Một số kinh nghiệm dạy tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của học sinh
Một số kinh nghiệm dạy tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của học sinhBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.91 MB, 32 trang ) Show
Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”. bắt buộc phải nói, các em thường đọc lại bài viết đã chuẩn bị trước. Do đó, giờ dạy chưa đạt hiệu quả cao. - Chính vì thế khi dạy bài Tập làm văn ở lớp 2, 3, giáo viên hay gặp khó khăn là học sinh thụ động, ít phát biểu, có chăng cũng chỉ là những học sinh khá giỏi là hoạt động hoặc các em chỉ trả lời câu hỏi mà không có sự liên kết thành đoạn, diễn đạt lủng củng, ý tưởng nghèo nàn… Nói đã khó, viết càng khó hơn. Điều đó đã làm cho các em chán nản, lo sợ khi học môn Tập làm văn. Vì thế yêu cầu đặt ra của chúng tôi là làm thế nào để các em hứng thú, tích cực khi học môn Tập làm văn.Do đó, sau một thời gian giảng dạy, chúng tôi dã nghiên cứu và thực nghiệm đề tài: “ Một số kinh nghiệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của học sinh ”. II/ KHẢO SÁT THỰC TRẠNG: 1/Thuận lợi: Môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn lớp 2, 3 nói riêng có nội dung phong phú, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh. Trong một tiết học, các loại bài tập được bố trí xen kẽ, gắn kết với nhau. Cả năm học có 35 tuần thì học sinh được học 31 tiết Tập làm văn. Trong 4 tuần ôn tập giữa học kỳ I, giữa học kỳ II, cuối học kỳ I và cuối học kỳ II cũng có nhiều bài tập thuộc phân môn Tập làm văn. 2/ Khó khăn: Kỹ năng nghe nói của các em không đồng đều, có một số em nói nhỏ; khả năng diễn đạt suy nghĩ cũng như diễn đạt bài học còn chậm, yếu. Do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, các em nhanh nhớ nhưng cũng mau quên, mức độ tập trung thực hiện các yêu cầu của bài học chưa cao. Học sinh lớp 2 mới được làm quen với phân môn Tập làm văn nên còn nhiều bỡ ngỡ, chưa có phương pháp học tập bộ môn một cách khoa học và hợp lí. Sự hiểu biết của học sinh lớp 3 về phân môn Tập làm văn cũng còn hạn chế. Bước đầu kế thừa, tập làm quen phân môn Tập làm văn lớp 2. Một số bài ở lớp 3 học sinh chưa được chứng kiến nên ảnh hưởng đến việc thực hành của học sinh. Kiến thức về cuộc sống thực tế của học sinh còn hạn chế, ảnh hưởng đến việc tiếp thu bài học. Trang 2 Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”. Vốn từ vựng của các em cũng chưa nhiều nên gây khó khăn trong việc thực hành. Một số em còn phụ thuộc vào bài văn mẫu, áp dụng một cách máy móc, chưa biết vận dụng bài mẫu để hình thành lối văn của riêng mình. Nhiều học sinh còn dùng luôn lời cô hướng dẫn để viết bài của mình. Học sinh chưa có ý thức đọc sách, báo hoặc tìm tòi, sưu tầm những tài liệu phục vụ cho kiến thức có liên quan đến môn học dẫn đến tình trạng nghèo vốn từ, nghèo vốn sống để có thể đưa vào bài viết. Thiếu sự quan tâm, hỗ trợ động viên của phụ huynh. Cha mẹ có thể giúp các em học tốt các môn khác. Riêng môn Tập làm văn một số phụ huynh khó có thể dạy cho con mình học tốt được vì kỹ năng vốn sống của một số phụ huynh còn hạn chế. Về đồ dùng dạy học: Phương tiện chủ yếu là tranh trong SGK, một số bài dạy thiếu tranh ảnh nên giáo viên dùng lời nói mô tả học sinh tiếp thu trừu tượng. Ngoài ra hạn chế sử dụng thường xuyên các phương tiện hiện đại như đèn chiếu, băng hình làm cho chất lượng giờ học tập làm văn chưa cao. Giáo viên chưa linh động, sáng tạo khi tổ chúc giờ dạy trên lớp, hình như tổ chức dạy học đơn điệu: “Giáo viên hỏi- học sinh trả lời”, chỉ những em khá giỏi mới có thể tham gia trả lời còn những học sinh trung bình hoặc yếu thì cảm thấy lo sợ nếu bị gọi đến tên. Mặt khác giáo viên chưa phát huy hết vai trò gợi mở óc tò mò, khả năng sáng tạo, độc lập ở học sinh. Từ đó làm cho các em cảm thấy nhàm chán, mất hứng thú học tập. Với những thuận lợi và khó khăn trên, chúng tôi đã đặt ra cho bản thân mình là phải làm thế nào để học sinh ham thích học phân môn Tập làm văn. Để có cơ sở so sánh kết quả học tập của học sinh qua từng thời điểm, chúng tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng môn Tập làm văn lớp 2, 3 vào tuần 3- tháng 9 (Năm học 2008-2009). Học sinh thể nghiệm : Lớp 2A và lớp 3A (Tổng số học sinh: 70 em.) Kết quả cụ thể như sau: Trang 3 Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”. Qua khảo sát cho thấy học sinh chưa biết diễn đạt câu văn câu văn có hình ảnh, vốn từ vựng chưa nhiều, hiểu biết thực tế còn ít; do vậy chất lượng bài viết chưa cao, ý văn nghèo nàn, câu văn lủng củng. Từ thực tế giảng dạy, để khắc phục tình trạng trên chúng tôi xin trình bày một số biện pháp cụ thể nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong giờ học Tập làm văn. III/ NHỮNG NỘI DUNG VÀ BIỆN PHÁP ĐÃ ÁP DỤNG A. Các biện pháp dạy tập làm văn lớp 2 1 .Dạy học sinh thực hành về nghi thức lời nói: Tất cả những nghi thức lời nói luôn xảy ra trong đời sống hàng ngày. Tuy nhiên, có em mạnh dạn thì hay nói còn những em nhút nhát thì ít nói. Bởi vậy, giáo viên phải dùng những biện pháp tích cực để các em nhút nhát nói ra những điều mà các em suy nghĩ trong đầu. Có thể tổ chức trò chơi sắm vai với những tình huống cụ thể để mỗi học sinh được tự do bộc lộ suy nghĩ, cách diễn đạt của mình. Ngoài ra, giáo viên nên lưu ý thái độ của học sinh khi nói với từng đối tượng là lớn hơn mình, bằng mình hay nhỏ hơn mình thì có những đại từ xưng hô khác nhau và những cử chỉ thể hiện cũng khác tùy tình huống vui hay buồn. Trang 4 Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”. Khi nói và viết lưu ý học sinh nên thêm những từ chỉ tình cảm để câu văn thể hiện sự lễ phép, lịch sự như : nhé, nha, a … Mặt khác giáo viên không chỉ dạy cho học sinh thực hành giao tiếp trong tiết học mà còn phải giáo dục các em mọi lúc mọi nơi trong cuộc sống hằng ngày với một thời gian dài. Điều quan trọng hơn nữa là giáo viên cần cho các em nắm rõ tình huống vì khi viết các em hay lầm lẫn giữa lời đáp và lời nói. Ví dụ: Em nói thế nào khi bạn xin lỗi em vì đã làm dơ áo em. Các em có thể bị lầm và nói là : - Xin lỗi bạn vì tớ lỡ làm bẩn áo bạn. Nguyên nhân là do các em chưa đọc kỹ đề, sự suy xét của các em còn non nớt. Bởi vậy, giáo viên cần tập cho các em đọc kỹ đề bài. Đặt mình vào tình huống của đề bài, cùng sắm vai theo tình huống đó. Có vậy, các em mới không bị lầm lẫn. Với dạng bài nói và đáp lời khẳng định, phủ định có lẽ tương đối dễ đối với các em, các em chỉ cần nói có hoặc không. Tuy nhiên, giáo viên cần giải thích cho các em thuật ngữ khẳng định, phủ định. Vì nếu không giải thích, các em chỉ làm theo mẫu trong sách giáo khoa thì không thể phát huy tính tích cực chủ động của học sinh. Còn nếu ta giải thích thì khi vừa gặp dạng bài này các em sẽ tự giác hiểu và làm bài tốt. Bởi vậy giáo viên cần cho các em thực hành sắm vai và cần lưu ý tình cảm thể hiện qua thái độ. Ví dụ: Khi đáp lời khẳng định thì thể hiện sự vui mừng, đáp lời phủ định thể hiện sự tiếc nuối. Có thế thì người nghe mới hiểu được tình cảm của mình. Dưới dây là một số trò chơi sắm vai mà chúng tôi đã áp dụng trong giờ tự học hoặc giờ ra chơi, giờ sinh hoạt lớp hay trong phần củng cố của mỗi giờ học Tập làm văn. Qua các trò chơi này học sinh được tăng cường rèn luyện các kiến thức đã học và giúp các em tham gia tích cực hơn trong giờ Tập làm văn. Từ đó các em sẽ vận dụng vào trong giao tiếp đời sống hằng ngày. Một số trò chơi cụ thể như sau: a. Trò chơi phỏng vấn: Trò chơi này có thể áp dụng vào bài tập 1, tuần 1: Tự giới thiệu. Câu và bài. * Mục đích: Trang 5 Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”. - Luyện tập cách tự giới thiệu về mình và về người khác với thầy cô; bạn bè hoặc người xung quanh. - Phân công: 1 HS đóng vai phóng viên truyền hình, còn 1 HS đóng vai người trả lời hoặc 1 HS đóng vai chị phụ trách, 1 HS đóng vai đội viên Sao Nhi đồng… sau