy nghĩ, tư duy của cá nhân, là tác phẩm khơng trùng lặp của mỗi học sinh.
- Các em học sinh lớp 2, 3 vốn sống còn ít, vốn hiểu biết về Tiếng Việt còn rất
sơ sài, chưa định rõ trong giao tiếp.Cụ thể như: các em viết câu rời rạc, chưa liên kết,
thiếu logic hoặc các câu đã có đủ ý nhưng chưa có hình ảnh, các từ ngữ được dùng về
nghĩa chưa rõ ràng ; việc trình bày diễn đạt ý của các em có mức độ rất sơ lược, đặc
biệt là khả năng miêu tả. Mặt khác tính sáng tạo thực hành trong văn bản chưa cao,
thể hiện ở bố cục bài văn,cách chấm câu, sử dụng hình ảnh gợi tả chưa linh hoạt, sinh
động.
Qua thực tế giảng dạy chúng tơi nhận thấy phân mơn Tập làm văn là phân mơn
khó trong các phân mơn của mơn Tiếng Việt. Do đặc trưng phân mơn Tập làm văn
với mục tiêu cụ thể là: hình thành và rèn luyện cho học sinh khả năng trình bày văn
bản (nói và viết) ở nhiều thể loại khác nhau.Trong q trình tham gia vào các hoạt
động học tập này, học sinh với vốn kiến thức còn hạn chế nên thường ngại nói. Nếu
Trang 1
Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”.


bắt buộc phải nói, các em thường đọc lại bài viết đã chuẩn bị trước. Do đó, giờ dạy
chưa đạt hiệu quả cao.
- Chính vì thế khi dạy bài Tập làm văn ở lớp 2, 3, giáo viên hay gặp khó khăn
là học sinh thụ động, ít phát biểu, có chăng cũng chỉ là những học sinh khá giỏi là
hoạt động hoặc các em chỉ trả lời câu hỏi mà không có sự liên kết thành đoạn, diễn
đạt lủng củng, ý tưởng nghèo nàn… Nói đã khó, viết càng khó hơn. Điều đó đã làm
cho các em chán nản, lo sợ khi học môn Tập làm văn. Vì thế yêu cầu đặt ra của chúng
tôi là làm thế nào để các em hứng thú, tích cực khi học môn Tập làm văn.Do đó, sau
một thời gian giảng dạy, chúng tôi dã nghiên cứu và thực nghiệm đề tài: “ Một số
kinh nghiệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của học sinh ”.
II/ KHẢO SÁT THỰC TRẠNG:
1/Thuận lợi:
Môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn lớp 2, 3 nói riêng có nội
dung phong phú, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh. Trong một tiết học,
các loại bài tập được bố trí xen kẽ, gắn kết với nhau.
Cả năm học có 35 tuần thì học sinh được học 31 tiết Tập làm văn. Trong 4 tuần
ôn tập giữa học kỳ I, giữa học kỳ II, cuối học kỳ I và cuối học kỳ II cũng có nhiều bài
tập thuộc phân môn Tập làm văn.
2/ Khó khăn:
Kỹ năng nghe nói của các em không đồng đều, có một số em nói nhỏ; khả năng
diễn đạt suy nghĩ cũng như diễn đạt bài học còn chậm, yếu.
Do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, các em nhanh nhớ nhưng cũng mau quên,
mức độ tập trung thực hiện các yêu cầu của bài học chưa cao.
Học sinh lớp 2 mới được làm quen với phân môn Tập làm văn nên còn nhiều
bỡ ngỡ, chưa có phương pháp học tập bộ môn một cách khoa học và hợp lí. Sự hiểu
biết của học sinh lớp 3 về phân môn Tập làm văn cũng còn hạn chế. Bước đầu kế
thừa, tập làm quen phân môn Tập làm văn lớp 2. Một số bài ở lớp 3 học sinh chưa
được chứng kiến nên ảnh hưởng đến việc thực hành của học sinh.
Kiến thức về cuộc sống thực tế của học sinh còn hạn chế, ảnh hưởng đến việc
tiếp thu bài học.

Trang 2
Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”.
Vốn từ vựng của các em cũng chưa nhiều nên gây khó khăn trong việc thực
hành.
Một số em còn phụ thuộc vào bài văn mẫu, áp dụng một cách máy móc, chưa
biết vận dụng bài mẫu để hình thành lối văn của riêng mình. Nhiều học sinh còn dùng
luôn lời cô hướng dẫn để viết bài của mình.
Học sinh chưa có ý thức đọc sách, báo hoặc tìm tòi, sưu tầm những tài liệu
phục vụ cho kiến thức có liên quan đến môn học dẫn đến tình trạng nghèo vốn từ,
nghèo vốn sống để có thể đưa vào bài viết.
Thiếu sự quan tâm, hỗ trợ động viên của phụ huynh. Cha mẹ có thể giúp các
em học tốt các môn khác. Riêng môn Tập làm văn một số phụ huynh khó có thể dạy
cho con mình học tốt được vì kỹ năng vốn sống của một số phụ huynh còn hạn chế.
Về đồ dùng dạy học: Phương tiện chủ yếu là tranh trong SGK, một số bài dạy
thiếu tranh ảnh nên giáo viên dùng lời nói mô tả học sinh tiếp thu trừu tượng. Ngoài
ra hạn chế sử dụng thường xuyên các phương tiện hiện đại như đèn chiếu, băng hình
làm cho chất lượng giờ học tập làm văn chưa cao.
Giáo viên chưa linh động, sáng tạo khi tổ chúc giờ dạy trên lớp, hình như tổ
chức dạy học đơn điệu: “Giáo viên hỏi- học sinh trả lời”, chỉ những em khá giỏi mới
có thể tham gia trả lời còn những học sinh trung bình hoặc yếu thì cảm thấy lo sợ nếu
bị gọi đến tên. Mặt khác giáo viên chưa phát huy hết vai trò gợi mở óc tò mò, khả
năng sáng tạo, độc lập ở học sinh. Từ đó làm cho các em cảm thấy nhàm chán, mất
hứng thú học tập.
Với những thuận lợi và khó khăn trên, chúng tôi đã đặt ra cho bản thân mình là
phải làm thế nào để học sinh ham thích học phân môn Tập làm văn.
Để có cơ sở so sánh kết quả học tập của học sinh qua từng thời điểm, chúng tôi
đã tiến hành khảo sát chất lượng môn Tập làm văn lớp 2, 3 vào tuần 3- tháng 9 (Năm
học 2008-2009).
Học sinh thể nghiệm : Lớp 2A và lớp 3A (Tổng số học sinh: 70 em.)
Kết quả cụ thể như sau:

Trang 3
Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”.
Qua khảo sát cho thấy học sinh chưa biết diễn đạt câu văn câu văn có hình ảnh,
vốn từ vựng chưa nhiều, hiểu biết thực tế còn ít; do vậy chất lượng bài viết chưa cao,
ý văn nghèo nàn, câu văn lủng củng.
Từ thực tế giảng dạy, để khắc phục tình trạng trên chúng tôi xin trình bày một
số biện pháp cụ thể nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong giờ học Tập làm
văn.
III/ NHỮNG NỘI DUNG VÀ BIỆN PHÁP ĐÃ ÁP DỤNG
A. Các biện pháp dạy tập làm văn lớp 2
1 .Dạy học sinh thực hành về nghi thức lời nói:
Tất cả những nghi thức lời nói luôn xảy ra trong đời sống hàng ngày. Tuy
nhiên, có em mạnh dạn thì hay nói còn những em nhút nhát thì ít nói. Bởi vậy, giáo
viên phải dùng những biện pháp tích cực để các em nhút nhát nói ra những điều mà
các em suy nghĩ trong đầu. Có thể tổ chức trò chơi sắm vai với những tình huống cụ
thể để mỗi học sinh được tự do bộc lộ suy nghĩ, cách diễn đạt của mình. Ngoài ra,
giáo viên nên lưu ý thái độ của học sinh khi nói với từng đối tượng là lớn hơn mình,
bằng mình hay nhỏ hơn mình thì có những đại từ xưng hô khác nhau và những cử chỉ
thể hiện cũng khác tùy tình huống vui hay buồn.
Trang 4
Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”.
Khi nói và viết lưu ý học sinh nên thêm những từ chỉ tình cảm để câu văn thể
hiện sự lễ phép, lịch sự như : nhé, nha, a …
Mặt khác giáo viên không chỉ dạy cho học sinh thực hành giao tiếp trong tiết
học mà còn phải giáo dục các em mọi lúc mọi nơi trong cuộc sống hằng ngày với một
thời gian dài.
Điều quan trọng hơn nữa là giáo viên cần cho các em nắm rõ tình huống vì khi
viết các em hay lầm lẫn giữa lời đáp và lời nói.
Ví dụ: Em nói thế nào khi bạn xin lỗi em vì đã làm dơ áo em. Các em có thể bị
lầm và nói là : - Xin lỗi bạn vì tớ lỡ làm bẩn áo bạn. Nguyên nhân là do các em

chưa đọc kỹ đề, sự suy xét của các em còn non nớt. Bởi vậy, giáo viên cần tập cho các
em đọc kỹ đề bài. Đặt mình vào tình huống của đề bài, cùng sắm vai theo tình huống
đó. Có vậy, các em mới không bị lầm lẫn.
Với dạng bài nói và đáp lời khẳng định, phủ định có lẽ tương đối dễ đối với các
em, các em chỉ cần nói có hoặc không. Tuy nhiên, giáo viên cần giải thích cho các em
thuật ngữ khẳng định, phủ định. Vì nếu không giải thích, các em chỉ làm theo mẫu
trong sách giáo khoa thì không thể phát huy tính tích cực chủ động của học sinh. Còn
nếu ta giải thích thì khi vừa gặp dạng bài này các em sẽ tự giác hiểu và làm bài tốt.
Bởi vậy giáo viên cần cho các em thực hành sắm vai và cần lưu ý tình cảm thể hiện
qua thái độ.
Ví dụ: Khi đáp lời khẳng định thì thể hiện sự vui mừng, đáp lời phủ định thể
hiện sự tiếc nuối. Có thế thì người nghe mới hiểu được tình cảm của mình.
Dưới dây là một số trò chơi sắm vai mà chúng tôi đã áp dụng trong giờ tự học
hoặc giờ ra chơi, giờ sinh hoạt lớp hay trong phần củng cố của mỗi giờ học Tập làm
văn. Qua các trò chơi này học sinh được tăng cường rèn luyện các kiến thức đã học
và giúp các em tham gia tích cực hơn trong giờ Tập làm văn. Từ đó các em sẽ vận
dụng vào trong giao tiếp đời sống hằng ngày.
Một số trò chơi cụ thể như sau:
a. Trò chơi phỏng vấn:
Trò chơi này có thể áp dụng vào bài tập 1, tuần 1: Tự giới thiệu. Câu và bài.
* Mục đích:
Trang 5
Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”.
- Luyện tập cách tự giới thiệu về mình và về người khác với thầy cô; bạn bè
hoặc người xung quanh.
- Phân công: 1 HS đóng vai phóng viên truyền hình, còn 1 HS đóng vai người
trả lời hoặc 1 HS đóng vai chị phụ trách, 1 HS đóng vai đội viên Sao Nhi đồng… sau
đó đổi vai.
- HS có thể chơi trò chơi này theo nhóm hoặc cả lớp.
- Để tất cả các em nắm được cách chơi, trước khi giao việc cho từng em, GV

cần tổ chức cho một hoặc hai cặp HS làm mẫu trước lớp.
* Cách chơi: - Một HS giới thiệu về mình (tên; quê quán; học lớp, trường;
thích môn học nào; thích làm việc gì… )
- Sau khi nghe bạn giới thiệu xong về mình, phóng viên phải giới thiệu lại từng
bạn với cả lớp (hoặc nhóm ). Nội dung phải chính xác; cách giới thiệu càng rõ ràng,
mạch lạc, hấp dẫn càng tốt. Cho nhiều HS tập làm phóng viên.
- Cuối cùng cho lớp bình chọn phóng viên giỏi nhất.
b. Chọn lời nói đúng:
* Mục đích:
- Luyện tập cách nói lịch sự khi cần cảm ơn người khác và đáp lại lời cảm ơn
của mình.
- Rèn thói quen lịch sự trong giao tiếp và sinh hoạt hằng ngày; tập cảm ơn và
xin lỗi bằng những lời khác nhau.
* Chuẩn bị:
- 4 tranh minh hoạ ( 4 băng giấy ghi ) 4 tình huống khác nhau có xuất hiện lời
cảm ơn và lời đáp lại lời cảm ơn.
+ Một bạn trai tới xách giúp một vật nặng cho một bạn gái.
+ Một bạn bị vấp ngã được một bạn khác đỡ dậy.
+ Trong giờ vẽ, bạn nữ cho bạn nam mượn bút chì.
+ Trên đường đi học về, bạn nam đưa cho bạn nữ chai nước uống.
- Chia nhóm: 8 HS / 1 nhóm.
Trang 6
Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”.
- 1 túi xách to đựng một số đồ vật, 1 chiếc bút chì màu, 1 chai nước uống.
- Cử 2 HS giúp việc cho GV.
* Cách tiến hành:
- Mỗi nhóm cử 2 HS tham gia trò chơi ở tình huống 1 lên trước bảng lớp để HS
khác theo dõi.
- HS đại diện của từng nhóm lần lượt lên chơi trò đóng vai ở mỗi tình huống đã
cho trong khoảng một phút.

Ví dụ: 2 HS đại diện cho nhóm 1 tham gia chơi. Một em đóng vai bạn gái đang
xách một chiếc túi to, bước đi chậm chạp và nặng nhọc. Một HS đóng vai bạn trai đến
bên bạn gái và nói: “Bạn để mình xách đỡ cho nào! ” rồi đỡ lấy chiếc túi từ tay bạn
gái. Bạn gái nói: “Cảm ơn bạn, bạn tốt quá! ’’ Bạn trai cười tươi và nói: “Có gì đâu,
việc nhỏ thôi mà! ”
- Sau khi đại diện cả 4 nhóm đã chơi xong về một tình huống, GV yêu cầu 2 HS
giúp việc đọc to lời của hai vai trong từng nhóm để cả lớp cùng nghe lại và bình chọn
lời nói đúng.
- HS tiếp tục chơi ở các tình huống khác theo gợi ý nói trên.
Chú ý: 2 HS giúp việc GV ghi lại câu nói của hai bạn tham gia chơi ở từng tình
huống, mỗi HS giúp việc cho GV chỉ chuyên ghi lại lời nói của một vai (vai “cảm ơn”
hoặc vai “đáp lại lời cảm ơn ” ).
c. Nhận lại đồ dùng:
* Mục đích:
- Cung cấp một số cách nói lịch sự trong giao tiếp; phục vụ các bài dạy về nghi
thức lời nói (phủ định, nhờ cậy, yêu cầu, đề nghị ).
- Rèn thói quen dùng lời nói lịch sự khi cần đề nghị trong giao tiếp và sinh hoạt
hằng ngày.
* Chuẩn bị:
- Khoảng 20 đồ dùng thông thường của HS: mũ, sách, vở, bút… Mỗi đồ dùng
có gắn tên chủ ở phía trong (phía khuất ) của đồ vật.
Trang 7
Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”.
- Một bàn đặt các đồ vật. Cạnh bàn có 1 HS ngồi làm nhiệm vụ trả đồ dùng cho
chủ nhân của nó khi tan học.
- 3 HS giúp việc cho GV.
- Khoảng 20 lá cờ nhỏ để trao cho người đạt yêu cầu của trò chơi.
* Cách tiến hành:
- Nêu cách chơi: Một nhóm khoảng 10 HS làm động tác đứng dậy ra về khi tan
học (đứng theo thứ tự để chờ lấy đồ dùng cá nhân ).

Từng HS đến lượt mình thì nói lời đề nghị.
Ví dụ: - Cho tôi xin cái mũ (bút, cặp, )
HS làm nhiệm vụ trả đồ dùng, cố ý trao nhầm đồ dùng cho từng bạn.
HS nhận đồ dùng, xem lại tên chủ nhân ( ghi ở đồ dùng ) và nói hai câu: Một
câu có nội dung “phủ định ” đó không phải là đồ dùng của mình; : Một câu có nội
dung “đề nghị ” bạn trả lại đồ dùng cho mình.
Ví dụ: - Cái bút này không phải của tôi. Cho tôi xin cái bút màu xanh ở đằng
kia!
Hoặc: - Xin lỗi cậu! Cái bút này không phải của mình. Cậu lấy giúp mình cái
bút màu xanh nằm ở góc trong kia kìa!
HS nói đúng một câu được nhận một lá cờ.
- Từng HS trong nhóm lên nhận đồ vật từ tay người trả đồ vật và nói hai câu
theo quy định của trò chơi. GV và HS cả lớp xác nhận kết quả và trao cờ cho người
nói đúng.
Những HS được cờ đứng sang một bên, những HS không được cờ đứng sang
một bên. Cuối cùng GV khen thưởng cho HS được cờ và yêu cầu HS được cờ lần lượt
bắt tay các bạn chưa được cờ để động viên.
d. Đóng vai chúc mừng nhau:
* Mục đích:
- Luyện tập cách nói lịch sự khi chúc mừng người khác và đáp lại lời người
khác chúc mừng mình.
Trang 8
Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”.
- Rèn thói quen lịch sự trong giao tiếp và sinh hoạt hằng ngày; tập chúc mừng
bằng những lời khác nhau.
* Chuẩn bị:
- Hai hình vẽ (2 băng giấy ghi ) hai tình huống khác nhau có xuất hiện lời chúc
mừng và lời đáp lại lời chúc mừng:
+ Một bạn gái đạt giải “Giải nhất viết chữ đẹp ” được một bạn tặng hoa chúc
mừng.

+ Một bạn trai đang đứng nhận giải thưởng cuộc thi: “Thi kể chuyện hay”, hai
bạn lên tặng hoa cho bạn trai.
- 5 chiếc mũ làm bằng giấy bìa quây tròn có dòng chữ: “Giải nhất viết chữ
đẹp”.
- 5 chiếc mũ làm bằng giấy bìa quây tròn trên có điểm 10 và chữ: “Kể chuyện
hay nhất ”.
- 2 HS giúp GV làm việc.
* Cách tiến hành:
- Nêu cách chơi (tương tự như ở trò chơi : “Chọn lời nói đúng”).
Ví dụ: Hai HS đại diện cho nhóm 2 tham gia chơi. Một HS đóng vai bạn gái
đoạt giải Nhất trong kì thi viết chữ đẹp của trường. Một HS đóng vai bạn gái lên chúc
mừng bạn đạt giải và nói: “Chúc mừng bạn! Chúng tớ vui lắm! ”rồi xiết chặt tay bạn.
Bạn được giải đáp: “Cảm ơn các bạn!”.
*Thực hành chơi:
- 3 nhóm HS chơi đóng vai lần lượt từng tình huống theo cách đã hướng dẫn.
Khi 2 HS trong nhóm chơi xong ở tình huống đầu thì nhóm lại cử 2 HS khác chơi ở
tình huống thứ hai.
- Hai HS giúp việc GV ghi lại câu nói của hai bạn tham gia chơi ở từng tình
huống, mỗi HS giúp việc GV chỉ chuyên ghi lại lời nói của một vai (vai “ chúc mừng
” hoặc vai “đáp lời chúc mừng ”. )
Trang 9
Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”.
- Sau mỗi tình huống, GV cho HS nhận xét và bình chọn người nói đúng hay
sai. Cuối cùng bình chọn nhóm chiến thắng.
e. Đóng vai khen ngợi nhau:
* Mục đích:
- Luyện tập cách nói lịch sự khi khen ngợi người khác và đáp lại lời người khác
khen mình.
- Rèn thói quen lịch sự trong giao tiếp và sinh hoạt hằng ngày; tập khen ngợi
bằng những lời khác nhau.

* Chuẩn bị:
- 3 hình vẽ (3 băng giấy ghi ) 3 tình huống khác nhau có xuất hiện lời khen và
lời đáp lại lời khen:
+ Một số bạn khen một bạn gái mặc bộ váy đẹp.
+ Một số bạn khen một bạn trai bơi giỏi.
+ Một bạn gái vẽ tranh con gà trống đẹp. Các bạn khác xem tranh và khen.
- 5 HS mặc quần áo đẹp.
- 5 mũ bơi để HS giả làm người đang bơi.
- 5 bức tranh (ảnh ) con vật trông đẹp mắt.
- Chia nhóm: 6 HS / 1 nhóm: 2 HS đóng vai 1 tình huống.
- 2 HS giúp việc cho GV.
* Cách tiến hành:
- Nêu cách chơi (tương tự ở trò chơi: “Chọn lời nói đúng ” )
Ví dụ: 2 HS đại diện cho nhóm 3 tham gia chơi. Một HS đóng vai một em đang
bơi. Một HS đóng vai bạn cổ vũ vừa vỗ tay, vừa nói lời khen: “Cậu giỏi quá! Tuyệt
quá! ”. Bạn được khen khi ngừng làm động tác thì đáp: “Cảm ơn bạn! Tớ sẽ cố bơi
nhanh hơn nữa. ”
*Thực hành chơi:
- Các nhóm HS chơi đóng vai lần lượt từ tình huống đầu đến tình huống cuối
theo cách đã hướng dẫn. Khi 2 HS trong nhóm chơi xong ở tình huống đầu thì nhóm
Trang 10
Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”.
lại cử 2 HS khác chơi ở tình huống tiếp theo. Tiếp tục cử người chơi như vậy ở 3 tình
huống.
- Hai HS giúp việc GV ghi lại câu nói của hai bạn tham gia chơi ở mỗi tình
huống, mỗi HS giúp việc GV chỉ chuyên ghi lại lời nói của một vai (vai “khen ngợi ”
hoặc vai “đáp lời khen ngợi ”.
Sau mỗi tình huống, GV cho HS nhận xét và bình chọn nói đúng hay sai. Cuối
cùng bình chọn nhóm chiến thắng.
g. Đóng vai an ủi nhau:

* Mục đích:
- Luyện tập cách nói lịch sự khi an ủi người khác và đáp lại lời người khác an
ủi mình.
- Rèn thói quen lịch sự trong giao tiếp và sinh hoạt hằng ngày; tập nói lời an ủi
bằng nhiều cách khác nhau.
* Chuẩn bị:
- 3 hình vẽ (3 băng giấy ghi ) 3 tình huống khác nhau có xuất hiện lời an ủi và
đáp lại lời an ủi:
+ Một bạn gái mặc bộ váy đẹp và bị giây mực ra váy. Một bạn khác đang an ủi
bạn có váy đẹp bị giây bẩn.
+ Bạn trai lỡ tay làm rách một trang sách của quyển truyện. Bạn khác đến bên
cạnh nói lời an ủi, động viên.
+ Một bạn bị điểm 3 môn toán đang buồn. Các bạn khác đến an ủi động viên.
- 5 HS mặc quần áo có vết bẩn được tạo ra bằng phấn màu.
- 5 bài kiểm tra toán có diểm 3.
- Chia nhóm: 6 HS / 1nhóm: 2 HS đóng vai thực hiện 1 tình huống.
- 2 HS giúp việc cho GV.
* Cách tiến hành:
- Nêu cách chơi: (tương tự ở trò chơi: “Chọn lời nói đúng ” ).
Trang 11
Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”.
Ví dụ: Hai HS đại diện cho nhóm 4 tham gia chơi. Một em đóng vai bạn bị
điểm kém. Một em đóng vai bạn đến động viên và nói lời an ủi: “Cậu đừng buồn nữa.
Từ bây giờ cậu cố gắng chăm chỉ học bài, làm bài thì đến bài kiểm tra lần sau cậu sẽ
đạt điểm cao thôi mà. Cậu yên tâm, bọn mình sẽ giúp đỡ cậu. ”
* Thực hành chơi:
- Các nhóm HS chơi đóng vai lần lượt từng tình huống theo cách đã hướng dẫn.
- Khi 2 HS trong nhóm chơi xong ở tình huống đầu thì nhóm lại cử 2 HS khác
chơi ở tình huống tiếp theo. Tiếp tục cử người chơi như vậy ở 3 tình huống.
- Hai HS giúp việc ghi lại câu nói của hai bạn tham gia chơi ở từng tình huống,

mỗi HS chỉ chuyên ghi lại lời nói của một vai (vai “an ủi ” hoặc vai “ đáp lời an ủi ” ).
- Sau mỗi tình huống, GV cho HS nhận xét và bình chọn nói đúng hay sai. Cuối
cùng bình chọn nhóm chiến thắng.
2/ Dạy học sinh các kỹ năng phục vụ học tập và đời sống hàng ngày
- Mặc dù đây là những kỹ năng phục vụ cho học tập và đời sống hàng ngày
nhưng các em lại ít được tiếp xúc. Bởi vậy, giáo viên cần cho các em thấy một cách
trực quan, thật rõ ràng. Khi dạy bản khai tự thuật, danh sách học sinh, mục lục sách,
thời gian biểu. Giáo viên phải có một bản mẫu thật to để các em được nhìn và nghiên
cứu. Giáo viên phải chỉ rõ cách xem, cách lập, từ đó các em mới biết cách sử dụng
những kiến thức đã học được mà áp dụng vào cuộc sống hàng ngày.
Ví dụ: Dạy dạng bài nhận và gọi điện thoại
- Trong thời đại ngày nay, việc nhận và gọi điện thoại là quá quen thuộc với
học sinh. Do đó, các em nói rất dễ dàng. Tuy nhiên khi viết các em gặp nhiều trở ngại
vì các em chưa nắm được khi nào là bản thân mình nói, khi nào là người đầu dây bên
kia nói. Bởi vậy, khi các em viết ra sẽ nhầm lẫn và sai sót. Nên giáo viên phải giúp
các em xác định nhân vật . Có thể giúp các em hứng thú hơn bằng cách các em chuẩn
bị những chiếc điện thoại, cho các em sắm vai, đọc kỹ đề và tưởng tượng mình là
nhân vật. Có thế khi các em viết mới không bị nhầm lẫn.
3/ Dạy học sinh thực hành rèn luyện về kỹ năng diễn đạt ( nói, viết ):
Trang 12
Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”.
- Đây là dạng bài nòng cốt trong môn Tập làm văn. Nó đòi hỏi ở người học sinh
vốn sống hàng ngày, vốn từ phong phú, đôi mắt quan sát tinh tường, óc tưởng tượng
sáng tạo nghệ thuật. Bởi vậy, khi dạy dạng bài này giáo viên cần nắm rõ tâm lý tuổi
học sinh. Ở lứa tuổi này học sinh nhìn nhận sự vật thế nào? Tính tình của từng học
sinh ra sao? Có em rất tỉ mỉ quan sát, có em rất hời hợt qua loa. Nên phải nhấn mạnh
khi học sinh muốn tả bất cứ cái gì thì các em phải hiểu rõ về cái đó. Các em phải tìm
hiểu thông tin về cái đó. Có thể hỏi bạn bè, gia đình, thầy cô hay quan sát thực tế qua
môn tự nhiên xã hội, qua đọc sách, đọc báo, … Giáo viên cần phối hợp nhiều phương
pháp và hình thức dạy sao cho bảo đảm với mục tiêu.