đó đổi vai. - HS có thể chơi trò chơi này theo nhóm hoặc cả lớp. - Để tất cả các em nắm được cách chơi, trước khi giao việc cho từng em, GV cần tổ chức cho một hoặc hai cặp HS làm mẫu trước lớp. * Cách chơi: - Một HS giới thiệu về mình (tên; quê quán; học lớp, trường; thích môn học nào; thích làm việc gì… ) - Sau khi nghe bạn giới thiệu xong về mình, phóng viên phải giới thiệu lại từng bạn với cả lớp (hoặc nhóm ). Nội dung phải chính xác; cách giới thiệu càng rõ ràng, mạch lạc, hấp dẫn càng tốt. Cho nhiều HS tập làm phóng viên. - Cuối cùng cho lớp bình chọn phóng viên giỏi nhất. b. Chọn lời nói đúng: * Mục đích: - Luyện tập cách nói lịch sự khi cần cảm ơn người khác và đáp lại lời cảm ơn của mình. - Rèn thói quen lịch sự trong giao tiếp và sinh hoạt hằng ngày; tập cảm ơn và xin lỗi bằng những lời khác nhau. * Chuẩn bị: - 4 tranh minh hoạ ( 4 băng giấy ghi ) 4 tình huống khác nhau có xuất hiện lời cảm ơn và lời đáp lại lời cảm ơn. + Một bạn trai tới xách giúp một vật nặng cho một bạn gái. + Một bạn bị vấp ngã được một bạn khác đỡ dậy. + Trong giờ vẽ, bạn nữ cho bạn nam mượn bút chì. + Trên đường đi học về, bạn nam đưa cho bạn nữ chai nước uống. - Chia nhóm: 8 HS / 1 nhóm. Trang 6 Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”. - 1 túi xách to đựng một số đồ vật, 1 chiếc bút chì màu, 1 chai nước uống. - Cử 2 HS giúp việc cho GV. * Cách tiến hành: - Mỗi nhóm cử 2 HS tham gia trò chơi ở tình huống 1 lên trước bảng lớp để HS khác theo dõi. - HS đại diện của từng nhóm lần lượt lên chơi trò đóng vai ở mỗi tình huống đã cho trong khoảng một phút. Ví dụ: 2 HS đại diện cho nhóm 1 tham gia chơi. Một em đóng vai bạn gái đang xách một chiếc túi to, bước đi chậm chạp và nặng nhọc. Một HS đóng vai bạn trai đến bên bạn gái và nói: “Bạn để mình xách đỡ cho nào! ” rồi đỡ lấy chiếc túi từ tay bạn gái. Bạn gái nói: “Cảm ơn bạn, bạn tốt quá! ’’ Bạn trai cười tươi và nói: “Có gì đâu, việc nhỏ thôi mà! ” - Sau khi đại diện cả 4 nhóm đã chơi xong về một tình huống, GV yêu cầu 2 HS giúp việc đọc to lời của hai vai trong từng nhóm để cả lớp cùng nghe lại và bình chọn lời nói đúng. - HS tiếp tục chơi ở các tình huống khác theo gợi ý nói trên. Chú ý: 2 HS giúp việc GV ghi lại câu nói của hai bạn tham gia chơi ở từng tình huống, mỗi HS giúp việc cho GV chỉ chuyên ghi lại lời nói của một vai (vai “cảm ơn” hoặc vai “đáp lại lời cảm ơn ” ). c. Nhận lại đồ dùng: * Mục đích: - Cung cấp một số cách nói lịch sự trong giao tiếp; phục vụ các bài dạy về nghi thức lời nói (phủ định, nhờ cậy, yêu cầu, đề nghị ). - Rèn thói quen dùng lời nói lịch sự khi cần đề nghị trong giao tiếp và sinh hoạt hằng ngày. * Chuẩn bị: - Khoảng 20 đồ dùng thông thường của HS: mũ, sách, vở, bút… Mỗi đồ dùng có gắn tên chủ ở phía trong (phía khuất ) của đồ vật. Trang 7 Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”. - Một bàn đặt các đồ vật. Cạnh bàn có 1 HS ngồi làm nhiệm vụ trả đồ dùng cho chủ nhân của nó khi tan học. - 3 HS giúp việc cho GV. - Khoảng 20 lá cờ nhỏ để trao cho người đạt yêu cầu của trò chơi. * Cách tiến hành: - Nêu cách chơi: Một nhóm khoảng 10 HS làm động tác đứng dậy ra về khi tan học (đứng theo thứ tự để chờ lấy đồ dùng cá nhân ). Từng HS đến lượt mình thì nói lời đề nghị. Ví dụ: - Cho tôi xin cái mũ (bút, cặp, ) HS làm nhiệm vụ trả đồ dùng, cố ý trao nhầm đồ dùng cho từng bạn. HS nhận đồ dùng, xem lại tên chủ nhân ( ghi ở đồ dùng ) và nói hai câu: Một câu có nội dung “phủ định ” đó không phải là đồ dùng của mình; : Một câu có nội dung “đề nghị ” bạn trả lại đồ dùng cho mình. Ví dụ: - Cái bút này không phải của tôi. Cho tôi xin cái bút màu xanh ở đằng kia! Hoặc: - Xin lỗi cậu! Cái bút này không phải của mình. Cậu lấy giúp mình cái bút màu xanh nằm ở góc trong kia kìa! HS nói đúng một câu được nhận một lá cờ. - Từng HS trong nhóm lên nhận đồ vật từ tay người trả đồ vật và nói hai câu theo quy định của trò chơi. GV và HS cả lớp xác nhận kết quả và trao cờ cho người nói đúng. Những HS được cờ đứng sang một bên, những HS không được cờ đứng sang một bên. Cuối cùng GV khen thưởng cho HS được cờ và yêu cầu HS được cờ lần lượt bắt tay các bạn chưa được cờ để động viên. d. Đóng vai chúc mừng nhau: * Mục đích: - Luyện tập cách nói lịch sự khi chúc mừng người khác và đáp lại lời người khác chúc mừng mình. Trang 8 Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”. - Rèn thói quen lịch sự trong giao tiếp và sinh hoạt hằng ngày; tập chúc mừng bằng những lời khác nhau. * Chuẩn bị: - Hai hình vẽ (2 băng giấy ghi ) hai tình huống khác nhau có xuất hiện lời chúc mừng và lời đáp lại lời chúc mừng: + Một bạn gái đạt giải “Giải nhất viết chữ đẹp ” được một bạn tặng hoa chúc mừng. + Một bạn trai đang đứng nhận giải thưởng cuộc thi: “Thi kể chuyện hay”, hai bạn lên tặng hoa cho bạn trai. - 5 chiếc mũ làm bằng giấy bìa quây tròn có dòng chữ: “Giải nhất viết chữ đẹp”. - 5 chiếc mũ làm bằng giấy bìa quây tròn trên có điểm 10 và chữ: “Kể chuyện hay nhất ”. - 2 HS giúp GV làm việc. * Cách tiến hành: - Nêu cách chơi (tương tự như ở trò chơi : “Chọn lời nói đúng”). Ví dụ: Hai HS đại diện cho nhóm 2 tham gia chơi. Một HS đóng vai bạn gái đoạt giải Nhất trong kì thi viết chữ đẹp của trường. Một HS đóng vai bạn gái lên chúc mừng bạn đạt giải và nói: “Chúc mừng bạn! Chúng tớ vui lắm! ”rồi xiết chặt tay bạn. Bạn được giải đáp: “Cảm ơn các bạn!”. *Thực hành chơi: - 3 nhóm HS chơi đóng vai lần lượt từng tình huống theo cách đã hướng dẫn. Khi 2 HS trong nhóm chơi xong ở tình huống đầu thì nhóm lại cử 2 HS khác chơi ở tình huống thứ hai. - Hai HS giúp việc GV ghi lại câu nói của hai bạn tham gia chơi ở từng tình huống, mỗi HS giúp việc GV chỉ chuyên ghi lại lời nói của một vai (vai “ chúc mừng ” hoặc vai “đáp lời chúc mừng ”. ) Trang 9 Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”. - Sau mỗi tình huống, GV cho HS nhận xét và bình chọn người nói đúng hay sai. Cuối cùng bình chọn nhóm chiến thắng. e. Đóng vai khen ngợi nhau: * Mục đích: - Luyện tập cách nói lịch sự khi khen ngợi người khác và đáp lại lời người khác khen mình. - Rèn thói quen lịch sự trong giao tiếp và sinh hoạt hằng ngày; tập khen ngợi bằng những lời khác nhau. * Chuẩn bị: - 3 hình vẽ (3 băng giấy ghi ) 3 tình huống khác nhau có xuất hiện lời khen và lời đáp lại lời khen: + Một số bạn khen một bạn gái mặc bộ váy đẹp. + Một số bạn khen một bạn trai bơi giỏi. + Một bạn gái vẽ tranh con gà trống đẹp. Các bạn khác xem tranh và khen. - 5 HS mặc quần áo đẹp. - 5 mũ bơi để HS giả làm người đang bơi. - 5 bức tranh (ảnh ) con vật trông đẹp mắt. - Chia nhóm: 6 HS / 1 nhóm: 2 HS đóng vai 1 tình huống. - 2 HS giúp việc cho GV. * Cách tiến hành: - Nêu cách chơi (tương tự ở trò chơi: “Chọn lời nói đúng ” ) Ví dụ: 2 HS đại diện cho nhóm 3 tham gia chơi. Một HS đóng vai một em đang bơi. Một HS đóng vai bạn cổ vũ vừa vỗ tay, vừa nói lời khen: “Cậu giỏi quá! Tuyệt quá! ”. Bạn được khen khi ngừng làm động tác thì đáp: “Cảm ơn bạn! Tớ sẽ cố bơi nhanh hơn nữa. ” *Thực hành chơi: - Các nhóm HS chơi đóng vai lần lượt từ tình huống đầu đến tình huống cuối theo cách đã hướng dẫn. Khi 2 HS trong nhóm chơi xong ở tình huống đầu thì nhóm Trang 10 Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”. lại cử 2 HS khác chơi ở tình huống tiếp theo. Tiếp tục cử người chơi như vậy ở 3 tình huống. - Hai HS giúp việc GV ghi lại câu nói của hai bạn tham gia chơi ở mỗi tình huống, mỗi HS giúp việc GV chỉ chuyên ghi lại lời nói của một vai (vai “khen ngợi ” hoặc vai “đáp lời khen ngợi ”. Sau mỗi tình huống, GV cho HS nhận xét và bình chọn nói đúng hay sai. Cuối cùng bình chọn nhóm chiến thắng. g. Đóng vai an ủi nhau: * Mục đích: - Luyện tập cách nói lịch sự khi an ủi người khác và đáp lại lời người khác an ủi mình. - Rèn thói quen lịch sự trong giao tiếp và sinh hoạt hằng ngày; tập nói lời an ủi bằng nhiều cách khác nhau. * Chuẩn bị: - 