- Giáo viên yêu cầu và hướng dẫn học sinh có thói quen quan sát những sự vật
hiện tượng xung quanh để ghi nhận lại và sử dụng khi thật cần thiết. Ngoài ra giáo
viên cần sưu tầm những hình ảnh để các em quan sát hoặc có thể trình chiếu, cho các
em quan sát vật thật, tham quan dã ngoại …
- Để các em có thể làm được một bài văn tốt, các em phải có vốn từ ngữ phong
phú. Mà vốn từ đó, có em tích lũy khá nhiều nhưng chưa biết vận dụng. Có em thì có
rất ít hoặc chưa hề có. Bởi vậy, giáo viên chính là người cung cấp.Mà cung cấp ở
đâu? Tôi nghĩ trong các bài tập đọc có khá nhiều. Mỗi chủ đề của môn Tiếng Việt thì
môn tập đọc đều có những bài văn, bài thơ nói về chủ để đó.
- Ví dụ: Khi dạy tả về một loài chim thì GV cho HS đọc kĩ bài văn Chim chích
bông (SGK, tập hai, trang 30 ) và bài văn tả con chim gáy (tiết Tập làm văn tuần 22 )
để giúp HS tả về con chim được sinh động hơn.
- Trong các tiết dạy, giáo viên nên tập cho học sinh trả lời thành câu đủ ý và
chú ý đến những bài tập đọc có liên quan đến tiết tập làm văn. Từ đó học sinh có thể
rút ra những câu văn hay, hình ảnh đẹp và ghi nhớ sau này vận dụng. Ví dụ : qua bài
Tôm Càng và Cá Con học sinh rút ra được đoạn văn tả về chú Cá Con trong bài “Con
vật thân dẹt, trên đầu có đôi mắt tròn xoe, toàn thân phủ một lớp vẩy bạc óng
ánh”.
Trang 13
Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”.
Để dạy tốt bài tập làm văn dạng viết một đoạn vă ngắn kể về người thân, con
vật, loài vật, cây cối…giáo viên cần tạo cho các em thói quen làm văn phải có bố cục
3 phần : mở bài (giới thiệu), thân bài (nội dung), kết luận (tình cảm); nói, viết phải
thành câu rõ ý, đúng ngữ pháp. Khi viết xong các em đọc lại toàn bộ, gắn bó các câu
với nhau để ý sau, ý trước nối tiếp thành đoạn văn, bài văn xuôi nghĩa.
Ngoài ra còn hướng dẫn học sinh lập sơ đồ trước khi làm tập làm văn. Tôi xin
gợi ý một cách lập sơ đồ thông qua bài viết một đoạn văn ngắn tả con vật mà em yêu
thích . Ví dụ : Tả một chú gà
Giáo viên cho học sinh nói về hình dáng, hoạt động của con gà và tình cảm của
mình đối với gà. Giáo viên ghi nhanh các ý học sinh trả lời lên bảng thành sơ sồ.

Từ sơ đồ mạng đã thành lập ở trên, giáo viên yêu cầu học sinh tạo thành câu, cứ
thế tiếp nối nhau lập thành đoạn văn. Trong lúc đó, giáo viên có thể ghi lại trên bảng,
thế là đã có nhiều đoạn văn mẫu khác nhau. Có thể câu văn lúc ấy còn lủng củng
nhưng ta có thể sửa chữa.
- Hoặc có thể hình thành một đoạn văn qua trò chơi “tiếp sức, sắm vai người
thân”… để tạo sự hứng khởi trong học tập cho học sinh đồng thời tiếp thu kiến thức
một cách tự giác. Thông qua trò chơi, học sinh còn được phát triển cả về thể lực và
nhân cách, giúp cho học sinh học Tiếng Việt một cách nhẹ nhàng hơn và tạo sự thân
thiết giữa thầy trò với nhau. Khuyến khích học sinh lồng cảm xúc vào bài.
Trang 14
Chú gà ở nhà em
Mào đỏ
Lông nhiều màu
Gáy to
Ăn thóc
Em yêu mến chú gà
Con gà
Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”.
- Ví dụ : Khi tả một chú gà, giáo viên cho hai em lên sắm vai, một em là “chú
gà”, một em là “người tả”. Cùng lúc đó, giáo viên cho học sinh vẽ sơ đồ trên vở nháp.
 “Người tả” sẽ nói một câu để giới thiệu chú gà “Nhà em có nuôi một chú
gà”
 Còn “chú gà” thì vừa nói vừa diễn tả : “Tôi có bộ lông nhiều màu sắc. Tôi
có cái mào trên đầu. Tôi gáy rất to …”
 Người tả lúc này nói về tình cảm của mình đối với chú gà : “Em thường rải
thóc cho gà ăn …”
- Khuyến khích học sinh diễn đạt tự do, suy nghĩ chân thật, thể hiện thoải mái.
Sau đó mới dần dần uốn nắn thì cách hành văn của các em mới tự nhiên. Ví dụ : Khi
các em nói về hoạt động của chú gà trống như sau : “Nó đập cánh và gáy to lắm”.
Ta có thể khuyến khích các em là tả đúng rồi nhưng nếu sử dụng một số từ gợi tả hơn

thì chắc chắn câu văn sẽ hay hơn nhiều như “ nó vỗ cánh và rướn cổ gáy vang “
- Để hỗ trợ cho học sinh, giáo viên cần cung cấp cho học sinh : nhiều từ ngữ
gợi tả, từ láy, từ tượng thanh, tượng hình … Ví dụ : Mặt biển xanh và rộng thành mặt
biển xanh ngắt và rộng mênh mông. Nối các câu văn lại thành những từ ngữ liên
kết như : và, thì, nếu, vậy là ….
Lưu ý học sinh trong đoạn văn tránh lặp lại từ nhiều lần mà phải thay những từ
ngữ lặp lại bằng từ có ý nghĩa tương tự.
. Khi dạy các bài Tập làm văn tả ngắn về bốn mùa, kể về con vật (thú, chim… ),
cây cối chúng tôi đó sưu tầm những tranh ảnh hoặc băng hình về các chủ đề này cho
HS xem nhằm giúp HS nắm được rõ hơn về các hình ảnh của các sự vật. Từ đó giúp
các em hào hứng học tập và kể sinh động, chính xác. Khi học sinh kể thì chú ý hướng
dẫn các em dùng những từ ngữ có hình ảnh, màu sắc để kể nhằm làm cho bài văn
thêm sinh động.
Ngoài ra khi dạy các kiểu bài này, chúng tôi có thể tổ chức thành trò chơi ô. Ví
dụ: Vận dụng cho bài tả về một loài chim mà em yêu thích.
* Mục tiêu: Giúp HS phát triển vốn từ ngữ miêu tả loài vật, đặc biệt là các từ tả
hình dáng và hoạt động.
Giúp cho tiết Tập làm văn trở nên lý thú hơn đối với học sinh.
* Vật liệu:
+ Bảng trò chơi ô hình rắn
Trang 15
Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”.
+ Các vòng nhựa có màu khác nhau đủ cho số học sinh trong một nhóm.
+ Xúc xắc
+ Bộ ảnh nhiều loài chim khác nhau.



Trang 16
Về đích

Nơi đặt
bộ thẻ
Xuất phát
Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”.

* Cách thực hiện:
Bước 1: Các nhóm nhận đồ dùng.
Bước 2: Học sinh đặt úp bộ ảnh vào vị trí nơi đặt bộ thẻ hình trên bảng trò chơi
ô. Tất cả các em trong nhóm cùng đặt các vòng nhựa của mình vào vị trí bắt đầu
Bước 3: Trong nhóm, người chơi lần lượt đổ xúc xắc. Tùy theo số trên mặt xúc
xắc mà người chơi sẽ di chuyển vòng nhựa của mình theo các số vòng tròn trên bảng
sao cho phù hợp.
+ Nếu vòng nhựa nào vào vòng tròn màu đỏ lớn thì người chơi sẽ lấy một ảnh
theo thứ tự từ trên xuống của bộ ảnh. Người chơi xem ảnh và nói 2, 3 câu về loài
chim trong ảnh, cả nhóm cùng xem ảnh và nhận xét câu miêu tả của bạn. Sau khi thực
hiện xong, người chơi đặt ảnh vào vị trí cuối cùng của bộ thẻ.
+ Nếu vòng nhựa của người chơi kết thúc ở vòng tròn nhỏ nhất thì mất lượt và
bạn khác sẽ tiếp tục.
Bước 4: Trò chơi sẽ kết thúc khi tất cả các em trong nhóm về đích.
Ngoài ra chúng tôi sử dụng trò chơi “Xe lửa” để dạy dạng bài này. Ví dụ bài:
Viết một đoạn văn ngắn nói về một loại cây mà em thích.
* Mục tiêu: Giúp HS phát triển vốn từ ngữ miêu tả cây cối, đặc biệt là từ tả đặc
điểm.
Giúp cho tiết Tập làm văn trở nên lý thú hơn đối với học sinh.
* Vật liệu:
- Hình tàu lửa gồm đầu tàu và 6 toa đã được cắt rời.
Trang 17
Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”.
- Bút lông viết bảng
* Cách thực hiện:

- Bước 1: Các nhóm nhận đồ dùng
- Bước 2: Các nhóm thảo luận chọn một loại cây mà mình thích. Từng thành
viên trong tổ sẽ nêu lên hình dáng của cây ấy có gì nổi bật ( thân, cành, lá, hoa,
quả…); ích lợi của cây đối với con người. Thư ký sẽ ghi tên loại cây của nhóm mình
vào đầu tàu, còn từng toa tàu sẽ ghi ý các bạn nêu về tả hình dáng, ích lợi của cây và
cảm nghĩ của mình đối với cây như thế nào.Sau đó các nhóm sẽ sắp xếp các ý vừa ghi
thành 1 đoạn văn tương đối hoàn chỉnh. Lúc ấy sẽ tạo thành một đoàn tàu lửa.
- Bước 3: Đại diện các nhóm trình bày bài của nhóm mình, giáo viên hướng
dẫn học sinh nhận xét về cách dùng từ, cách diễn dạt, cách dùng dấu câu và bố cục
của đoạn văn có đủ ba phần không.
Trang 18
Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”.
Nhóm nào ghép được đoàn tàu nhanh và sắp xếp ý thành đoạn văn hay thì
nhóm đó thắng cuộc.
B. Một số biện pháp dạy Tập làm văn lớp 3 theo hướng tích cực.
1/ Luôn chú trọng “Tích hợp-lồng ghép” khi dạy phân môn Tập làm văn lớp 3.
Khi dạy tập làm văn giáo viên cần hiểu rõ tính tích hợp kiến thức giữa các phân
môn trong môn Tiếng Việt như: Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập
viết để giảng dạy và tạo đà cho học sinh học tập tốt phân môn Tập làm văn. Mối quan
hệ này thể hiện rất rõ trong cấu trúc của sách giáo khoa: các bài học được biên soạn
theo chủ đề, chủ điểm, hai đơn vị học xoay quanh một chủ điểm ở tất cả các phân
môn.
Ví dụ: Chủ đề Cộng đồng dạy trong 2 tuần gồm các bài Tập đọc, Luyện từ và
câu…Trong quá trình rèn đọc, khai thác nội dung các bài đọc cung cấp cho học sinh
vốn từ về chủ đề Cộng đồng, những câu văn có hình ảnh về chủ đề Cộng đồng. Cụ thể
khi dạy bài tập đọc: Kể chuyện: Các em nhỏ và cụ già-Tuần 8, giáo viên khai thác nội
dung bài theo hệ thống câu hỏi sau:
+ Điều gì gặp bên đường khiến các bạn nhỏ phải dừng lại?
+Các bạn quan tâm đến ông cụ như thế nào?
+Vì sao các bạn quan tâm đến ông cụ?

+Ông cụ gặp chuyện gì buồn?
+Vì sao khi trò chuyện với các bạn nhỏ ông cụ thấy lòng nhẹ hơn?
Qua các câu trả lời của học sinh, giáo viên định hướng cho các em ý thức biết quan
tâm chia sẻ với những người trong cộng đồng, giúp cho các em khi viết đoạn văn kể
về những người thân, hoặc người hàng xóm, đoạn văn toát lên được nội dung: con
người phải biết yêu thương nhau, sự quan tâm chia sẻ của những người xung
quanh làm cho mỗi người dịu bớt những nỗi lo lắng, buồn phiền, và cảm thấy cuộc
sống tốt đẹp hơn.
Trang 19
Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”.
Qua hệ thống câu hỏi, giáo viên giúp cho học sinh bày tỏ được thái độ, tình
cảm, ý kiến nhận xét, đánh giá của mình về vấn đề nêu ra trong bài học. Song song
với quá trình đó, giáo viên cần hỏi ý kiến nhận xét của học sinh về câu trả lời của bạn
để học sinh rút ra được câu trả lời đúng, cách ứng xử hay.
Như vậy, qua tiết học này, học sinh được mở rộng vốn từ, rèn lối diễn đạt mạch
lạc, lôgic, câu văn có hình ảnh, cảm xúc. Trên cơ sở đó, bài luyện nói của các em sẽ
trôi chảy, sinh động, giàu cảm xúc, đồng thời hình thành cho các em cách ứng xử linh
hoạt trong cuộc sống; hình thành cho học sinh kiến thức về mối quan hệ tương thân
tương ái giữa mọi người trong cộng đồng; rèn cho học sinh thói quen quan tâm, chia
sẻ giúp đỡ những người trong cộng đồng.
Cũng với chủ đề này thì phân môn Luyện từ và câu-Tuần 8 cũng cung cấp cho
học sinh vốn từ về chủ đề Cộng đồng thông qua hệ thống các bài tập. Cụ thể:
Bài 1: Sắp xếp những từ ngữ vào ô trống trong bảng phân loại sau
Các từ: Cộng đồng, cộng tác, đồng bào, đồng đội, đồng tâm, đồng hương
Giáo viên giúp các em hiểu nghĩa các từ trên và sắp xếp vào các nhóm từ:
Nhóm 1: Những người trong
cộng đồng
Nhóm 2: Thái độ hoạt động
trong cộng đồng
Cộng đồng, đồng bào, đồng đội,