3 hình vẽ (3 băng giấy ghi ) 3 tình huống khác nhau có xuất hiện lời an ủi và đáp lại lời an ủi: + Một bạn gái mặc bộ váy đẹp và bị giây mực ra váy. Một bạn khác đang an ủi bạn có váy đẹp bị giây bẩn. + Bạn trai lỡ tay làm rách một trang sách của quyển truyện. Bạn khác đến bên cạnh nói lời an ủi, động viên. + Một bạn bị điểm 3 môn toán đang buồn. Các bạn khác đến an ủi động viên. - 5 HS mặc quần áo có vết bẩn được tạo ra bằng phấn màu. - 5 bài kiểm tra toán có diểm 3. - Chia nhóm: 6 HS / 1nhóm: 2 HS đóng vai thực hiện 1 tình huống. - 2 HS giúp việc cho GV. * Cách tiến hành: - Nêu cách chơi: (tương tự ở trò chơi: “Chọn lời nói đúng ” ). Trang 11 Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”. Ví dụ: Hai HS đại diện cho nhóm 4 tham gia chơi. Một em đóng vai bạn bị điểm kém. Một em đóng vai bạn đến động viên và nói lời an ủi: “Cậu đừng buồn nữa. Từ bây giờ cậu cố gắng chăm chỉ học bài, làm bài thì đến bài kiểm tra lần sau cậu sẽ đạt điểm cao thôi mà. Cậu yên tâm, bọn mình sẽ giúp đỡ cậu. ” * Thực hành chơi: - Các nhóm HS chơi đóng vai lần lượt từng tình huống theo cách đã hướng dẫn. - Khi 2 HS trong nhóm chơi xong ở tình huống đầu thì nhóm lại cử 2 HS khác chơi ở tình huống tiếp theo. Tiếp tục cử người chơi như vậy ở 3 tình huống. - Hai HS giúp việc ghi lại câu nói của hai bạn tham gia chơi ở từng tình huống, mỗi HS chỉ chuyên ghi lại lời nói của một vai (vai “an ủi ” hoặc vai “ đáp lời an ủi ” ). - Sau mỗi tình huống, GV cho HS nhận xét và bình chọn nói đúng hay sai. Cuối cùng bình chọn nhóm chiến thắng. 2/ Dạy học sinh các kỹ năng phục vụ học tập và đời sống hàng ngày - Mặc dù đây là những kỹ năng phục vụ cho học tập và đời sống hàng ngày nhưng các em lại ít được tiếp xúc. Bởi vậy, giáo viên cần cho các em thấy một cách trực quan, thật rõ ràng. Khi dạy bản khai tự thuật, danh sách học sinh, mục lục sách, thời gian biểu. Giáo viên phải có một bản mẫu thật to để các em được nhìn và nghiên cứu. Giáo viên phải chỉ rõ cách xem, cách lập, từ đó các em mới biết cách sử dụng những kiến thức đã học được mà áp dụng vào cuộc sống hàng ngày. Ví dụ: Dạy dạng bài nhận và gọi điện thoại - Trong thời đại ngày nay, việc nhận và gọi điện thoại là quá quen thuộc với học sinh. Do đó, các em nói rất dễ dàng. Tuy nhiên khi viết các em gặp nhiều trở ngại vì các em chưa nắm được khi nào là bản thân mình nói, khi nào là người đầu dây bên kia nói. Bởi vậy, khi các em viết ra sẽ nhầm lẫn và sai sót. Nên giáo viên phải giúp các em xác định nhân vật . Có thể giúp các em hứng thú hơn bằng cách các em chuẩn bị những chiếc điện thoại, cho các em sắm vai, đọc kỹ đề và tưởng tượng mình là nhân vật. Có thế khi các em viết mới không bị nhầm lẫn. 3/ Dạy học sinh thực hành rèn luyện về kỹ năng diễn đạt ( nói, viết ): Trang 12 Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”. - Đây là dạng bài nòng cốt trong môn Tập làm văn. Nó đòi hỏi ở người học sinh vốn sống hàng ngày, vốn từ phong phú, đôi mắt quan sát tinh tường, óc tưởng tượng sáng tạo nghệ thuật. Bởi vậy, khi dạy dạng bài này giáo viên cần nắm rõ tâm lý tuổi học sinh. Ở lứa tuổi này học sinh nhìn nhận sự vật thế nào? Tính tình của từng học sinh ra sao? Có em rất tỉ mỉ quan sát, có em rất hời hợt qua loa. Nên phải nhấn mạnh khi học sinh muốn tả bất cứ cái gì thì các em phải hiểu rõ về cái đó. Các em phải tìm hiểu thông tin về cái đó. Có thể hỏi bạn bè, gia đình, thầy cô hay quan sát thực tế qua môn tự nhiên xã hội, qua đọc sách, đọc báo, … Giáo viên cần phối hợp nhiều phương pháp và hình thức dạy sao cho bảo đảm với mục tiêu. - Giáo viên yêu cầu và hướng dẫn học sinh có thói quen quan sát những sự vật hiện tượng xung quanh để ghi nhận lại và sử dụng khi thật cần thiết. Ngoài ra giáo viên cần sưu tầm những hình ảnh để các em quan sát hoặc có thể trình chiếu, cho các em quan sát vật thật, tham quan dã ngoại … - Để các em có thể làm được một bài văn tốt, các em phải có vốn từ ngữ phong phú. Mà vốn từ đó, có em tích lũy khá nhiều nhưng chưa biết vận dụng. Có em thì có rất ít hoặc chưa hề có. Bởi vậy, giáo viên chính là người cung cấp.Mà cung cấp ở đâu? Tôi nghĩ trong các bài tập đọc có khá nhiều. Mỗi chủ đề của môn Tiếng Việt thì môn tập đọc đều có những bài văn, bài thơ nói về chủ để đó. - Ví dụ: Khi dạy tả về một loài chim thì GV cho HS đọc kĩ bài văn Chim chích bông (SGK, tập hai, trang 30 ) và bài văn tả con chim gáy (tiết Tập làm văn tuần 22 ) để giúp HS tả về con chim được sinh động hơn. - Trong các tiết dạy, giáo viên nên tập cho học sinh trả lời thành câu đủ ý và chú ý đến những bài tập đọc có liên quan đến tiết tập làm văn. Từ đó học sinh có thể rút ra những câu văn hay, hình ảnh đẹp và ghi nhớ sau này vận dụng. Ví dụ : qua bài Tôm Càng và Cá Con học sinh rút ra được đoạn văn tả về chú Cá Con trong bài “Con vật thân dẹt, trên đầu có đôi mắt tròn xoe, toàn thân phủ một lớp vẩy bạc óng ánh”. Trang 13 Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”. Để dạy tốt bài tập làm văn dạng viết một đoạn vă ngắn kể về người thân, con vật, loài vật, cây cối…giáo viên cần tạo cho các em thói quen làm văn phải có bố cục 3 phần : mở bài (giới thiệu), thân bài (nội dung), kết luận (tình cảm); nói, viết phải thành câu rõ ý, đúng ngữ pháp. Khi viết xong các em đọc lại toàn bộ, gắn bó các câu với nhau để ý sau, ý trước nối tiếp thành đoạn văn, bài văn xuôi nghĩa. Ngoài ra còn hướng dẫn học sinh lập sơ đồ trước khi làm tập làm văn. Tôi xin gợi ý một cách lập sơ đồ thông qua bài viết một đoạn văn ngắn tả con vật mà em yêu thích . Ví dụ : Tả một chú gà Giáo viên cho học sinh nói về hình dáng, hoạt động của con gà và tình cảm của mình đối với gà. Giáo viên ghi nhanh các ý học sinh trả lời lên bảng thành sơ sồ. Từ sơ đồ mạng đã thành lập ở trên, giáo viên yêu cầu học sinh tạo thành câu, cứ thế tiếp nối nhau lập thành đoạn văn. Trong lúc đó, giáo viên có thể ghi lại trên bảng, thế là đã có nhiều đoạn văn mẫu khác nhau. Có thể câu văn lúc ấy còn lủng củng nhưng ta có thể sửa chữa. - Hoặc có thể hình thành một đoạn văn qua trò chơi “tiếp sức, sắm vai người thân”… để tạo sự hứng khởi trong học tập cho học sinh đồng thời tiếp thu kiến thức một cách tự giác. Thông qua trò chơi, học sinh còn được phát triển cả về thể lực và nhân cách, giúp cho học sinh học Tiếng Việt một cách nhẹ nhàng hơn và tạo sự thân thiết giữa thầy trò với nhau. Khuyến khích học sinh lồng cảm xúc vào bài. Trang 14 Chú gà ở nhà em Mào đỏ Lông nhiều màu Gáy to Ăn thóc Em yêu mến chú gà Con gà Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”. - Ví dụ : Khi tả một chú gà, giáo viên cho hai em lên sắm vai, một em là “chú gà”, một em là “người tả”. Cùng lúc đó, giáo viên cho học sinh vẽ sơ đồ trên vở nháp. “Người tả” sẽ nói một câu để giới thiệu chú gà “Nhà em có nuôi một chú gà” Còn “chú gà” thì vừa nói vừa diễn tả : “Tôi có bộ lông nhiều màu sắc. Tôi có cái mào trên đầu. Tôi gáy rất to …” Người tả lúc này nói về tình cảm của mình đối với chú gà : “Em thường rải thóc cho gà ăn …” - Khuyến khích học sinh diễn đạt tự do, suy nghĩ chân thật, thể hiện thoải mái. Sau đó mới dần dần uốn nắn thì cách hành văn của các em mới tự nhiên. Ví dụ : Khi các em nói về hoạt động của chú gà trống như sau : “Nó đập cánh và gáy to lắm”. Ta có thể khuyến khích các em là tả đúng rồi nhưng nếu sử dụng một số từ gợi tả hơn thì chắc chắn câu văn sẽ hay hơn nhiều như “ nó vỗ cánh và rướn cổ gáy vang “ - Để hỗ trợ cho học sinh, giáo viên cần cung cấp cho học sinh : nhiều từ ngữ gợi tả, từ láy, từ tượng thanh, tượng hình … Ví dụ : Mặt biển xanh và rộng thành mặt biển xanh ngắt và rộng mênh mông. Nối các câu văn lại thành những từ ngữ liên kết như : và, thì, nếu, vậy là …. Lưu ý học sinh trong đoạn văn tránh lặp lại từ nhiều lần mà phải thay những từ ngữ lặp lại bằng từ có ý nghĩa tương tự. . Khi dạy các bài Tập làm văn tả ngắn về bốn mùa, kể về con vật (thú, chim… ), cây