đồng hương
Cộng tác, đồng tâm
Từ việc hiểu nghĩa của từ ở bài tập 1, học sinh hiểu ý nghĩa các thành ngữ ở bài
tập 2 và bày tỏ thái độ tán thành hay không tán thành thái độ ứng xử trong cộng đồng
thể hiện trong các thành ngữ đó:
Chung lưng đấu cật.
Cháy nhà hàng xóm bình chân như vại.
Ăn ở như bát nước đầy.
Trang 20
Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”.
Như vậy học sinh biết vận dụng những câu thành ngữ về thái độ ứng xử trong
cộng đồng khi nói-viết tập làm văn giao tiếp, ứng xử trong cuộc sống.
Ở phân môn Chính tả Tuần 8, các em cũng được luyện viết các bài trong chủ đề
Cộng đồng. Ví dụ: Viết đoạn 4 trong bài các em nhỏ và cụ già.
Khi viết đoạn văn trên, học sinh được rèn viết chính tả, cách sử dụng các dấu
câu; thấy được sự cảm thông, chia sẻ giữa con người với nhau làm dịu bớt nỗi lo lắng,
buồn phiền, tăng thêm cho mỗi người niềm hy vọng, nghị lực trong cuộc sống. Học
sinh vận dụng cái hay , cái đẹp của ngôn từ trong đoạn văn để thể hiện tình cảm, thái
độ đánh giá trong từng bài văn cụ thể của chính các em.
Tương tự, ở phân môn Tập viết-Tuần 8, các em được làm quen với các thành
ngữ, tục ngữ về chủ đề Cộng đồng như luyện viết câu ứng dụng:
“ Khôn ngoan đá đáp người ngoài
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.”
Xuất phát từ các phân môn: Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Tập viết xoay
quanh chủ đề Cộng đồng, học sinh biết “ Kể về người hàng xóm mà em quý mến”
( TLV 3-Tuần 8) và viết được đoạn văn hoàn chỉnh, thể hiện tình cảm, thái độ đánh
giá đối với người hàng xóm qua việc sử dụng từ ngữ, câu văn có hình ảnh.
Cô Loan là người hàng xóm bên cạnh nhà em. Cô là giáo viên tiểu học, tối tối
miệt mài bên trang giáo án và chấm bài cho học sinh. Với dáng nhỏ nhắn nhung rất
nhanh nhẹn, giọng cô ấm áp. Em thích nghe nhất là khi cô hát. Cô thật xứng danh là

cô ca sĩ của trường.
Như vậy, khi dạy tất cả các phân môn của Tập làm văn đều nhằm mục đích
giúp học sinh có kỹ năng hình thành văn bản, ngôn bản. Do đó, tích hợp lồng ghép là
phương pháp đặc trưng khi dạy phân môn Tập làm văn lớp 3.
2/ Dạy học theo quan điểm giao tiếp:
Trang 21
Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”.
Dạy học theo quan điểm giao tiếp là hình thành cho học sinh kỹ năng diễn đạt
thông qua các bài học, hình thành thói quen ứng xử trong giao tiếp hàng ngày với thầy
cô, cha mẹ, bạn bè và mọi người xung quanh.
Vận dụng phương pháp dạy học theo quan điểm này, giáo viên tạo cho học sinh
nhiều cơ hội thực hành, luyện tập, không quá nặng về lý thuyết như phương pháp dạy
học truyền thống. Do vậy học sinh hào hứng tham gia vào các hoạt động học tập, tích
cực, sáng tạo trong làm văn. Việc hình thành và rèn luyện các kỹ năng nghe-nói-đọc-
viết cho học sinh thông qua phân môn Tập làm văn đảm bảo đạt được hiệu quả tối ưu.
Ví dụ: Giảng dạy dạng bài tập nghe và tập nói.
Nghe và kể lại câu chuyện “Giấu cày”- Tập làm văn-Tuần 1.
Qua việc kể mẫu của giáo viên, quan sát tranh, gợi ý sách giáo khoa… học
sinh kể nội dung câu chuyện
Qua giao tiếp giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với nhau (kể cho nhau
nghe), việc kể lại nội dung câu chuyện trước lớp giúp các em thấy được sự phê phán
hóm hỉnh, hài hước, và kể lại nội dung câu truyện với giọng kể, cử chỉ, điệu bộ gây
cười ở người nghe, nét mặt phù hợp, nâng kịch tính câu chuyện lên cao hơn.
Song song với việc rèn luyện kỹ năng nghe-nói, học sinh rèn kỹ năng viết: nắm
kỹ thuật viết, luật viết câu văn, đoạn văn hoàn chỉnh, đúng về ngữ pháp, bố cục, phù
hợp văn cảnh hoặc môi trường giao tiếp. Mỗi bài văn của học sinh không đơn thuần là
kể, tả ngắn về con người, sự vật, sự việc mà thông qua đó thể hiện suy nghĩ, cảm xúc,
Trang 22
Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”.
sự đánh giá, thái độ yêu-ghét, trân trọng hay phê phán của các em. Thông qua bài viết

của các em người đọc hiểu được tâm tư tình cảm của các em về một vấn đề nào đó.
Ngoài ra, mỗi giáo viên cần cần chú trọng vận dung phương pháp dạy học theo
quan điểm giao tiếp, khơi dậy ở các em những cảm xúc, đánh thức tiềm năng cảm thụ
văn học và có nhu cầu thể hiện, bày tỏ sự cảm thụ đó với người khác. Như vậy, mỗi
bài nói, bài viết sẽ chính là tâm hồn tình cảm của các em, các em sẽ thêm yêu văn-yêu
cái hay, cái đep, yêu tiếng Việt-giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
3/ Tổ chức tốt việc quan sát tranh, hướng dẫn học sinh cách dùng từ, giọng
kể, điệu bộ khi làm bài nghe, nói, viết.
Với đặc điểm vốn từ còn hạn chế, nên học sinh lớp 3 gặp nhiều khó khăn trong
việc nghe-nói-viết-kể lại câu chuyện bằng lời văn của mình. Do vậy, giáo viên cần tổ
chức tốt hoạt động quan sát tranh: quan sát từng đường nét, màu sắc, hình ảnh, nội
dung thể hiện của tranh. Học sinh cảm nhận được được những nét đẹp của cảnh vật,
con người và muốn bày tỏ trao đổi với bạn, với thầy cô.
Để các em làm tốt hoạt động này, trước hết giáo viên chú ý cho học sinh sử
dụng gợi ý trong sách giáo khoa, lắng nghe cô kể, bạn kể để nhớ được các ý chính của
nội dung câu chuyện.
Giáo viên chú trọng về lời văn kể và nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Giáo viên cần
hướng dẫn các em cách chọn lựa, sử dụng từ ngữ, hình ảnh để điễn đạt sao cho dễ
hiểu, sinh động.
Ví dụ: Dạy bài: viết đoạn văn qua quan sát tranh (ảnh) về một cảnh đẹp ở nước ta.
-Tuần 12.
Thông qua việc quan sát tranh (ảnh) về một cảnh đẹp ở nước ta, giúp học sinh
nắm nội dung của tranh (ảnh), thấy vẻ đẹp của tranh (ảnh), từ đó các em lựa chọn từ
ngữ thích hợp để nói và viết thành đoạn văn, giúp cho người nghe-đọc tuy không
quan sát tranh (ảnh) nhưng vẫn thấy được vẻ đẹp của danh lam thắng cảnh mà học
sinh nói đến.
Bài tập 2 tuần 12: Học sinh quan sát ảnh chụp cảnh biển Phan Thiết.
Trang 23
Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”.
HS quan sát tổng thể bức ảnh, sau đó quan sát từng hình ảnh cụ thể, màu sắc

của bức ảnh, thấy vẻ đẹp bức ảnh mình vừa quan sát. ngoài ra các em biết cách quan
sát một số bức tranh ảnh mà mình sưu tầm được.
Bài Tập làm văn tuần 25: Đề bài: “Quan sát một ảnh lễ hội dưới đây (SGK) tả
lại quang cảnh và hoạt động của những người tham gia lễ hội”.
Khi quan sát học sinh nhận đâu là hoạt động chính của lễ hội. Đó là hoạt động gì?
Màu sắc trong tranh thể hiện không khí, quang cảnh lễ hội từ đó các em bộ lộ tình
cảm của mình đối với các hoạt động mang đậm nét phong tục tập quán của địa
phương.
Thêm vào đó, những yếu tố phi ngôn ngữ như điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt, nét mặt,
giọng điệu của các em khi nói sẽ làm tăng tính hấp dẫn, tính thuyết phục đối với
Trang 24
Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”.
người nghe. Do đó, giáo viên cũng cần khuyến khích các em rèn luyện khả năng sử
dụng những yếu tố phi ngôn ngữ này.
4/ Sử dụng linh hoạt các hình thức hoạt động trong tiết dạy tập làm văn theo
hướng đổi mới.
Việc tổ chức tốt các hình thức dạy học nhằm cuốn hút học sinh vào các hoạt
động học tập một cách chủ động tích cực.
Giáo viên sử dụng các hình thức tổ chức dạy học như: học sinh thảo luận
nhóm, đàm thoại với nhau và với chính thầy cô hoặc hoạt động cá nhân (độc thoại) về
một vấn đề. Các hình thức tổ chức hoạt động học có thể là: đóng các hoạt cảnh, vận
dụng các trò chơi trong tiết học, các cuộc thi tiếp sức… Qua đó học sinh lĩnh hội kiến
thức, tích cực, tự giác “học mà chơi-chơi mà học”. Không khí học tập thoái mái khiến
học sinh mạnh dạn, tự tin khi nói. Các em dần có khả năng diễn đạt, phát biểu ý kiến,
đánh giá trước đông người một cách lưu loát, rành mạch, dễ hiểu.
So sánh với phương pháp dạy Tập làm văn lớp 3 truyền thống: mỗi tiết Tập làm
văn chú trọng đến mục tiêu là hình thành bài văn theo một đề bài thuộc một thể loại
văn nào đó dưới dạng nói hoặc viết. Tiết học diễn ra theo tiến trình: giáo viên hướng
dẫn làm bài dựa theo dàn bài thuộc thể loại chung, đưa các câu hỏi gợi ý khiến học
sinh dễ nhàm chán, có cảm giác bị bắt buộc theo khuôn mẫu, không khuyến khích học

sinh nói, viết những cảm xúc, nhận xét, đánh giá, sự miêu tả của chính các em.
Trong chương trình thay sách giáo khoa lớp 3, mỗi tiết Tập làm văn là một hệ
thống bài tập có tính định hướng, gợi mở, với nhiều dạng bài: nghe-nói, nói-viết,
nghe-nói-viết Vì vậy, giáo viên vẫn bám sát mục đích, yêu cầu của tiết dạy, bài dạy
nhưng linh hoạt, chủ động hơn trong cách tổ chức các hoạt động dạy-học, phân bố
thời gian hợp lý, vừa tránh được những nhược điểm nêu trên vừa tạo được không khí
học tập phát huy được tính tích cực, sáng tạo của học sinh.
Ví dụ: Tiết tập làm văn (tuần11) với hệ thống bài tập như sau:
Bài 1: Nghe kể lại câu chuyện “Tôi có đọc đâu”.
Yêu cầu:Học sinh nghe và kể lại câu chuyện.
Trang 25

Sáng kiến kinh nghiệm: Dạy tập làm văn lớp 2 theo hướng phát huy tích cực của học sinh

Với đặc điểm của phân môn Tập làm văn: mang tính chất thực hành toàn diện, tổng hợp và sáng tạo, mỗi bài văn là một sản phẩm không lặp lại của mỗi sinh trước một đề tài cụ thể nào đó, thì việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng này là một việc làm hết sức quan trọng và cần thiết, đặc biệt với... » Xem thêm