cối chúng tôi đó sưu tầm những tranh ảnh hoặc băng hình về các chủ đề này cho HS xem nhằm giúp HS nắm được rõ hơn về các hình ảnh của các sự vật. Từ đó giúp các em hào hứng học tập và kể sinh động, chính xác. Khi học sinh kể thì chú ý hướng dẫn các em dùng những từ ngữ có hình ảnh, màu sắc để kể nhằm làm cho bài văn thêm sinh động. Ngoài ra khi dạy các kiểu bài này, chúng tôi có thể tổ chức thành trò chơi ô. Ví dụ: Vận dụng cho bài tả về một loài chim mà em yêu thích. * Mục tiêu: Giúp HS phát triển vốn từ ngữ miêu tả loài vật, đặc biệt là các từ tả hình dáng và hoạt động. Giúp cho tiết Tập làm văn trở nên lý thú hơn đối với học sinh. * Vật liệu: + Bảng trò chơi ô hình rắn Trang 15 Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”. + Các vòng nhựa có màu khác nhau đủ cho số học sinh trong một nhóm. + Xúc xắc + Bộ ảnh nhiều loài chim khác nhau. Trang 16 Về đích Nơi đặt bộ thẻ Xuất phát Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”. * Cách thực hiện: Bước 1: Các nhóm nhận đồ dùng. Bước 2: Học sinh đặt úp bộ ảnh vào vị trí nơi đặt bộ thẻ hình trên bảng trò chơi ô. Tất cả các em trong nhóm cùng đặt các vòng nhựa của mình vào vị trí bắt đầu Bước 3: Trong nhóm, người chơi lần lượt đổ xúc xắc. Tùy theo số trên mặt xúc xắc mà người chơi sẽ di chuyển vòng nhựa của mình theo các số vòng tròn trên bảng sao cho phù hợp. + Nếu vòng nhựa nào vào vòng tròn màu đỏ lớn thì người chơi sẽ lấy một ảnh theo thứ tự từ trên xuống của bộ ảnh. Người chơi xem ảnh và nói 2, 3 câu về loài chim trong ảnh, cả nhóm cùng xem ảnh và nhận xét câu miêu tả của bạn. Sau khi thực hiện xong, người chơi đặt ảnh vào vị trí cuối cùng của bộ thẻ. + Nếu vòng nhựa của người chơi kết thúc ở vòng tròn nhỏ nhất thì mất lượt và bạn khác sẽ tiếp tục. Bước 4: Trò chơi sẽ kết thúc khi tất cả các em trong nhóm về đích. Ngoài ra chúng tôi sử dụng trò chơi “Xe lửa” để dạy dạng bài này. Ví dụ bài: Viết một đoạn văn ngắn nói về một loại cây mà em thích. * Mục tiêu: Giúp HS phát triển vốn từ ngữ miêu tả cây cối, đặc biệt là từ tả đặc điểm. Giúp cho tiết Tập làm văn trở nên lý thú hơn đối với học sinh. * Vật liệu: - Hình tàu lửa gồm đầu tàu và 6 toa đã được cắt rời. Trang 17 Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”. - Bút lông viết bảng * Cách thực hiện: - Bước 1: Các nhóm nhận đồ dùng - Bước 2: Các nhóm thảo luận chọn một loại cây mà mình thích. Từng thành viên trong tổ sẽ nêu lên hình dáng của cây ấy có gì nổi bật ( thân, cành, lá, hoa, quả…); ích lợi của cây đối với con người. Thư ký sẽ ghi tên loại cây của nhóm mình vào đầu tàu, còn từng toa tàu sẽ ghi ý các bạn nêu về tả hình dáng, ích lợi của cây và cảm nghĩ của mình đối với cây như thế nào.Sau đó các nhóm sẽ sắp xếp các ý vừa ghi thành 1 đoạn văn tương đối hoàn chỉnh. Lúc ấy sẽ tạo thành một đoàn tàu lửa. - Bước 3: Đại diện các nhóm trình bày bài của nhóm mình, giáo viên hướng dẫn học sinh nhận xét về cách dùng từ, cách diễn dạt, cách dùng dấu câu và bố cục của đoạn văn có đủ ba phần không. Trang 18 Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”. Nhóm nào ghép được đoàn tàu nhanh và sắp xếp ý thành đoạn văn hay thì nhóm đó thắng cuộc. B. Một số biện pháp dạy Tập làm văn lớp 3 theo hướng tích cực. 1/ Luôn chú trọng “Tích hợp-lồng ghép” khi dạy phân môn Tập làm văn lớp 3. Khi dạy tập làm văn giáo viên cần hiểu rõ tính tích hợp kiến thức giữa các phân môn trong môn Tiếng Việt như: Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập viết để giảng dạy và tạo đà cho học sinh học tập tốt phân môn Tập làm văn. Mối quan hệ này thể hiện rất rõ trong cấu trúc của sách giáo khoa: các bài học được biên soạn theo chủ đề, chủ điểm, hai đơn vị học xoay quanh một chủ điểm ở tất cả các phân môn. Ví dụ: Chủ đề Cộng đồng dạy trong 2 tuần gồm các bài Tập đọc, Luyện từ và câu…Trong quá trình rèn đọc, khai thác nội dung các bài đọc cung cấp cho học sinh vốn từ về chủ đề Cộng đồng, những câu văn có hình ảnh về chủ đề Cộng đồng. Cụ thể khi dạy bài tập đọc: Kể chuyện: Các em nhỏ và cụ già-Tuần 8, giáo viên khai thác nội dung bài theo hệ thống câu hỏi sau: + Điều gì gặp bên đường khiến các bạn nhỏ phải dừng lại? +Các bạn quan tâm đến ông cụ như thế nào? +Vì sao các bạn quan tâm đến ông cụ? +Ông cụ gặp chuyện gì buồn? +Vì sao khi trò chuyện với các bạn nhỏ ông cụ thấy lòng nhẹ hơn? Qua các câu trả lời của học sinh, giáo viên định hướng cho các em ý thức biết quan tâm chia sẻ với những người trong cộng đồng, giúp cho các em khi viết đoạn văn kể về những người thân, hoặc người hàng xóm, đoạn văn toát lên được nội dung: con người phải biết yêu thương nhau, sự quan tâm chia sẻ của những người xung quanh làm cho mỗi người dịu bớt những nỗi lo lắng, buồn phiền, và cảm thấy cuộc sống tốt đẹp hơn. Trang 19 Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”. Qua hệ thống câu hỏi, giáo viên giúp cho học sinh bày tỏ được thái độ, tình cảm, ý kiến nhận xét, đánh giá của mình về vấn đề nêu ra trong bài học. Song song với quá trình đó, giáo viên cần hỏi ý kiến nhận xét của học sinh về câu trả lời của bạn để học sinh rút ra được câu trả lời đúng, cách ứng xử hay. Như vậy, qua tiết học này, học sinh được mở rộng vốn từ, rèn lối diễn đạt mạch lạc, lôgic, câu văn có hình ảnh, cảm xúc. Trên cơ sở đó, bài luyện nói của các em sẽ trôi chảy, sinh động, giàu cảm xúc, đồng thời hình thành cho các em cách ứng xử linh hoạt trong cuộc sống; hình thành cho học sinh kiến thức về mối quan hệ tương thân tương ái giữa mọi người trong cộng đồng; rèn cho học sinh thói quen quan tâm, chia sẻ giúp đỡ những người trong cộng đồng. Cũng với chủ đề này thì phân môn Luyện từ và câu-Tuần 8 cũng cung cấp cho học sinh vốn từ về chủ đề Cộng đồng thông qua hệ thống các bài tập. Cụ thể: Bài 1: Sắp xếp những từ ngữ vào ô trống trong bảng phân loại sau Các từ: Cộng đồng, cộng tác, đồng bào, đồng đội, đồng tâm, đồng hương Giáo viên giúp các em hiểu nghĩa các từ trên và sắp xếp vào các nhóm từ: Nhóm 1: Những người trong cộng đồng Nhóm 2: Thái độ hoạt động trong cộng đồng Cộng đồng, đồng bào, đồng đội, đồng hương Cộng tác, đồng tâm Từ việc hiểu nghĩa của từ ở bài tập 1, học sinh hiểu ý nghĩa các thành ngữ ở bài tập 2 và bày tỏ thái độ tán thành hay không tán thành thái độ ứng xử trong cộng đồng thể hiện trong các thành ngữ đó: Chung lưng đấu cật. Cháy nhà hàng xóm bình chân như vại. Ăn ở như bát nước đầy. Trang 20 Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”. Như vậy học sinh biết vận dụng những câu thành ngữ về thái độ ứng xử trong cộng đồng khi nói-viết tập làm văn giao tiếp, ứng xử trong cuộc sống. Ở phân môn Chính tả Tuần 8, các em cũng được luyện viết các bài trong chủ đề Cộng đồng. Ví dụ: Viết đoạn 4 trong bài các em nhỏ và cụ già. Khi viết đoạn văn trên, học sinh được rèn viết chính tả, cách sử dụng các dấu câu; thấy được sự cảm thông, chia sẻ giữa con người với nhau làm dịu bớt nỗi lo lắng, buồn phiền, tăng thêm cho mỗi người niềm hy vọng, nghị lực trong cuộc sống. Học sinh vận dụng cái hay , cái đẹp của ngôn từ trong đoạn văn để thể hiện tình cảm, thái độ đánh giá trong từng bài văn cụ thể của chính các em. Tương tự, ở phân môn Tập viết-Tuần 8, các em được làm quen với các thành ngữ, tục ngữ về chủ đề Cộng đồng như luyện viết câu ứng dụng: “ Khôn ngoan đá đáp người ngoài Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.” Xuất phát từ các phân môn: Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Tập viết xoay quanh chủ đề Cộng đồng, học sinh biết “ Kể về người hàng xóm mà em quý mến” ( TLV 3-Tuần 8) và viết được đoạn văn hoàn chỉnh, thể hiện tình cảm, thái độ đánh giá đối với người hàng xóm qua việc sử dụng từ ngữ, câu văn có hình ảnh. Cô Loan là người hàng xóm bên cạnh nhà em. Cô là giáo viên tiểu học, tối tối miệt mài bên trang giáo án và chấm bài cho học sinh. Với dáng nhỏ nhắn nhung rất nhanh nhẹn, giọng cô ấm áp. Em thích nghe nhất là khi cô hát. Cô thật xứng danh là cô ca sĩ của trường. Như vậy, khi dạy tất cả các phân môn của Tập làm văn đều nhằm mục đích giúp học sinh có kỹ năng hình thành văn bản, ngôn bản. Do đó, tích hợp lồng ghép là phương pháp đặc trưng khi dạy phân môn Tập làm văn lớp 3. 2/ Dạy học theo quan điểm giao tiếp: Trang 21 Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”. Dạy học theo quan điểm giao tiếp là hình thành cho học sinh kỹ năng diễn đạt thông qua các bài học, hình thành thói quen ứng xử trong giao tiếp hàng ngày với thầy cô, cha mẹ, bạn bè và mọi người xung quanh. Vận dụng phương pháp dạy học theo quan điểm này, giáo viên tạo cho học sinh nhiều cơ hội thực hành, luyện tập, không quá nặng về lý thuyết như phương pháp dạy học truyền thống. Do vậy học sinh hào hứng tham gia vào các hoạt động học tập, tích cực, sáng tạo trong làm văn. Việc hình thành và rèn luyện các kỹ năng nghe-nói-đọc- viết cho học sinh thông qua phân môn Tập làm văn đảm bảo đạt được hiệu quả tối ưu. Ví dụ: Giảng dạy dạng bài tập nghe và tập nói. Nghe và kể lại câu chuyện “Giấu cày”- Tập làm văn-Tuần 1. Qua việc kể mẫu của giáo viên, quan sát tranh, gợi ý sách giáo khoa… học sinh kể nội dung câu chuyện Qua giao tiếp giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với nhau (kể cho nhau nghe), việc kể lại nội dung câu chuyện trước lớp giúp các em thấy được sự phê phán hóm hỉnh, hài hước, và kể lại nội dung câu truyện với giọng kể, cử chỉ, điệu bộ gây cười ở người nghe, nét mặt phù hợp, nâng kịch tính câu chuyện lên cao hơn. Song song với việc rèn luyện kỹ năng nghe-nói, học sinh rèn kỹ năng viết: nắm kỹ thuật viết, luật viết câu văn, đoạn văn hoàn chỉnh, đúng về ngữ pháp, bố cục, phù hợp văn cảnh hoặc môi trường giao tiếp. Mỗi bài văn của học sinh không đơn thuần là kể, tả ngắn về con người, sự vật, sự việc mà thông qua đó thể hiện suy nghĩ, cảm xúc, Trang 22 Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”. sự đánh giá, thái độ yêu-ghét, trân trọng hay phê phán của các em. Thông qua bài viết của các em người đọc hiểu được tâm tư tình cảm của các em về một vấn đề nào đó. Ngoài ra, mỗi giáo viên cần cần chú trọng vận dung phương pháp dạy học theo quan điểm giao tiếp, khơi dậy ở các em những cảm xúc, đánh thức tiềm năng cảm thụ văn học và có nhu cầu thể hiện, bày tỏ sự cảm thụ đó với người khác. Như vậy, mỗi bài nói, bài viết sẽ chính là tâm hồn tình cảm của các em, các em sẽ thêm yêu văn-yêu cái hay, cái đep, yêu tiếng Việt-giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. 3/ Tổ chức tốt việc quan sát tranh, hướng dẫn học sinh cách dùng từ, giọng kể, điệu bộ khi làm bài nghe, nói, viết. Với đặc điểm vốn từ còn hạn chế, nên học sinh lớp 3 gặp nhiều khó khăn trong việc nghe-nói-viết-kể lại câu chuyện bằng lời văn của mình. Do vậy, giáo viên cần tổ chức tốt hoạt động quan sát tranh: quan sát từng đường nét, màu sắc, hình ảnh, nội dung thể hiện của tranh. Học sinh cảm nhận được được những nét đẹp của cảnh vật, con người và muốn bày tỏ trao đổi với bạn, với thầy cô. Để các em làm tốt hoạt động này, trước hết giáo viên chú ý cho học sinh sử dụng gợi ý trong sách giáo khoa, lắng nghe cô kể, bạn kể để nhớ được các ý chính của nội dung câu chuyện. Giáo viên chú trọng về lời văn kể và nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Giáo viên cần hướng dẫn các em cách chọn lựa, sử dụng từ ngữ, hình ảnh để điễn đạt sao cho dễ hiểu, sinh động. Ví dụ: Dạy bài: viết đoạn văn qua quan sát tranh (ảnh) về một cảnh đẹp ở nước ta. -Tuần 12. Thông qua việc quan sát tranh (ảnh) về một cảnh đẹp ở nước ta, giúp học sinh nắm nội dung của tranh (ảnh), thấy vẻ đẹp của tranh (ảnh), từ đó các em lựa chọn từ ngữ thích hợp để nói và viết thành đoạn văn, giúp cho người nghe-đọc tuy không quan sát tranh (ảnh) nhưng vẫn thấy được vẻ đẹp của danh lam thắng cảnh mà học sinh nói đến. Bài tập 2 tuần 12: Học sinh quan sát ảnh chụp cảnh biển Phan Thiết. Trang 23 Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”. HS quan sát tổng thể bức ảnh, sau đó quan sát từng hình ảnh cụ thể, màu sắc của bức ảnh, thấy vẻ đẹp bức ảnh mình vừa quan sát. ngoài ra các em biết cách quan sát một số bức tranh ảnh mà mình sưu tầm được. Bài Tập làm văn tuần 25: Đề bài: “Quan sát một ảnh lễ hội dưới đây (SGK) tả lại quang cảnh và hoạt động của những người tham gia lễ hội”. Khi quan sát học sinh nhận đâu là hoạt động chính của lễ hội. Đó là hoạt động gì? Màu sắc trong tranh thể hiện không khí, quang cảnh lễ hội từ đó các em bộ lộ tình cảm của mình đối với các hoạt động mang đậm nét phong tục tập quán của địa phương. Thêm vào đó, những yếu tố phi ngôn ngữ như điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt, nét mặt, giọng điệu của các em khi nói sẽ làm tăng tính hấp dẫn, tính thuyết phục đối với Trang 24 Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghệm dạy Tập làm văn lớp 2, 3 phát huy tính tích cực của HS”. người nghe. Do đó, giáo viên cũng cần khuyến khích các em rèn luyện khả năng sử dụng những yếu tố phi ngôn ngữ này. 4/ Sử dụng linh hoạt các hình thức hoạt động trong tiết dạy tập làm văn theo hướng đổi mới. Việc tổ chức tốt các hình thức dạy học nhằm cuốn hút học sinh vào các hoạt động học tập một cách chủ động tích cực. Giáo viên sử dụng các hình thức tổ chức dạy học như: học sinh thảo luận nhóm, đàm thoại với nhau và với chính thầy cô hoặc hoạt động cá nhân (độc thoại) về một vấn đề. Các hình thức tổ chức hoạt động học có thể là: đóng các hoạt cảnh, vận dụng các trò chơi trong tiết học, các cuộc thi tiếp sức… Qua đó học sinh lĩnh hội kiến thức, tích cực, tự giác “học mà chơi-chơi mà học”. Không khí học tập thoái mái khiến học sinh mạnh dạn, tự tin khi nói. Các em dần có khả năng diễn đạt, phát biểu ý kiến, đánh giá trước đông người một cách lưu loát, rành mạch, dễ hiểu. So sánh với phương pháp dạy Tập làm văn lớp 3 truyền thống: mỗi tiết Tập làm văn chú trọng đến mục tiêu là hình thành bài văn theo một đề bài thuộc một thể loại văn nào đó dưới dạng nói hoặc viết. Tiết học diễn ra theo tiến trình: giáo viên hướng dẫn làm bài dựa theo dàn bài thuộc thể loại chung, đưa các câu hỏi gợi ý khiến học sinh dễ nhàm chán, có cảm giác bị bắt buộc theo khuôn mẫu, không khuyến khích học sinh nói, viết những cảm xúc, nhận xét, đánh giá, sự miêu tả của chính các em. Trong chương trình thay sách giáo khoa lớp 3, mỗi tiết Tập làm văn là một hệ thống bài tập có tính định hướng, gợi mở, với nhiều dạng bài: nghe-nói, nói-viết, nghe-nói-viết Vì vậy, giáo viên vẫn bám sát mục đích, yêu cầu của tiết dạy, bài dạy nhưng linh hoạt, chủ động hơn trong cách tổ chức các hoạt động dạy-học, phân bố thời gian hợp lý, vừa tránh được những nhược điểm nêu trên vừa tạo được không khí học tập phát huy được tính tích cực, sáng tạo của học sinh. Ví dụ: Tiết tập làm văn (tuần11) với hệ thống bài tập như sau: Bài 1: Nghe kể lại câu chuyện “Tôi có đọc đâu”. Yêu cầu:Học sinh nghe và kể lại câu chuyện. Trang 25 Sáng kiến kinh nghiệm: Dạy tập làm văn lớp 2 theo hướng phát huy tích cực của học sinhVới đặc điểm của phân môn Tập làm văn: mang tính chất thực hành toàn diện, tổng hợp và sáng tạo, mỗi bài văn là một sản phẩm không lặp lại của mỗi sinh trước một đề tài cụ thể nào đó, thì việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng này là một việc làm hết sức quan trọng và cần thiết, đặc biệt với... » Xem thêm
Với đặc điểm của phân môn Tập làm văn: mang tính chất thực hành toàn diện, tổng hợp và sáng tạo, mỗi bài văn là một sản phẩm không lặp lại của mỗi sinh trước một đề tài cụ thể nào đó, thì việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng này là một việc làm hết sức quan trọng và cần thiết, đặc biệt với việc dạy Tập làm văn ở lớp 2 – Vậy đổi mới ra sao? như thế nào để phù hợp với học sinh lớp 2. Mời các bạn cùng tham khảo sáng kiến kinh nghiệm đề tìm hiểu về vấn đề này.