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. Sáng kiến kinh nghiệm Tên đề tài: Dạy tập làm văn lớp 2 theo hướng phát huy tích cực của học sinh. LỜI MỞ ĐẦU Những năm gần đây ngành GD nói riêng và xã hội nói chung rất quan tâm đến Tập làm văn cải cách nhưng vẫn còn nhiều bất cập , chưa thỏa mảng được nhu cầu mong muốn của mọi người. Tập làm văn là môn có nhiều đổi mới về nội dung phương pháp dạy học. Là một giáo viên nhiều năm giảng dạy bật tiểu học nhất là lớp 2 , khi bắt tay vào dạy tập làm văn cho học sinh tôi thấy rất hướng thú và tôi quyết định đầu tư nghiên cứu phân môn này nhằm giúp các em học sinh lớp 2 học tốt hơn . Bởi vì chúng ta dạy cho học sinh biết cách làm văn ,chính là dạy cho các em biết cách ứng xử các tình huống xảy ra trong cuộc sống. Từ đó tôi đã đầu tư nguyên cứu viết đề tài : " Dạy tập làm văn lớp 2 theo hướng phát huy tích cực của học sinh ". Đây tuy chỉ là một vài biện pháp , nhưng qua thực tế áp dụng ,nó cũng đã đêm lại một số kết quan rất là khả quan . Bản thân tôi cũng có nhiều cố gắng , nhưng so với yêu cầu hoàn thiện cao về tập làm văn nên đề tài cũng không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định .Kính mong hội đồng khoa học các cấp ,các bạn bè đồng nghiệp góp ý để đề tài mang lại hiệu quả cao. Xin chân thành cảm ơn ! NGƯỜI THỰC HIỆN NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH
  2. A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lý do chọn đề tài: Nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường nói chung và bật tểu học nói riêng hiện nay vốn để cải cách giảng dạy không phải là mối quang tâm của một cá nhân nào mà đó là nhiệm vụ chung của toàn xã hội .Chính sự đổi mới phương pháp giáo dục bật tiểu học sẽ góp phần tạo con người mới một cách có hệ thống và vững chắc. Trong giai đoạn hiện nay xu hướng chung của sự đổi mới phương pháp dạy học ở bật tiểu học là làm sao để giáo viên có thể là tyuền thụ kiến thức mà còn là người tổ chức,định hướng cho học sinh hoạt động vốn hiểu biết và kinh nghiệm của bản thân và chiếm lĩnh trí thức mới . Nhung chúng ta đã biết văn học là môn học chính vừa là môn công cụ giúp học sinh Phát huy tính tích cực hoạt động nhận thức của học sinh là một tư tưởng tiến bộ vốn xuất hiện từ lâu trong lịch sử giáo dục và hiện vẫn đang được dư luận quan tâm, đánh giá cao. Dạy học theo phương pháp này khuyến khích được học sinh tự học và vận dụng vốn hiểu biết của bản thân vào quá trình học tập. Với đặc điểm của phân môn Tập làm văn: mang tính chất thực hành toàn diện, tổng hợp và sáng tạo, mỗi bài văn là một sản phẩm không lặp lại của mỗi sinh trước một đề tài cụ thể nào đó, thì việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng này là một việc làm hết sức quan trọng và cần thiết, đặc biệt với việc dạy Tập làm văn ở lớp 2 – Vậy đổi mới ra sao? như thế nào để phù hợp với học sinh lớp 2. Điều đó khiến tôi trăn trở, tìm tòi suốt nhiều năm nay. Cho nên tôi chọn cho mình đề tài:” Dạy tập làm văn lớp 2 theo hướng pháp huy tích cực của học sinh “ Các em học sinh lớp hai bắt đầu học Tập làm văn ngay từ tuần đầu tiên của năm học với thể loại đầu tiên là “điền từ”. Thời gian đầu, học sinh điền từ chưa thật chính xác do còn bỡ ngỡ và nắm từ chưa thật chắc, còn tách rời câu văn ra khỏi đoạn văn để điền từ, do đó lựa chọn từ không chính xác dẫn tới gạch xoá nhiều.
  3. Ví dụ: Bài “Ngôi trường mới”. Nếu tách riêng từng câu thứ nhất, hai từ ngữ sau điền vào chỗ trống, ý nghĩa của câu vẫn hợp lý: lớp học, ngôi trường (xã em vừa xây xong một ngôi trường hoặc: Xã em vừa xây xong một lớp học. Xong xét ý nghĩa cả đoạn thì lại phải bỏ từ “lớp học”. Từ tuần 8 đến tuần 33, học sinh lần lượt học thêm các thể loại bài: Quan sát tranh và trả lời câu hỏi; trả lời câu hỏi; dùng từ đặt câu. Học sinh khá lúng túng trong cách diễn đạt, từ ngữ sử dụng nghèo nàn, còn dựa vào bài tập đọc hoặc phụ thuộc vào gợi ý của giáo viên hơi nhiều. Chỉ một số học sinh được làm việc. Giáo viên không kiểm soát được hết lỗi của học sinh để sửa chữa kịp thời cũng như không kiểm soát hết được sự tham gia vào bài học của học sinh Vậy làm thế nào để khắc phục được những khó khăn, hạn chế nêu trên và phát huy được tính tích cực của học sinh trong quá trình học Tập làm văn? Quá trình giảng dậy ở lớp 2, tìm hiểu nội dung chương trình, sách giáo khoa và phương pháp giảng dạy, tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm sau đây II. Mục đích ý nghĩa của đề tài : Đề tài giúp tôi không những phải tận tình gần giũ , giúp đỡ học sinh tự học và vận dụng vốn hiểu biết của bảng thân tự học và vận dụng vốn hiểu biết của bản thân vào quá trình học tập của các em .Riêng bản thân cũng không ngừng học tập trao dồi cho mình một kĩ năng vững vàng phương pháp tập làm văn. Từ đó tôi thấy rõ trọng trách của người giáo viên chủ nhiệm lớp là phải từng bước giúp học sinh làm tập làm văn,nhằm nâng cao chất lượng học cho các em
  4. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I.Thực trạng tình hình lớp Trong năm học 2009- 2010 tôi đươc nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 2/1 có 35 học sinh trong đó có 18 học sinh nam . Các em nói chung tiếp thu bài tốt , hiểu bài ngay . Tuy nhiên kỹ năng nghe nói của các em không đồng đều , có một số em nói còn nhỏ , khả năng diễn đạt suy nghĩ bài học còn chậm , yếu . Mặt khác , do thực tế học sinh mới được làm quen với phân môn Tập làm văn ở lớp 2 nên học sinh còn nhiều bỡ ngỡ , chưa có phương pháp học tập bộ môn một cách khoa học và hợp lý . Qua khảo sát đầu năm tôi nhận thấy đa số học sinh học cho lấy rồi chưa thật sự tâp trung vì chư nắm vững tạp làm văn , dẫn đến kết quả xếp loại tháng 9 như sau: Thời gian Giỏi Khá T Bình Yếu Kém Tháng 9 SL CL SL CL SL CL SL CL SL CL Trước tình hình đó tôi có nhiều lo lắng thực trạng tập làm văn làm thế nào để khắc phục tình trạng trên Bản thân tôi là giáo viên lớp 2 giảng dạy nhiều năm học trước và sự đóng góp của các bạn đồng nghiệp , tôi đã thu nhập được và đưa ra các biện pháp cho lớp. Để các em càng ngày , càng hứng thú hơn trong giờ học tập làm văn II.Biện pháp thực hiện Dạy tập làm văn lớp 2 theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, tôi đã thực hiện nội dung các bước lên lớp như sau: 1. Kiểm tra bài cũ < kiểm tra nội dung bài học trước hoặc nhận xét bài làm kỳ trước >
  5. 2. Bài mới: a. Giới thiệu bài b. Giảng bài mới: - Bước 1: Phân tích đề bài - Giáo viên hướng dẫn học sinh nắm vững nội dung yêu cầu của đề bài, trọng tâm bài. Ví dụ loại bài “trả lời câu hỏi” - Giáo viên phải xác định được: Trọng tâm của bài là gì? Nội dung của các câu hỏi trả lời về vấn đề gì? - Bước 2: Hướng dẫn tìm ý < học sinh đọc lại bài tập đã học> - Bước 3: Phân nhóm - Bước 4: Thảo luận : Giáo viên phát câu hỏi cho nhóm trưởng, giấy cho thư ký. + Nhóm trưởng đọc to từng câu hỏi cho nhóm nghe, sau đó chỉ định bạn phát biểu hoặc toàn nhóm thảo luận. Thư ký ghi lại ý kiến của nhóm, nhóm, nhóm trưởng chỉ định các thành viên lần lượt trả lời hoặc nhắc lại ý đã thảo luận. Như vậy, mỗi câu hỏi đưa ra được các thành viên trong nhóm trả lời 1- 2 lần, nhiều em đã thuộc bài ngay trên lớp. + Thảo luận xong, thư ký đọc lại toàn bài cho nhóm nghe. + Sau khoảng 10 phút thảo luận nhóm, giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài trên bảng < Giáo vên hoặc lớp phó học tập lần lượt đọc từng câu hỏi, xin ý kiến các nhóm thảo luận, khái quát thành ý kiến chung và ghi bảng, học sinh nhắc lại > - Bước 5: Củng cố - Tổng kết < 1-2 học sinh đọc lại toàn bài rồi xoá bảng > - Bước 6: Học sinh nhớ lại và ghi vào vở
  6. Với quy trình tiết dạy trên, học sinh đã thực sự giữ vai trò tích cực chủ động, biến yêu cầu của thầy thành yêu cầu nhận thức bên trong. Yêu cầu này quyết định chất lượng, phát triển nhận thức của học sinh. Quá trình nhận thức của học sinh diễn ra ở hai giai đoạn: + Giai đoạn 1: Học ở nhóm - Những hoạt động của cá nhân được sự hỗ trợ của cả nhóm, ở đó học sinh được hỏi han, trao đổi, thảo luận với nhau và ý kiến của mỗi người sẽ được hoàn chỉnh hơn dưới sự giúp đỡ của bạn bè, của giáo viên. Học sinh được rèn luyện cách sử dụng ngôn ngữ qua trình bày, diễn đạt. + Giai đoạn 2: Học ở lớp - Những ý kiến của cả nhóm sẽ được trao đổi rộng rãi hơn để tìm ra những kết luận hợp lý. Tại thời điểm này, giáo viên sẽ thể hiện rõ vai trò "trọng tài" giúp các em phân biệt đúng, sai, hợp lý và chưa hợp lý. Nên làm theo hoặc không nên làm theo cách này hay cách kia * Ví dụ 1 < Dạy loại bài: Trả lời câu hỏi > Sau khi phân tích đề và hướng dẫn tìm ý, tôi đã phân tích nhóm và hướng dẫn thảo luận như sau: < Học sinh được thảo luận cả 4 câu hỏi trong sách Tiếng việt 2 > - Nhóm trưởng đọc câu hỏi cho nhóm nghe, học sinh dùng sách Tiếng việt 2 và dựa vào bài tập đọc "Tí xíu" để trả lời cho hai câu hỏi đầu. Các em thảo luận khá sôi nổi và nêu được ý chính. + Câu 1: Tí biết lấy rau cho lợn, biết nấu cơm, nấu canh mỗi ngày hai bữa. + Câu 2: Tí nhờ ông pha thanh tre cật để vót trông gửi đồn biên phòng đánh quân cướp nước. Hai câu hỏi sau trừu tượng hơn. Một số em trả lời được, một số em trả lời còn thiếu ý.
  7. + Câu 3: Câu này gồm 2 vế, học sinh trả lời được vế đầu còn vế sau có nhiều lúng túng. Bạn khá giỏi sẽ giúp đỡ bạn yếu kém hoàn chỉnh vế sau. + Câu 4: Câu hỏi: "Em làm gì để giúp gia đình?" học sinh trả lời khá đúng, ý "giúp nước" có ít nhóm đề cập tới. Phần giáo viên giúp đỡ, gợi ý cho học sinh thấy được việc thực hiện tốt chỉ thị của chính phủ về an toàn giao thông, thực hiện tốt nếp sống văn minh, giữ cho thủ đô xanh sạch đẹp. Cố gắng học tập tốt cũng là giúp nước. Sau khi học sinh thảo luận xong < 10 phút> giáo viên hướng dẫn các em làm bài tại lớp theo trình tự: - Giáo viên đọc từng câu hỏi, xin ý kiến các nhóm và khái quát thành bài văn. - Gọi 1 - 2 học sinh đọc lại bài. Lớp đọc thầm để nhớ bài và tự viết vào vở ( ở lớp hoặc ở nhà ) Loại bài quan sát tranh, trả lời có phương pháp và quy trình lên lớp tương tự loại bài trả lời câu hỏi ( thay bước tìm ý bằng bước tìm hiểu tranh ) Loại bài dùng từ đặt câu cũng được thảo luận theo nhóm. ở loại bài này, các câu do học sinh nêu ra thường đơn điệu thiếu hình ảnh, vì thế giáo viên là người " trọng tài khoa học " giúp học sinh giải quyết vấn đề và sắp xếp các câu thành một đoạn văn ngắn. Những bài không có phần "suy nghĩ trước khi đặt câu giáo viên cần đặt câu hỏi để gợi mở, giúp học sinh đặt câu. Câu hỏi của giáo viên đưa ra phải ngắn gọn, dễ hiểu, hướng vào nội dung của bài văn và phải nảy ra được từ cần đặt câu. *Ví dụ 2 < Khi dạy bài dùng từ đặt câu > Để bài: Em hãy dùng mỗi từ ngữ sau đây đặt thành một câu nói về chiếc cần trục: cần trục sừng sững, cao lêu đeo,bàn tay sắt, cánh tay kỳ diệu. Giáo viên có thể dùng hệ thống câu hỏi gợi mở như sau:
  8. 1. Ở bến cảng, ai là người hăng hái nhất? < Hoặc em nhìn thấy cần trục ở đâu? > 2. Bác cần trục đứng như thế nào? 3. Bác dùng cái gì để nhấc hàng? 4. Hình dáng bác ta sao? 5. Các chú công nhân gọi bác cần trục là cái gì? Phần thảo luận giống như trên. Học sinh có thể đặt câu hỏi tự do xoay quanh chủ đề “Chiếc cần trục”. Qua việc thảo luận, học sinh đặt ra rất nhiều kiểu câu khác nhau. Các em không bị gò bó theo khuôn mẫu cứng nhắc như trước kia, không bị phụ thuộc hoàn toàn vào bài tập đọc ở sách giáo khoa. Sau khi thảo luận, giáo viên xin ý kiến các nhóm và chọn câu hay để ghi lên bảng ( theo yêu cầu của đề bài ) Củng cố - tổng kết: Giáo viên đọc, gọi 1 - 2 học sinh đọc lại để nhớ và tự ghi vào vở. C. KẾT QUẢ Sau một thời gian học tập và rèn luyện , chất lượng học tập của HS lớp tôi dạy được Nâng cao rõ rệt . Học sinh bước đầu biết cách ứng xử phù hợp với tình huống Tôi tự nhận thấy mình đã tự tìm được hướng đi đúng , cách làm phù hợp cho việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn Tập làm văn . Tôi thấy mỗi giờ dạy bản thân mình cũng tạo được sự say mê , hứng thú trong việc rèn cho các em học Tập làm văn . Cho nên tiết tập làm văn bây giờ trở nên nhẹ nhàng hơn so với trước . Tôi cũng đã mạnh dạn thực hiện kinh nghiệm của mình trong giờ tập làm văn . Đầu năm học , khi mới bước vào học môn Tập làm văn có khong ít Hs lớp tôi rất sợ học môn này . Nhưng dần với sự động viên , dìu dắt của tôi , số lượng các em sợ học môn này ngày càng giảm dần . Thay vào đó học sinh rất mong muốn , phấn khởi chờ đón giờ tập làm văn . Hs
  9. lớp tôi đã có ý thức hơn trong giờ học tập làm văn , Hs tự tin và hứng thú học tập . Chất lượng học tập làm văn có chuyển biến rõ rệt IV. Bài học kinh nghiệm Trên đây là một số việc tôi đã làm để dạy môn Tập làm văn theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh. Thực tế giảng dạy, tôi thấy các em rất hào hứng với hình thức học tập này. Thông qua các tiết tập làm văn, học tập dưới hình thức thảo luận và nhóm đã nêu ở trên, vốn tiếng việt của học sinh đã nâng lên rõ rệt. Các em cảm thấy tự tin hơn khi học tiết này. Qua các đợt kiểm tra định kỳ trong năm, tỉ lệ điểm khá giỏi tương đối cao. Tóm lại, muốn dạy tốt phân môn Tập làm văn trong chương trình tiểu học thì bản thân người giáo viên phải yêu thích môn Tiếng việt và đặc biệt là môn Tập làm văn. Ngoài ra, người giáo viên cần phải trau dồi thêm kiến thức, luôn học hỏi, dự giờ chuyên đề của các đồng nghiệp, từ đó lựa chọn nội dung và phương pháp giảng dạy cho phù hợp với đối tượng học sinh. D. Kết thúc vấn đề Mỗi bài học ;Tập làm văn ;là một diệp cho các em có thêm kiến thức và kĩ năng chủ động tham dự vào cuộc sống văn hóa thường ngày.Vì vậy,Giáo viên hết linh hoạt để làm cho tiết ;Tập làm văn: Trở thành một tiết học hứng thú và bổ ích .Điều quang trọng là cần căn cú vào nội dung,tính chất của từng bài , căn cứ vào trình độc học sinh và năng lực chọn ,sử dụng kết hợp lý ,đúng mức, Trên đây là một vài biện pháp ,nhưng qua thực tế áp dụng ở trường tôi trong năm học vừa qua . Bản thân tôi cũng có nhiều cố gắng nhưng so với yêu cầu cao cao về Tập làm văn nên đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định Kính mong Hội đồng khoa học các cấp các bạn đồng nghiệp đóng góp bổ sungđể , đề tài mang lại hiệu quả cao các bộ.