» Thu gọn
Chủ đề:
Tóm tắt nội dung tài liệu
Skkn dạy tốt phân môn tập làm văn lớp 2
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: "MỘT SỐ KINH NGHIỆM DẠY TỐT PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN LỚP 2” A. PHẦN THỨ NHẤT ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Chương trình Tiểu học mới chính thức được Bộ giáo dục và Đào tạo lưu hành trên cả nước vào năm học 2001-2003. Cùng với các môn học khác chương trình môn Tiếng Việt được biên soạn nhằm nâng cao chất lượng dạy và học trên cơ sở phát huy những kinh nghiệm đó đã có, đồng thời tiếp nhận những thành tựu hiện đại của việc dạy tiếng Việt nói chung và tiếng mẹ đẻ, tiếng phổ thông nói riêng cho từng quốc gia, từng khu vực và trên toàn thế giới. Điều 23 Luật giáo dục đã quy định mục tiêu giáo dục ở Tiểu học: "Giáo dục Tiểu học giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây dựng nhân cách và trách nhiệm công dân chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên Trung học cơ sở". Chính vì thế Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quyết định chính thức đổi mới chương trình giáo dục từ lớp 1 đến lớp 5 quả là vấn đề rất quan trọng vì các kiến thức được tích hợp, tinh giản chú trọng nhiều đến khả năng giao tiếp của học sinh. Chương trình Sách giáo khoa Tiếng Việt 2 gồm các bài học thuộc 6 phân môn: Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập viết, Tập làm văn. Trong các phân môn nói trên, Tập làm văn là phân môn có nhiều đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học. Khi thực hiện chương trình mới, tôi thấy tâm đắc nhất là phân môn "Tập làm văn" mà tôi đang trực tiếp giảng dạy. Vì phân môn Tập làm văn có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc hoàn thiện và nâng cao các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt, đặc biệt là kỹ năng sản sinh văn học (văn bản nói và văn bản viết) cho học sinh Tiểu học. Như vậy, nói rằng phân môn Tập làm văn góp phần to lớn trong việc hiện đại hoá mục tiêu quan trọng bậc nhất của việc dạy và học Tiếng Việt ở Tiểu học là hình thành, phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt để học tập trong nhà trường và giao tiếp một cách đúng đắn, tự nhiên, tự tin trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Là giáo viên dạy lớp nên tôi rất quan tâm đến việc giúp các em tự tin học tốt phân môn Tập làm văn. Chính vì thế mà tôi chọn nghiên cứu và thực nghiệm đề tài “Một số kinh nghiệm dạy tốt phân môn Tập làm văn lớp 2”. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Thông qua sáng kiến kinh nghiệm này, nhằm: - Hình thành và phát triển cho học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (như nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. - Trau dồi thái độ ứng xử có văn hóa, tinh thần trách nhiệm trong công việc, bồi dưỡng tình cảm lành mạnh, tốt đẹp thông qua nội dung bài dạy. - Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt góp phần rèn luyện các thao tác tư duy, từ đó giúp học sinh chiếm lĩnh các kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. - Góp phần nâng cao chất lượng dạy phân môn Tập làm văn. III. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1. Cơ sở lý luận: Điều kiện kinh tế - xã hội đã có những thay đổi quan trọng, nhiều thành tựu đổi mới của các ngành khoa học đã xuất hiện những điều kiện đòi hỏi phải xây dựng lại chương trình môn Tiếng Việt. Bước vào thế kỷ XXI, thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đây là một quá trình lâu dài, gian khổ, phức tạp, từ đây trên thế giới cũng như đất nước ta bắt đầu đặt ra nhiều vấn đề mới như kinh tế, tri thức, sự phát triển của công nghệ thông tin, hội nhập vào nền kinh tế - văn hóa của thế giới. Học sinh nắm được chương trình mới đạt được kết quả tốt là vấn đề nan giải vì chương trình cũ Tập làm văn đưa ra kiến thức có sẵn, học sinh dựa vào kiến thức đã đưa ra để học sinh điền vào, hoạt động tích cực của học sinh còn rất ít, học sinh chưa có sự sáng tạo trong học tập, giao tiếp nghi thức tối thiểu như: chào hỏi, lời động viên, an ủi là rất xa lạ đối với trẻ. Khi khách đến nhà, học sinh chưa biết có lời chào như thế nào, khi bố mẹ bảo "Con chào bác đi!" con trẻ chỉ đáp lại với lời chào chưa gãy gọn, ngượng ngùng. Lời cảm ơn, xin lỗi đối với trẻ là rất viễn vông. Nhưng đối với chương trình mới tôi rất hài lòng và hứng thú, học sinh nắm được nghi thức sử dụng chúng trong mọi tình huống giao tiếp ở gia đình, trong trường học và nơi công cộng. Qua đó bồi dưỡng và hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chính vì thế trong hệ thống giáo dục quốc dân Tiểu học là bậc học có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ngày nay với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, bậc Tiểu học đã coi trọng và đầu tư rất nhiều cả về cơ sở vật chất, đồ dùng dạy học, con người, trang thiết bị và sách giáo khoa, tài liệu giảng dạy. Bậc Tiểu học được coi là bậc nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân. Chất lượng này phụ thuộc rất nhiều vào kết quả đào tạo ở Tiểu học. Người giáo viên Tiểu học phải chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên, đồng thời có trách nhiệm xây dựng một nền móng dân trí tối thiểu cho cả dân tộc thực hiện tốt Luật giáo dục phổ cập Tiểu học và các mục tiêu chương trình đề ra. Phân môn Tập làm văn có tính chất thực hành, toàn diện, tổng hợp và sáng tạo, sử dụng toàn bộ các kỹ năng được hình thành và phát triển do nhiều phân môn khác của môn Tiếng Việt đảm nhiệm (kỹ năng đọc, nghe nói, viết chữ, viết chính tả, dùng từ đặt câu..). Tập làm văn còn đòi hỏi học sinh huy động với kiến thức nhiều mặt (Từ hiểu biết về cuộc sống đến tri thức về văn học, khoa học thường thức...) có liên quan đến đề bài. Bài Tập làm văn là sản phẩm tổng hợp của vốn sống, vốn văn học, năng lực tư duy, năng lực giao tiếp, sự thành thạo trong việc sử dụng ngôn ngữ, sự sáng tạo của cá nhân học sinh. Qua bài Tập làm văn (kết quả học tập phân môn Tập làm văn) ta sẽ thấy được trình độ sử dụng Tiếng Việt, những tri thức và hiểu biết về cuộc sống của học sinh. Là môn học công cụ, phân môn Tập làm văn lớp 2 giúp cho học sinh nắm vững đơn vị tri thức cơ bản của khoa học Việt ngữ. Trên cơ sở hình thành kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết đạt đến trình độ đúng, tạo điều kiện học sinh nắm được tri thức khoa học mới. Vì vậy, dạy học sinh tiếp thu được chương trình mới, kiến thức Tập làm văn là góp phần không nhỏ vào việc hình thành mục tiêu giáo dục và đào tạo. 2. Cơ sở thực tiễn: Năm học 2011 – 2012, tôi được phân công chủ nhiệm lớp 2/1 trường Tiểu học Minh Hòa – Dầu Tiếng – Bình Dương. Lớp 2/1 do tôi chủ nhiệm có tổng số là 37 học sinh trong đó có 21 học sinh nữ. Trong năm học, tôi có những thuận lợi và gặp những khó khăn như sau: * Thuận lợi: - Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường và các cấp chính quyền địa phương. - Là giáo viên giảng dạy nhiều năm nên có nhiều kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm. - Được đào tạo chuẩn hoá về chuyên môn. - Được sự giúp đỡ của đồng chí, đồng nghiệp trong công tác giảng dạy. - Cơ sở vật chất cũng như đồ dùng dạy học cũng được nhà trường trang bị tương đối đầy đủ phục vụ cho việc dạy và