Skkn dạy tốt phân môn tập làm văn lớp 2

  • doc
  • 22 trang
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:
"MỘT SỐ KINH NGHIỆM DẠY TỐT PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN
LỚP 2”

A. PHẦN THỨ NHẤT
ĐẶT VẤN ĐỀ

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Chương trình Tiểu học mới chính thức được Bộ giáo dục và Đào tạo lưu hành trên
cả nước vào năm học 2001-2003. Cùng với các môn học khác chương trình môn Tiếng
Việt được biên soạn nhằm nâng cao chất lượng dạy và học trên cơ sở phát huy những
kinh nghiệm đó đã có, đồng thời tiếp nhận những thành tựu hiện đại của việc dạy tiếng
Việt nói chung và tiếng mẹ đẻ, tiếng phổ thông nói riêng cho từng quốc gia, từng khu vực
và trên toàn thế giới.
Điều 23 Luật giáo dục đã quy định mục tiêu giáo dục ở Tiểu học: "Giáo dục Tiểu
học giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài
về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản góp phần hình thành nhân
cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây dựng nhân cách và trách nhiệm
công dân chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên Trung học cơ sở".
Chính vì thế Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quyết định chính thức đổi mới chương
trình giáo dục từ lớp 1 đến lớp 5 quả là vấn đề rất quan trọng vì các kiến thức được tích
hợp, tinh giản chú trọng nhiều đến khả năng giao tiếp của học sinh. Chương trình Sách
giáo khoa Tiếng Việt 2 gồm các bài học thuộc 6 phân môn: Tập đọc, Kể chuyện, Chính
tả, Luyện từ và câu, Tập viết, Tập làm văn. Trong các phân môn nói trên, Tập làm văn là
phân môn có nhiều đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học. Khi thực hiện chương
trình mới, tôi thấy tâm đắc nhất là phân môn "Tập làm văn" mà tôi đang trực tiếp giảng
dạy. Vì phân môn Tập làm văn có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc hoàn thiện và nâng
cao các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt, đặc biệt là kỹ năng sản sinh văn học (văn bản nói và

văn bản viết) cho học sinh Tiểu học. Như vậy, nói rằng phân môn Tập làm văn góp phần
to lớn trong việc hiện đại hoá mục tiêu quan trọng bậc nhất của việc dạy và học Tiếng
Việt ở Tiểu học là hình thành, phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt để
học tập trong nhà trường và giao tiếp một cách đúng đắn, tự nhiên, tự tin trong các môi
trường hoạt động của lứa tuổi.
Là giáo viên dạy lớp nên tôi rất quan tâm đến việc giúp các em tự tin học tốt phân
môn Tập làm văn. Chính vì thế mà tôi chọn nghiên cứu và thực nghiệm đề tài “Một số
kinh nghiệm dạy tốt phân môn Tập làm văn lớp 2”.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Thông qua sáng kiến kinh nghiệm này, nhằm:
- Hình thành và phát triển cho học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (như
nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa
tuổi.
- Trau dồi thái độ ứng xử có văn hóa, tinh thần trách nhiệm trong công việc,
bồi dưỡng tình cảm lành mạnh, tốt đẹp thông qua nội dung bài dạy.
- Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt góp phần rèn luyện các thao tác tư duy,
từ đó giúp học sinh chiếm lĩnh các kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết.
- Góp phần nâng cao chất lượng dạy phân môn Tập làm văn.

III. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở lý luận:

Điều kiện kinh tế - xã hội đã có những thay đổi quan trọng, nhiều thành tựu đổi
mới của các ngành khoa học đã xuất hiện những điều kiện đòi hỏi phải xây dựng lại
chương trình môn Tiếng Việt. Bước vào thế kỷ XXI, thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Đây là một quá trình lâu dài, gian khổ, phức tạp, từ đây trên thế giới cũng
như đất nước ta bắt đầu đặt ra nhiều vấn đề mới như kinh tế, tri thức, sự phát triển của
công nghệ thông tin, hội nhập vào nền kinh tế - văn hóa của thế giới.
Học sinh nắm được chương trình mới đạt được kết quả tốt là vấn đề nan giải vì
chương trình cũ Tập làm văn đưa ra kiến thức có sẵn, học sinh dựa vào kiến thức đã đưa
ra để học sinh điền vào, hoạt động tích cực của học sinh còn rất ít, học sinh chưa có sự
sáng tạo trong học tập, giao tiếp nghi thức tối thiểu như: chào hỏi, lời động viên, an ủi là
rất xa lạ đối với trẻ. Khi khách đến nhà, học sinh chưa biết có lời chào như thế nào, khi
bố mẹ bảo "Con chào bác đi!" con trẻ chỉ đáp lại với lời chào chưa gãy gọn, ngượng
ngùng. Lời cảm ơn, xin lỗi đối với trẻ là rất viễn vông. Nhưng đối với chương trình mới
tôi rất hài lòng và hứng thú, học sinh nắm được nghi thức sử dụng chúng trong mọi tình
huống giao tiếp ở gia đình, trong trường học và nơi công cộng. Qua đó bồi dưỡng và hình
thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chính vì thế trong hệ thống giáo dục quốc dân Tiểu học là bậc học có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng. Ngày nay với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, bậc Tiểu học đã coi
trọng và đầu tư rất nhiều cả về cơ sở vật chất, đồ dùng dạy học, con người, trang thiết bị
và sách giáo khoa, tài liệu giảng dạy. Bậc Tiểu học được coi là bậc nền tảng của hệ thống
giáo dục quốc dân. Chất lượng này phụ thuộc rất nhiều vào kết quả đào tạo ở Tiểu học.
Người giáo viên Tiểu học phải chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên, đồng thời có trách
nhiệm xây dựng một nền móng dân trí tối thiểu cho cả dân tộc thực hiện tốt Luật giáo dục
phổ cập Tiểu học và các mục tiêu chương trình đề ra.

Phân môn Tập làm văn có tính chất thực hành, toàn diện, tổng hợp và sáng tạo, sử
dụng toàn bộ các kỹ năng được hình thành và phát triển do nhiều phân môn khác của
môn Tiếng Việt đảm nhiệm (kỹ năng đọc, nghe nói, viết chữ, viết chính tả, dùng từ đặt
câu..). Tập làm văn còn đòi hỏi học sinh huy động với kiến thức nhiều mặt (Từ hiểu biết
về cuộc sống đến tri thức về văn học, khoa học thường thức...) có liên quan đến đề bài.
Bài Tập làm văn là sản phẩm tổng hợp của vốn sống, vốn văn học, năng lực tư
duy, năng lực giao tiếp, sự thành thạo trong việc sử dụng ngôn ngữ, sự sáng tạo của cá
nhân học sinh. Qua bài Tập làm văn (kết quả học tập phân môn Tập làm văn) ta sẽ thấy
được trình độ sử dụng Tiếng Việt, những tri thức và hiểu biết về cuộc sống của học sinh.
Là môn học công cụ, phân môn Tập làm văn lớp 2 giúp cho học sinh nắm vững
đơn vị tri thức cơ bản của khoa học Việt ngữ. Trên cơ sở hình thành kỹ năng: nghe, nói,
đọc, viết đạt đến trình độ đúng, tạo điều kiện học sinh nắm được tri thức khoa học mới.
Vì vậy, dạy học sinh tiếp thu được chương trình mới, kiến thức Tập làm văn là góp phần
không nhỏ vào việc hình thành mục tiêu giáo dục và đào tạo.
2. Cơ sở thực tiễn:
Năm học 2011 – 2012, tôi được phân công chủ nhiệm lớp 2/1 trường Tiểu học
Minh Hòa – Dầu Tiếng – Bình Dương. Lớp 2/1 do tôi chủ nhiệm có tổng số là 37 học
sinh trong đó có 21 học sinh nữ. Trong năm học, tôi có những thuận lợi và gặp những
khó khăn như sau:
* Thuận lợi:
- Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường và các cấp chính quyền địa
phương.

- Là giáo viên giảng dạy nhiều năm nên có nhiều kinh nghiệm trong công tác chủ
nhiệm.
- Được đào tạo chuẩn hoá về chuyên môn.
- Được sự giúp đỡ của đồng chí, đồng nghiệp trong công tác giảng dạy.
- Cơ sở vật chất cũng như đồ dùng dạy học cũng được nhà trường trang bị tương
đối đầy đủ phục vụ cho việc dạy và học.
- Sách vở và đồ dùng học tập của học sinh được phụ huynh mua sắm đầy đủ.

* Khó khăn:
- Học sinh trường tiểu học Minh Hòa - Dầu Tiếng - Bình Dương thuộc vùng sâu,
vùng xa của huyện Dầu Tiếng ít nhiều còn khó khăn về điều kiện học tập.
- Phụ huynh đa số là nông dân ít có điều kiện quan tâm đến việc học tập sinh hoạt
của con em.
- Môi trường sống ở vùng sâu, xa ít nhiều ảnh hưởng đến quá trình tiếp thu kiến
thức của trẻ .
- Là lớp đầu cấp (sau lớp 1) nên các em còn hạn chế khả năng giao tiếp, ngôn ngữ
còn hạn hẹp về vốn từ.

B. PHẦN THỨ HAI
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý KHI DẠY PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN
1.Về phía học sinh:
* Học sinh thường lười đọc sách báo hoặc tìm tòi sưu tầm những tài liệu phục vụ
cho kiến thức có liên quan đến môn học dẫn đến nghèo vốn từ, nghèo vốn sống để có
thể đưa bài văn vào viết.
* Thiếu sự quan tâm, hỗ trợ động viên của phụ huynh.
* Học sinh chỉ quan tâm đến những sở thích không phục vụ cho môn học như: đọc
sách báo, truyện tranh nhảm nhí, chơi điện tử, xem phim ảnh không phù hợp với lứa
tuổi nên vốn văn học rất hạn chế.
2/ Về phía giáo viên:
 Giáo viên còn lúng túng khi vận dụng phương pháp dạy Tập Làm Văn: Lập dàn bài
rập khuôn dẫn đến bài làm của học sinh giống nhau về ý tưởng, nội dung.
 Chưa rèn cho học sinh có thói quen đọc các bài văn mẫu, văn hay từ đó rút ra ý
hay, tai hại thay một số giáo viên cho học sinh thuộc những bài văn mẫu điều đó đã làm
mất đi sự sáng tạo và óc tưởng tượng phong phú của học sinh.
 Giáo viên chưa linh động sáng tạo khi tổ chức các giờ dạy trên lớp, hình thức tổ
chức dạy học đơn điệu: giáo viên hỏi - học sinh trả lời, chỉ những em khá giỏi mới có thể
tham gia trả lời còn những học sinh trung bình hoặc yếu thì cảm thấy lo sợ nếu bị gọi
đến tên! Từ đó, học sinh cảm thấy nhàm chán, mất hứng thú học tập.


Chưa xử lí kịp thời, chính xác các phát sinh dẫn đến tình trạng giáo viên đánh giá

chưa đúng ý kiến của học sinh.

Trên đây là những tồn tại mà tôi thường thấy ở nhiều giáo viên khi dạy Tập làm văn.
Thế thì làm thế nào để khắc phục hiện trạng trên. Bản thân tôi sau nhiều lần thực nghiệm
tại lớp mình và nhân rộng ở một số lớp khác đã thấy rất khả thi.

II. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
1/ Đối với giáo viên;
a. .Dạy học sinh nắm bắt được kiến thức được tốt, tôi cần tìm hiểu kỹ nội dung
chương trình:
Lớp 2: Số tiết: 1 tiết/tuần; cả năm 31 bài, 31 tiết.
Nội dung:
- Thực hành về một số kỹ năng phục vụ học tập và đời sống hằng ngày, như:
viết tự thuật, lập danh sách tổ, lập mục lục, lập thời gian biểu, gọi điện, viết nhắt tin, bưu
thiếp...
- Thực hành về các nghi thức lời nói tối thiểu, như: Học sinh được học cách
chào hỏi, tự giới thiệu, cảm ơn, xin lỗi, khẳng định, phủ định, mời, nhờ, đềnghị, chia
vui, chia buồn, an ủi, thể hiện sự đồng ý, không đồng ý, ngạc nhiên, thán phục, cáp
đáp lại lời chào, lời tự giới thiệu , lời cảm ơn, xin lỗi.. qua các hình thức đọc thoại và
hội thoại trong các tình huống giao tiếp đơn giản trong gia đình, trường học.
- Thực hành, rèn luyện về kỹ năng diễn đạt ( nói, viết ), như: kể về người thân
trong gia đình, sự vật hay sự việc được chứng kiến, tả sơ lược về người, vật xung quanh
theo gợi ý bằng tranh hoặc câu hỏi…
- Thực hành rèn luyện về kỹ năng nghe: dựa vào câu hỏi gợi ý để kể lại hoặc nêu
được ý chính của mẫu chuyện ngắn đã nghe.

b. Để thực hiện tốt những nội dung chương trình phân môn Tập làm văn lớp 2,
tôi đã thực hiện như sau:
Người giáo viên có vai trò rất quan trọng và ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với học
sinh vì họ là những người chủ đạo tổ chức các hoạt động học tập của học sinh, chính vì
thế bản thân người giáo viên cần phải :
- Luôn học hỏi đồng nghiệp và tự học để nâng cao trình độ bản thân và nâng cao
tay nghề.
- Phải đầu tư thật kĩ bài dạy trước khi lên lớp.
- Phải hết sức nhạy bén và ứng xử kịp thời các tình huống phát sinh khi giảng dạy
bằng cách chú ý lắng nghe ý kiến của học sinh khi các em phát biểu để tìm ra ưu khuyết
điểm chính của các em, sau đó nhận xét sửa chữa, góp ý đánh giá.
- Giáo viên cũng cần rèn cho học sinh kĩ năng nhận xét bài của bạn để từ đó nhận
biết được những chỗ hay hoặc chưa hay trong làm bài của mình.. Điều này vừa động viên
được những em làm bài hay, vừa khơi dậy cho học sinh những ý tưởng, sáng tạo mới.
Học sinh cảm thấy có thêm nguồn động lực để thi đua học tập, để bài của mình được cô
và các bạn đọc trước lớp. Bên cạnh đó những hạn chế trong bài làm của học sinh, giáo
viên cũng cần tế nhị khi nhận xét. Tuyệt đối không dùng những câu đại loại: ý nghèo nàn
quá, bài chưa đủ ý, bài yếu hoặc em không có chuẩn bị bài sao... Điều đó sẽ làm cho em
như bị dội gáo nước lạnh vào mặt. Người giáo viên cần thận trọng, trước tiên cần tìm cho
bằng được những ưu điểm trong bài làm của học sinh dù chỉ nhỏ nhoi để tuyên dương
trước lớp rồi từ từ cho các em chỉnh sửa, bổ sung cho câu văn hay hơn, hoàn chỉnh hơn.
 Người giáo viên cần thay đổi nhiều hình thức học tập để tạo cơ hội cho nhiều
học sinh cùng được tham gia trình bày ý kiến của mình, như: Tổ chức học chung toàn

lớp; Tổ chức học theo nhóm (tổ chức lớp thành viên nhiều nhóm, các nhóm cùng đóng
vai, trao đổi bàn bạc để thực hiện nội dung bài học); Tổ chức để từng cá nhân làm việc độc
lập nhằm thực hiện nhiệm vụ học tập.
* Ví dụ: Ông em (hoặc bà em) bị mệt. Em hãy nói với ông (hoặc bà) 2-3 câu để tỏ
rõ sự quan tâm của mình.
(Bài tập 1 tiết Tập làm văn - tuần 11) SGK Tiếng Việt lớp 2 trang 94.
Hoạt động 1: Hướng dẫn học sinh nắm yêu cầu của bài tập, định hướng cho học
sinh giao tiếp. Giáo viên dùng câu hỏi: Bài tập yêu cầu làm gì? nói gì? nói với ai, nói với
hình ảnh nào? Nói để làm gì? Thái độ, tình cảm của các nhân vật khi nói với nhau như
thế nào?
Hoạt động 2: Hướng dẫn mẫu: Giáo viên hướng dẫn, tổ chức cho một học sinh nói
thử.
Hoạt động 3: Hướng dẫn, tổ chức cho học sinh nói.
Căn cứ tình huống giao tiếp được đặt ra trong đề bài. Giáo viên tổ chức cho nói
theo hướng.
Chia lớp thành các nhóm nhỏ để luyện tập. Mỗi nhóm nhỏ hoạt động dưới hình
thức trò chơi sắm vai (1 em đóng vai bà, 1 em đóng vai cháu). Trong khi học sinh thực
hành: Giờ học tạo không khí hào hứng, tôn trọng học sinh, kích thích học sinh muốn nói,
mạnh dạn nói bằng những lời động viên khen ngợi.
- Sử dụng câu hỏi gợi mở để dẫn dắt học sinh nói khi các em gặp khó khăn.
- Chú trọng rèn học sinh diễn đạt đúng, đủ, rõ ý bằng lời văn tự nhiên, chân thành,
giàu cảm xúc. Khi học sinh diễn đạt cần phải thể hiện nét mặt, ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ...
để làm tăng sức biểu cảm của lời nói.

- Định hướng cho học sinh khác nghe và nhận xét kết quả trình bày của bạn về nội
dung nói, về cách thể hiện nội dung đó để học sinh thấy rõ ưu khuyết điểm.
Hoạt động 4: Tổ chức nhận xét, rút kinh nghiệm.
Từng bạn đã đóng góp đúng vai chưa: các câu nói của vai bạn đã đúng nghi
thức lời nói chưa? (mở đầu, kết thúc cuộc gặp, cách trò chuyện, cách xưng hô...).
- Nội dung lời nói đã thực hiện đúng yêu cầu và đạt mục đích đề ra chưa?
- Cách dùng từ ngữ, diễn đạt ngữ điệu, thể hiện được nét mặt, ánh mắt chỗ nào cần
học và cần sửa. Qua đó giáo viên nhấn mạnh những nghi thức lời nói cần thực hiện (với
đề bài trên là nghi thức lời nói khi chia buồn, an ủi).
- Khi chấm bài giáo viên cũng cần có sự nhận xét cụ thể về những lỗi sai của HS để
định hướng cho HS khắc phục trong lần sau.
- Nên tập cho các em có thói quen học tập các ý hay các đoạn văn hay hoặc từ bài
làm của bạn, từ sách báo tham khảo và tạo thói quen ghi chép lại trong sổ tay văn học của
mình.
- Phân môn Tập làm văn có tính tổng hợp (đòi hỏi học sinh phải bộc lộ cả năng
lực tư duy, năng lực giao tiếp, năng lực Tiếng Việt lẫn khả năng cảm thụ, thái độ,
cảm xúc cá nhân) phân môn Tập làm văn hơn bất kỳ một phân môn nào khác đặt lên
hàng đầu yêu cầu phát huy tính chủ động, sáng tạo, bản lĩnh, cá nhân của học sinh.
Do đó, dạy Tập làm văn phải tích cực hoá được hoạt động học tập của học sinh, phải
tạo điều kiện để học sinh chủ động, tự do thể hiện cái "tôi" của mình một cách rõ
ràng, bộc bạch cái riêng của mình một cách trọn vẹn.
2. Đối với học sinh:
- Hết sức chú ý nghe giảng, có sự chuẩn bị bài trước khi đến lớp.

- Cụ thể hoá những ý nghĩ chung của bạn thành ý riêng của mình bằng cách tự lập
một hệ thống dàn bài riêng của mình phù hợp với yêu cầu của chủ đề.
- Mạnh dạn, tự tin phát biểu ý kiến để các bạn xây dựng cho mình.
- Tập cho mình có thói quen đọc sách báo hàng ngày để cập nhật thông tin bổ sung
cho bài làm của mình thêm sâu sắc hơn. Tuyệt đối tránh máy móc rập khuôn theo bài
mẫu.
III . GIÁO ÁN MẪU
Sau đây tôi xin trình bày một giáo án cụ thể để các đồng chí cùng tham khảo:

Tập làm văn (Tuần 15): Chia vui. Kể về anh, chị, em.
(Giáo dục bảo vệ mội trường- Giáo dục kỹ năng sống )
I. Mục tiêu:
1 - Rèn kỹ năng nghe và nói:
-Biết nói lời chia vui (chúc mừng) hợp tình huống giao tiếp (BT1, BT2); Biết được
những tình cảm đẹp đẽ trong gia đình.
2 - Rèn kỹ năng viết:
- Viết được đoạn văn ngắn kể về anh, chị, em .(BT3); Hiểu được tình cảm tốt đẹp
trong gia đình; Thể hiện sự cảm thông, xác định giá trị, tự nhận thức về bản thân.
- Có ý thức trân trọng tình cảm anh chị em trong gia đình.

II. Chuẩn bị
- GV: Tranh minh họa bài tập 1, một bó hoa. Bảng phụ, bút dạ. Một số tình huống
để HS nói lời chia vui.
III. Các hoạt động dạy học:

Hoạt động của Giáo viên
1. Khởi động :

Hoạt động của Học sinh
- Hát

2. Bài cũ : Quan sát tranh – Trả lời câu hỏi..
Viết nhắn tin.
-Gọi HS đọc bài tập 2 của mình.

-3 HS đọc tin nhắn .

-Nhận xét, ghi điểm từng HS.

-Bạn nhận xét.

3. Bài mới
a. Khám phá:
-Khi ai đó gặp chuyện buồn, chúng ta phải làm - Nói lời chia buồn hay an ủi.
gì?
-Vậy khi người khác hạnh phúc, chúng ta sẽ nói
gì? Bài học hôm nay sẽ giúp các em biết điều
đó.
b. Kết nối:
Bài 1

-Treo bức tranh và hỏi bức tranh vẽ cảnh gì?

- Bé trai ôm hoa tặng chị.

-Gọi 1 HS đọc yêu cầu.

- Bạn Nam chúc mừng chị
Liên được giải nhì trong kì
thi học sinh giỏi của tỉnh.
Hãy nhắc lại lời của Nam.
- Đạt giải nhì trong kì thi học

-Chị Liên có niềm vui gì?

sinh giỏi của tỉnh.
- Nam cũng thấy rất là vui.

-Khi chị Liên vui , Nam cũng cảm thấy như
thế nào?
-Nam chúc mừng chị Liên như thế nào?

- Tặng hoa và nói: Em chúc
mừng chị. Chúc chị sang
năm được giải nhất.
- Em sẽ thấy rất là vui, em

-Nếu là em trong trường hợp của Nam, em có cũng sẽ chúc mừng chị của
mình như bạn Nam.
cảm nghĩ như thế nào?

Kết luận: Chị em trong gia đình phải biết
thương yêu, cảm thông, chia sẻ với nhau
những buồn vui trong cuộc sống.

Bài 2:
- Gọi HS đọc yêu cầu bài

- 3 đến 5 HS nhắc lại.

-Nếu là em, em sẽ nói gì với chị Liên để chúc - HS nói lời của mình.
mừng chị.

- Em xin chúc mừng chị./
Chúc chị học giỏi hơn nữa./
Mong chị đạt thành tích cao
hơn./ Em rất khâm phục chị./
- HS thực hành sắm vai theo
cặp nói lời chúc mừng chị

- Tổ chức cho HS thực hành sắm vai theo cặp.

Liên.
-HS thể hiện.
-Nhận xét.

-Nhận xét.
- Hãy viết từ 3 đến 4 câu kể
Bài 3
-Gọi 1 HS đọc yêu cầu.

về anh, chị, em ruột (hoặc
anh, chị, em họ) của em.
- HS thực hiện kể về anh,
chị, em của mình cho các bạn

-GV nhận xét.

cùng nghe.
- Phải biết thương yêu, đoàn
kết, cảm thông, chia sẻ với
nhau những buồn vui trong

- Anh, chị, em trong gia đình phải có tình cảm cuộc sống.

như thế nào?

- 2 dãy HS thi đua thực hiện.
- Em rất yêu bé Nam năm
nay hai tuổi. Môi bé Nam đỏ

-Yêu cầu HS tự làm.
- Gọi HS đọc.

hồng, da trắng. Nam luôn
tươi cười ngộ nghĩnh. Em rất
yêu bé Nam.
- Anh trai em tên là Minh.
Anh Minh cao và gầy. Năm
nay anh học lớp 4 Trường
Tiểu học Ngô Thì Nhậm.
Anh Nam học rất giỏi. Em
rất yêu thương anh trai của
mình.

Tổ chức cho HS thực hành
- Chấm điểm 3 – 5 vở của HS.

theo nhóm đôi.

-Nhận xét.

- Từng nhóm HS thể hiện
sắm vai theo tình huống trên.

c.Thực hành

- Nhận xét.

- Yêu cầu HS nói lời chia vui trong một số tình
huống sau:
- Em sẽ nói gì khi bbạn đạt thành tích cao trong
học tập?
- Khi bạn em được cô giáo khen?
-Nhận xét.

Hoạt động nối tiếp:
- Nhận xét tiết học.
- Chuẩn bị bài sau.