học. - Sách vở và đồ dùng học tập của học sinh được phụ huynh mua sắm đầy đủ. * Khó khăn: - Học sinh trường tiểu học Minh Hòa - Dầu Tiếng - Bình Dương thuộc vùng sâu, vùng xa của huyện Dầu Tiếng ít nhiều còn khó khăn về điều kiện học tập. - Phụ huynh đa số là nông dân ít có điều kiện quan tâm đến việc học tập sinh hoạt của con em. - Môi trường sống ở vùng sâu, xa ít nhiều ảnh hưởng đến quá trình tiếp thu kiến thức của trẻ . - Là lớp đầu cấp (sau lớp 1) nên các em còn hạn chế khả năng giao tiếp, ngôn ngữ còn hạn hẹp về vốn từ. B. PHẦN THỨ HAI GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý KHI DẠY PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN 1.Về phía học sinh: * Học sinh thường lười đọc sách báo hoặc tìm tòi sưu tầm những tài liệu phục vụ cho kiến thức có liên quan đến môn học dẫn đến nghèo vốn từ, nghèo vốn sống để có thể đưa bài văn vào viết. * Thiếu sự quan tâm, hỗ trợ động viên của phụ huynh. * Học sinh chỉ quan tâm đến những sở thích không phục vụ cho môn học như: đọc sách báo, truyện tranh nhảm nhí, chơi điện tử, xem phim ảnh không phù hợp với lứa tuổi nên vốn văn học rất hạn chế. 2/ Về phía giáo viên: Giáo viên còn lúng túng khi vận dụng phương pháp dạy Tập Làm Văn: Lập dàn bài rập khuôn dẫn đến bài làm của học sinh giống nhau về ý tưởng, nội dung. Chưa rèn cho học sinh có thói quen đọc các bài văn mẫu, văn hay từ đó rút ra ý hay, tai hại thay một số giáo viên cho học sinh thuộc những bài văn mẫu điều đó đã làm mất đi sự sáng tạo và óc tưởng tượng phong phú của học sinh. Giáo viên chưa linh động sáng tạo khi tổ chức các giờ dạy trên lớp, hình thức tổ chức dạy học đơn điệu: giáo viên hỏi - học sinh trả lời, chỉ những em khá giỏi mới có thể tham gia trả lời còn những học sinh trung bình hoặc yếu thì cảm thấy lo sợ nếu bị gọi đến tên! Từ đó, học sinh cảm thấy nhàm chán, mất hứng thú học tập. Chưa xử lí kịp thời, chính xác các phát sinh dẫn đến tình trạng giáo viên đánh giá chưa đúng ý kiến của học sinh. Trên đây là những tồn tại mà tôi thường thấy ở nhiều giáo viên khi dạy Tập làm văn. Thế thì làm thế nào để khắc phục hiện trạng trên. Bản thân tôi sau nhiều lần thực nghiệm tại lớp mình và nhân rộng ở một số lớp khác đã thấy rất khả thi. II. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN 1/ Đối với giáo viên; a. .Dạy học sinh nắm bắt được kiến thức được tốt, tôi cần tìm hiểu kỹ nội dung chương trình: Lớp 2: Số tiết: 1 tiết/tuần; cả năm 31 bài, 31 tiết. Nội dung: - Thực hành về một số kỹ năng phục vụ học tập và đời sống hằng ngày, như: viết tự thuật, lập danh sách tổ, lập mục lục, lập thời gian biểu, gọi điện, viết nhắt tin, bưu thiếp... - Thực hành về các nghi thức lời nói tối thiểu, như: Học sinh được học cách chào hỏi, tự giới thiệu, cảm ơn, xin lỗi, khẳng định, phủ định, mời, nhờ, đềnghị, chia vui, chia buồn, an ủi, thể hiện sự đồng ý, không đồng ý, ngạc nhiên, thán phục, cáp đáp lại lời chào, lời tự giới thiệu , lời cảm ơn, xin lỗi.. qua các hình thức đọc thoại và hội thoại trong các tình huống giao tiếp đơn giản trong gia đình, trường học. - Thực hành, rèn luyện về kỹ năng diễn đạt ( nói, viết ), như: kể về người thân trong gia đình, sự vật hay sự việc được chứng kiến, tả sơ lược về người, vật xung quanh theo gợi ý bằng tranh hoặc câu hỏi… - Thực hành rèn luyện về kỹ năng nghe: dựa vào câu hỏi gợi ý để kể lại hoặc nêu được ý chính của mẫu chuyện ngắn đã nghe. b. Để thực hiện tốt những nội dung chương trình phân môn Tập làm văn lớp 2, tôi đã thực hiện như sau: Người giáo viên có vai trò rất quan trọng và ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với học sinh vì họ là những người chủ đạo tổ chức các hoạt động học tập của học sinh, chính vì thế bản thân người giáo viên cần phải : - Luôn học hỏi đồng nghiệp và tự học để nâng cao trình độ bản thân và nâng cao tay nghề. - Phải đầu tư thật kĩ bài dạy trước khi lên lớp. - Phải hết sức nhạy bén và ứng xử kịp thời các tình huống phát sinh khi giảng dạy bằng cách chú ý lắng nghe ý kiến của học sinh khi các em phát biểu để tìm ra ưu khuyết điểm chính của các em, sau đó nhận xét sửa chữa, góp ý đánh giá. - Giáo viên cũng cần rèn cho học sinh kĩ năng nhận xét bài của bạn để từ đó nhận biết được những chỗ hay hoặc chưa hay trong làm bài của mình.. Điều này vừa động viên được những em làm bài hay, vừa khơi dậy cho học sinh những ý tưởng, sáng tạo mới. Học sinh cảm thấy có thêm nguồn động lực để thi đua học tập, để bài của mình được cô và các bạn đọc trước lớp. Bên cạnh đó những hạn chế trong bài làm của học sinh, giáo viên cũng cần tế nhị khi nhận xét. Tuyệt đối không dùng những câu đại loại: ý nghèo nàn quá, bài chưa đủ ý, bài yếu hoặc em không có chuẩn bị bài sao... Điều đó sẽ làm cho em như bị dội gáo nước lạnh vào mặt. Người giáo viên cần thận trọng, trước tiên cần tìm cho bằng được những ưu điểm trong bài làm của học sinh dù chỉ nhỏ nhoi để tuyên dương trước lớp rồi từ từ cho các em chỉnh sửa, bổ sung cho câu văn hay hơn, hoàn chỉnh hơn. Người giáo viên cần thay đổi nhiều hình thức học tập để tạo cơ hội cho nhiều học sinh cùng được tham gia trình bày ý kiến của mình, như: Tổ chức học chung toàn lớp; Tổ chức học theo nhóm (tổ chức lớp thành viên nhiều nhóm, các nhóm cùng đóng vai, trao đổi bàn bạc để thực hiện nội dung bài học); Tổ chức để từng cá nhân làm việc độc lập nhằm thực hiện nhiệm vụ học tập. * Ví dụ: Ông em (hoặc bà em) bị mệt. Em hãy nói với ông (hoặc bà) 2-3 câu để tỏ rõ sự quan tâm của mình. (Bài tập 1 tiết Tập làm văn - tuần 11) SGK Tiếng Việt lớp 2 trang 94. Hoạt động 1: Hướng dẫn học sinh nắm yêu cầu của bài tập, định hướng cho học sinh giao tiếp. Giáo viên dùng câu hỏi: Bài tập yêu cầu làm gì? nói gì? nói với ai, nói với hình ảnh nào? Nói để làm gì? Thái độ, tình cảm của các nhân vật khi nói với nhau như thế nào? Hoạt động 2: Hướng dẫn mẫu: Giáo viên hướng dẫn, tổ chức cho một học sinh nói thử. Hoạt động 3: Hướng dẫn, tổ chức cho học sinh nói. Căn cứ tình huống giao tiếp được đặt ra trong đề bài. Giáo viên tổ chức cho nói theo hướng. Chia lớp thành các nhóm nhỏ để luyện tập. Mỗi nhóm nhỏ hoạt động dưới hình thức trò chơi sắm vai (1 em đóng vai bà, 1 em đóng vai cháu). Trong khi học sinh thực hành: Giờ học tạo không khí hào hứng, tôn trọng học sinh, kích thích học sinh muốn nói, mạnh dạn nói bằng những lời động viên khen ngợi. - Sử dụng câu hỏi gợi mở để dẫn dắt học sinh nói khi các em gặp khó khăn. - Chú trọng rèn học sinh diễn đạt đúng, đủ, rõ ý bằng lời văn tự nhiên, chân thành, giàu cảm xúc. Khi học sinh diễn đạt cần phải thể hiện nét mặt, ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ... để làm tăng sức biểu cảm của lời nói. - Định hướng cho học sinh khác nghe và nhận xét kết quả trình bày của bạn về nội dung nói, về cách thể hiện nội dung đó để học sinh thấy rõ ưu khuyết điểm. Hoạt động 4: Tổ chức nhận xét, rút kinh nghiệm. Từng bạn đã đóng góp đúng vai chưa: các câu nói của vai bạn đã đúng nghi thức lời nói chưa? (mở đầu, kết thúc cuộc gặp, cách trò chuyện, cách xưng hô...). - Nội dung lời nói đã thực hiện đúng yêu cầu và đạt mục đích đề ra chưa? - Cách dùng từ ngữ, diễn đạt ngữ điệu, thể hiện được nét mặt, ánh mắt chỗ nào cần học và cần sửa. Qua đó giáo viên nhấn mạnh những nghi thức lời nói