IV. KẾT QUẢ
Trong năm học vừa qua, khi vận dụng những phương pháp trên vào giảng dạy cho
học sinh, tôi nhận thấy rất khả quan khi dạy phân môn này. Thành tích học tập của các
em cao hơn, chất lượng hơn và học sinh học tập cũng tích cực hơn.
Bảng thống kê dưới đây đã chứng minh được điều đó:
Điểm
Thời
gian

Tổng số

Giỏi

Khá

học sinh

(9 – 10)

(7 – 8)

Trung
bình
(5 – 6)

Dưới
Trung
bình
(1 - 4)

Đầu năm

37

3

11

19

3

Giữa HKI

37

16

10

10

1

Cuối HKI

37

20

11

6

0

Qua thời gian thực học, giáo viên và học sinh đã được rèn giũa và thực hành qua
các tiết dạy Tập làm văn. Tôi thấy kết quả đạt được rất khả quan, học sinh tự làm bài tập,
tự chiếm lĩnh tri thức qua hình thức tổ chức dạy học của giáo viên, các em làm việc rất
hào hứng, thành thạo với mỗi bài, mức độ yêu cầu khác nhau. Tôi đã nắm được vấn đề cơ
bản của chương trình về nội dung đổi mới phương pháp, kiến thức, kỹ năng trong giảng
dạy phân môn Tập làm văn. Chính vì thế kết quả học tập của các em không ngừng đi lên.
Tôi hy vọng với một chút kinh nghiệm nhỏ bé này sẽ phần nào giúp cho đồng
nghiệp gỡ rối trong công tác giảng dạy của mình (nhất là với phân môn Tập làm văn).
C. PHẦN THỨ BA

I . BÀI HỌC KINH NGHIỆM.
Muốn đạt kết quả cao trong quá trình giảng dạy phân môn Tập làm văn lớp 2 nói
riêng và phân môn Tập làm văn các lớp khác nói chung không phải là khó song cũng
không đơn giản một chút nào. Trong quá trình đó, tôi đã rút ra được một vài kinh
nghiệm để dạy tốt phân môn Tập làm văn như sau:
- Giáo viên cần đặc biệt chú ý sử dụng phối hợp tốt phương pháp và hình thức tổ
chức dạy học phù hợp với trình độ học sinh, phù hợp với yêu cầu từng loại bài sao cho
tiết học được tổ chức thành chuỗi hoạt động sôi nổi, nhẹ nhàng, nhằm lôi cuốn học sinh
tham gia thực hành luyện tập các kỹ năng.
- Giáo viên luôn học hỏi các đồng chí đồng nghiệp, đọc thêm tài liệu để nâng cao
chất lượng dạy và học theo phương pháp đổi mới.
- Người giáo viên phải là người mẫu mực trong mọi giao tiếp, cử chỉ... là tiếng nói
chuẩn mực để học sinh học tập.
- Thường xuyên trao đổi phụ huynh để thông báo và cùng bàn bạc khắc phục
những nhược điểm của học sinh.
- Tập trung đầu tư nghiên cứu soạn giảng các tiết dạy, áp dụng những sáng kiến
kinh ngiệm của đồng chí, đồng nghiệp vào bài dạy, sử dụng các tài liệu, đồ dùng dạy học
phù hợp, sinh động nhằm kích thích học sinh học tập.
- Tạo mối quan hệ giữa thầy và trò, quan tâm, yêu thương, gần gũi với các em,
hiểu biết về tâm sinh lý trẻ, tận tình giúp đỡ, hướng dẫn các em nhằm tạo động lực giúp
các em hoàn thành mục tiêu của bài học (nhất là học sinh yếu kém).

- Dạy học phân môn Tập làm văn nên lồng ghép, tích hợp với các môn học khác để
mở rộng thế giới kiến thức cho học sinh và vừa có tính ôn tập vừa cung cấp thêm cho các
em vốn kiến thức để hỗ trợ đắc lực cho phân môn Tập làm văn.
II. Ý KIẾN ĐỀ XUẤT
Năm học 2011– 2012 là năm thứ mười áp dụng chương trình Tiểu học 2000.
* Đối với cấp trên:
- Tổ chức nhiều chuyên đề “Đổi mới phương pháp dạy học” hơn nữa cho các lớp
giáo viên cùng học tập.
- Khuyến khích giáo viên sử dụng giáo án điện tử trong quá trình giảng dạy.
- Trang bị thêm một số tài liệu tham khảo cho giáo viên và học sinh.
- Nhà trường cùng địa phương tạo điều kiện cơ sở vật chất cho các em học tập tốt
hơn.
* Đối với giáo viên :
- Thường xuyên tìm tòi học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp, nghiên cứu các tài
liệu, sách giáo khoa… để nâng cao tay nghề.
- Thường xuyên kiểm tra đánh giá việc đọc của học sinh và ghi nhận kết quả học
tậo của các em dù là một tiến bộ rất nhỏ.
* Đối và phụ huynh:
- Mua đủ sách giáo khoa cho các em, động viên khuyến khích cho các em đọc thêm
truyện, sách, báo…
- Thường xuyên quan tâm tới việc học ở học của các em.

Tải về bản full

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt phân môn tập làm văn

I. Đặt vấn đề:

Nội dung Tập làm văn lớp 2 cung cấp cho học sinh (HS) các kĩ năng nói, viết, nghe, phục vụ cho học tập và giao tiếp. Ngoài các dạng bài dạy về các nghi thức lời nói tối thiểu, về một số kĩ năng phục vụ học tập và đời sống hằng ngày, phân môn Tập làm văn lớp 2 còn rèn cho HS kĩ năng diễn đạt và kĩ năng nghe. Ở lớp Một, thông qua môn Tiếng Việt học âm, vần, HS được luyện nói từng câu ngắn, đã được tập kể lại câu chuyện. Tuy nhiên, do vốn từ của các em còn ít nên việc diễn đạt còn rất hạn chế. Thực tế đến đầu năm lớp 2 hầu hết HS chỉ nói được những câu ngắn, trả lời chưa đủ ý, diễn đạt còn rời rạc. Do đó, nhiệm vụ của giáo viên lớp 2 là tiếp tục rèn kĩ năng diễn đạt cho các em. Chính vì mục tiêu đó, tôi chọn đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt phân môn Tập làm văn dạng bài kể ngắn” .

II. Cở sở lý luận:

Phân môn Tập làm văn lớp 2 dạy cho HS nắm được các nghi thức lời nói tối thiểu, như: chào hỏi, tự giới thiệu, …; nắm được một số kĩ năng phục vụ học tập và đời sống hằng ngày; kể một sự việc đơn giản, tả sơ lược về người, vật xung quanh theo gợi ý bằng tranh, bằng câu hỏi; nghe – hiểu được ý kiến của bạn. Các bài tập làm văn thường gồm 2 dạng chính: nói – kể và viết. Nhưng bao giờ dạng bài tập nói – kể cũng được thực hiện trước rồi mới đến dạng viết.

Ví dụ: Bài tập 1: Kể về ông, bà (hoặc một người thân) của em. Bài tập 2: Dựa theo lời kể ở bài tập 1, hãy viết một đoạn văn ngắn (từ 3 đến 5 câu) kể về ông, bà hoặc một người thân của em. Như vậy, ở lớp 2 kĩ năng cần giúp các em rèn luyện trước tiên chính là nói – kể ngắn.

III. Cở sở thực tiễn:

Qua một tháng dạy học đầu tiên, tôi nhận thấy kĩ năng diễn đạt của HS còn rất hạn chế. Điều này cũng dễ hiểu bởi vì vốn từ của các em còn nghèo, cơ hội để các em rèn luyện còn ít. Mục tiêu của môn Tiếng Việt lớp 2 là tiếp tục rèn luyện cho HS bốn kĩ năng, trong đó có kĩ năng nói – kể ngắn. Thông qua dạy học, các em được rèn luyện kĩ năng nói. Đặc biệt phân môn Kể chuyện và Tập làm văn rèn cho các em diễn đạt trôi chảy, kĩ năng gắn kết các câu nói với nhau. Trong chương trình Tập làm văn lớp 2, dạng bài kể ngắn gần như được học trọn trong học kì I, đến cuối học kì II các em chỉ học thêm có 2 tiết. Qua các bài “kể ngắn”, các em sẽ được trau dồi kĩ năng diễn đạt.

IV. Nội dung nghiên cứu: Các biện pháp giúp HS học tốt dạng bài “kể ngắn”

Biện pháp 1: Lập nội dung chương trình giảng dạy Tập làm văn dạng bài ” kể ngắn”

Chương trình Tập làm văn lớp 2 gồm ba dạng bài cơ bản: Dạng bài luyện tập về nghi thức lời nói tối thiểu; dạng bài luyện tập các kĩ năng phục vụ học tập và đời sống hằng ngày và dạng bài kể ngắn. Ba dạng bài này có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Bài tập của dạng bài này ngoài tác dụng rèn luyện kĩ năng cho chính dạng bài đó còn có tác dụng hỗ trợ cho dạng bài khác. Ví dụ: Bài 1 (tuần 1): Tự giới thiệu – Câu và bài. Bài này ngoài việc rèn luyện kĩ năng về nghi thức lời nói (tự giới thiệu) còn có tác dụng hỗ trợ cho việc rèn luyện kĩ năng nói, kể. Chẳng hạn bài tập 2: Nghe các bạn trong lớp trả lời các câu hỏi ở bài tập 1, nói lại những điều em biết về một bạn. Hay bài tập 3: Kể lại nội dung mỗi tranh dưới đây bằng 1, 2 câu để tạo thành một câu chuyện.Để tiện việc nghiên cứu, soạn bài và chuẩn bị tốt cho các tiết dạy dạng bài kể ngắn, tôi lập nội dung chương trình như sau:

TuầnNội dung bài dạyLưu ý
1Tự giới thiệu – câu và bàiBài tập 3 có tác dụng rèn kĩ năng kể
3Sắp xếp câu trong bài – lập danh sách học sinhBài tập 1 có tác dụng rèn kĩ năng kể
5Luyện tập về mục lục sáchBài tập 1 có tác dụng rèn kĩ năng kể
7Kể ngắn theo tranh – luyện tập về thời khoa biểuBài tập 1: kể ngắn
8Mời nhờ, yêu cầu, đề nghị – kể ngắn theo câu hỏiBài tập 2: kể ngắn
10Kể về người thânTrọng tâm cả tiết là rèn luyện kĩ năng kể ngắn.
13Kể về gia đìnhTrọng tâm cả tiết là rèn luyện kĩ năng kể ngắn.
15Chia vui – kể về anh, chị, emBài tập 3 có tác dụng rèn kĩ năng kể
16Khen ngợi – kể về con vật – lập thời gian biểu.Bài tập 2: kể ngắn

Biện pháp 2: Lập mạng từ then chốt để dạy tốt phân môn Tập làm văn dạng bài kể ngắn”. Chúng ta biết rằng tư duy trừu tượng của học sinh lớp 2 còn rất hạn chế. Việc yêu cầu học sinh kể ngay một sự việc nào đó dù là ngắn cũng rất khó khăn với các em. Bởi vì vốn từ của các em còn hạn chế và nhất là việc sắp xếp ý. Vận dụng chuyên đề phân môn Kể chuyện của Phòng Giáo dục và Đào tạo Đông Hà, tôi tổ chức cho học sinh lập mạng từ chốt để phục vụ cho việc kể ngắn.

Ví dụ: Dạy bài Kể về gia đình em Cuối tiết tập làm văn trước, tôi dặn dò học sinh về nhà dựa vào câu hỏi gợi ý lập mạng từ chốt (khoảng 4 – 5 từ). Trong tuần, trước khi học tập làm văn, tôi thường xuyên kiểm tra và nhắc nhở việc lập mạng từ chốt của học sinh. (kèm phụ lục 1 các mạng từ chốt của học sinh) Ngoài việc tổ chức học sinh lập mạng từ chốt, tôi cũng lập một mạng từ chốt và ghi vào bảng phụ để chuẩn bị cho tiết dạy. Ví dụ: Mạng từ chốt dạy bài Kể về gia đình: 5 người Ông nội, Cha, mẹ, chị và em; Nông dân, cần cù, vui tính, học giỏi; Yêu quý, tự hào. Đến giờ tập làm văn, tôi cho các em cầm mạng từ chốt để kể. Đối với học sinh khá giỏi tôi khuyến khích các em thoát ly mạng từ chốt để kể tự nhiên hơn. Đối với học sinh yếu, không lập được mạnh từ chốt, tôi cho các em nhìn vào mạng từ chốt của giáo viên để kể. Để đánh giá hiệu quả của biện pháp này, tôi tổ chức một tiết thao giảng và mời giáo viên trong tổ dự giờ , góp ý.Bài dạy: Kể về người thân (kèm phụ lục 2 bài soạn và phiếu dự giờ, biên bản nhận xét, đánh giá tiết dạy)Qua tiết dạy, giáo viên nhận xét biện pháp đạt hiệu quả tốt và đồng tình vận dụng vào thực tế dạy học.

Biện pháp 3: Dạy học tốt các bài “Trả lời câu hỏi”, “Tập nói”, … để làm nền cho HS kể ngắn tốt. Kiến thức – kĩ năng Tập làm văn lớp 2 được sắp xếp từ dễ đến khó một cách hợp lý. Đầu lớp 2, các em được thực hiện các bài tập “Trả lời câu hỏi” (Tuần 1, tuần 5, tuần 8, tuần 14), bài tập “Nói lại – nhắc lại” (Tuần 1, tuần 2), sau đó nâng lên một bước HS được làm các bài tập “Sắp xếp lại thứ tự các tranh và dựa theo nội dung các tranh để kể lại câu chuyện”, “Sắp xếp lại các câu cho đúng thứ tự của truyện …”. Do đó để giúp HS kể tốt, tôi tổ chức các biện pháp để giúp các em thực hiện tốt các bài tập trên. Ngoài việc yêu cầu HS trả lời đúng nội dung, tôi yêu cầu các em phải trả lời đủ câu. Ví dụ: Bài Tập làm văn tuần 5. Câu hỏi: Bạn trai đang vẽ ở đâu? Trả lời: Đang vẽ ở trên tường. (câu cụt) Trả lời đầy đủ: Bạn trai đang vẽ ở trên tường. Tôi yêu cầu các em phải trả lời lại cho đủ thành phần của câu. Thực hiện nhiều lần như thế, kết quả các em có thói quen trả lời đủ câu. Đây cũng là cơ sở để các em kể chuyện tốt.

.........

Mời các bạn tải file tài liệu để xem thêm nội dung chi tiết