cần thực hiện (với đề bài trên là nghi thức lời nói khi chia buồn, an ủi). - Khi chấm bài giáo viên cũng cần có sự nhận xét cụ thể về những lỗi sai của HS để định hướng cho HS khắc phục trong lần sau. - Nên tập cho các em có thói quen học tập các ý hay các đoạn văn hay hoặc từ bài làm của bạn, từ sách báo tham khảo và tạo thói quen ghi chép lại trong sổ tay văn học của mình. - Phân môn Tập làm văn có tính tổng hợp (đòi hỏi học sinh phải bộc lộ cả năng lực tư duy, năng lực giao tiếp, năng lực Tiếng Việt lẫn khả năng cảm thụ, thái độ, cảm xúc cá nhân) phân môn Tập làm văn hơn bất kỳ một phân môn nào khác đặt lên hàng đầu yêu cầu phát huy tính chủ động, sáng tạo, bản lĩnh, cá nhân của học sinh. Do đó, dạy Tập làm văn phải tích cực hoá được hoạt động học tập của học sinh, phải tạo điều kiện để học sinh chủ động, tự do thể hiện cái "tôi" của mình một cách rõ ràng, bộc bạch cái riêng của mình một cách trọn vẹn. 2. Đối với học sinh: - Hết sức chú ý nghe giảng, có sự chuẩn bị bài trước khi đến lớp. - Cụ thể hoá những ý nghĩ chung của bạn thành ý riêng của mình bằng cách tự lập một hệ thống dàn bài riêng của mình phù hợp với yêu cầu của chủ đề. - Mạnh dạn, tự tin phát biểu ý kiến để các bạn xây dựng cho mình. - Tập cho mình có thói quen đọc sách báo hàng ngày để cập nhật thông tin bổ sung cho bài làm của mình thêm sâu sắc hơn. Tuyệt đối tránh máy móc rập khuôn theo bài mẫu. III . GIÁO ÁN MẪU Sau đây tôi xin trình bày một giáo án cụ thể để các đồng chí cùng tham khảo: Tập làm văn (Tuần 15): Chia vui. Kể về anh, chị, em. (Giáo dục bảo vệ mội trường- Giáo dục kỹ năng sống ) I. Mục tiêu: 1 - Rèn kỹ năng nghe và nói: -Biết nói lời chia vui (chúc mừng) hợp tình huống giao tiếp (BT1, BT2); Biết được những tình cảm đẹp đẽ trong gia đình. 2 - Rèn kỹ năng viết: - Viết được đoạn văn ngắn kể về anh, chị, em .(BT3); Hiểu được tình cảm tốt đẹp trong gia đình; Thể hiện sự cảm thông, xác định giá trị, tự nhận thức về bản thân. - Có ý thức trân trọng tình cảm anh chị em trong gia đình. II. Chuẩn bị - GV: Tranh minh họa bài tập 1, một bó hoa. Bảng phụ, bút dạ. Một số tình huống để HS nói lời chia vui. III. Các hoạt động dạy học: Hoạt động của Giáo viên 1. Khởi động : Hoạt động của Học sinh - Hát 2. Bài cũ : Quan sát tranh – Trả lời câu hỏi.. Viết nhắn tin. -Gọi HS đọc bài tập 2 của mình. -3 HS đọc tin nhắn . -Nhận xét, ghi điểm từng HS. -Bạn nhận xét. 3. Bài mới a. Khám phá: -Khi ai đó gặp chuyện buồn, chúng ta phải làm - Nói lời chia buồn hay an ủi. gì? -Vậy khi người khác hạnh phúc, chúng ta sẽ nói gì? Bài học hôm nay sẽ giúp các em biết điều đó. b. Kết nối: Bài 1 -Treo bức tranh và hỏi bức tranh vẽ cảnh gì? - Bé trai ôm hoa tặng chị. -Gọi 1 HS đọc yêu cầu. - Bạn Nam chúc mừng chị Liên được giải nhì trong kì thi học sinh giỏi của tỉnh. Hãy nhắc lại lời của Nam. - Đạt giải nhì trong kì thi học -Chị Liên có niềm vui gì? sinh giỏi của tỉnh. - Nam cũng thấy rất là vui. -Khi chị Liên vui , Nam cũng cảm thấy như thế nào? -Nam chúc mừng chị Liên như thế nào? - Tặng hoa và nói: Em chúc mừng chị. Chúc chị sang năm được giải nhất. - Em sẽ thấy rất là vui, em -Nếu là em trong trường hợp của Nam, em có cũng sẽ chúc mừng chị của mình như bạn Nam. cảm nghĩ như thế nào? Kết luận: Chị em trong gia đình phải biết thương yêu, cảm thông, chia sẻ với nhau những buồn vui trong cuộc sống. Bài 2: - Gọi HS đọc yêu cầu bài - 3 đến 5 HS nhắc lại. -Nếu là em, em sẽ nói gì với chị Liên để chúc - HS nói lời của mình. mừng chị. - Em xin chúc mừng chị./ Chúc chị học giỏi hơn nữa./ Mong chị đạt thành tích cao hơn./ Em rất khâm phục chị./ - HS thực hành sắm vai theo cặp nói lời chúc mừng chị - Tổ chức cho HS thực hành sắm vai theo cặp. Liên. -HS thể hiện. -Nhận xét. -Nhận xét. - Hãy viết từ 3 đến 4 câu kể Bài 3 -Gọi 1 HS đọc yêu cầu. về anh, chị, em ruột (hoặc anh, chị, em họ) của em. - HS thực hiện kể về anh, chị, em của mình cho các bạn -GV nhận xét. cùng nghe. - Phải biết thương yêu, đoàn kết, cảm thông, chia sẻ với nhau những buồn vui trong - Anh, chị, em trong gia đình phải có tình cảm cuộc sống. như thế nào? - 2 dãy HS thi đua thực hiện. - Em rất yêu bé Nam năm nay hai tuổi. Môi bé Nam đỏ -Yêu cầu HS tự làm. - Gọi HS đọc. hồng, da trắng. Nam luôn tươi cười ngộ nghĩnh. Em rất yêu bé Nam. - Anh trai em tên là Minh. Anh Minh cao và gầy. Năm nay anh học lớp 4 Trường Tiểu học Ngô Thì Nhậm. Anh Nam học rất giỏi. Em rất yêu thương anh trai của mình. Tổ chức cho HS thực hành - Chấm điểm 3 – 5 vở của HS. theo nhóm đôi. -Nhận xét. - Từng nhóm HS thể hiện sắm vai theo tình huống trên. c.Thực hành - Nhận xét. - Yêu cầu HS nói lời chia vui trong một số tình huống sau: - Em sẽ nói gì khi bbạn đạt thành tích cao trong học tập? - Khi bạn em được cô giáo khen? -Nhận xét. Hoạt động nối tiếp: - Nhận xét tiết học. - Chuẩn bị bài sau. IV. KẾT QUẢ Trong năm học vừa qua, khi vận dụng những phương pháp trên vào giảng dạy cho học sinh, tôi nhận thấy rất khả quan khi dạy phân môn này. Thành tích học tập của các em cao hơn, chất lượng hơn và học sinh học tập cũng tích cực hơn. Bảng thống kê dưới đây đã chứng minh được điều đó: Điểm Thời gian Tổng số Giỏi Khá học sinh (9 – 10) (7 – 8) Trung bình (5 – 6) Dưới Trung bình (1 - 4) Đầu năm 37 3 11 19 3 Giữa HKI 37 16 10 10 1 Cuối HKI 37 20 11 6 0 Qua thời gian thực học, giáo viên và học sinh đã được rèn giũa và thực hành qua các tiết dạy Tập làm văn. Tôi thấy kết quả đạt được rất khả quan, học sinh tự làm bài tập, tự chiếm lĩnh tri thức qua hình thức tổ chức dạy học của giáo viên, các em làm việc rất hào hứng, thành thạo với mỗi bài, mức độ yêu cầu khác nhau. Tôi đã nắm được vấn đề cơ bản của chương trình về nội dung đổi mới phương pháp, kiến thức, kỹ năng trong giảng dạy phân môn Tập làm văn. Chính vì thế kết quả học tập của các em không ngừng đi lên. Tôi hy vọng với một chút kinh nghiệm nhỏ bé này sẽ phần nào giúp cho đồng nghiệp gỡ rối trong công tác giảng dạy của mình (nhất là với phân môn Tập làm văn). C. PHẦN THỨ BA I . BÀI HỌC KINH NGHIỆM. Muốn đạt kết quả cao trong quá trình giảng dạy phân môn Tập làm văn lớp 2 nói riêng và phân môn Tập làm văn các lớp khác nói chung không phải là khó song cũng không đơn giản một chút nào. Trong quá trình đó, tôi đã rút ra được một vài kinh nghiệm để dạy tốt phân môn Tập làm văn như sau: - Giáo viên cần đặc biệt chú ý sử dụng phối hợp tốt phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với trình độ học sinh, phù hợp với yêu cầu từng loại bài sao cho tiết học được tổ chức thành chuỗi hoạt động sôi nổi, nhẹ nhàng, nhằm lôi cuốn học sinh tham gia thực hành luyện tập các kỹ năng. - Giáo viên luôn học hỏi các đồng chí đồng nghiệp, đọc thêm tài liệu để nâng cao chất lượng dạy và học theo phương pháp đổi mới. - Người giáo viên phải là người mẫu mực trong mọi giao tiếp, cử chỉ... là tiếng nói chuẩn mực để học sinh học tập. - Thường xuyên trao đổi phụ huynh để thông báo và cùng bàn bạc khắc phục những nhược điểm của học sinh. - Tập trung đầu tư nghiên cứu soạn giảng các tiết dạy, áp dụng những sáng kiến kinh ngiệm của đồng chí, đồng nghiệp vào bài dạy, sử dụng các tài liệu, đồ dùng dạy học phù hợp, sinh động nhằm kích thích học sinh học tập. - Tạo mối quan hệ giữa thầy và trò, quan tâm, yêu thương, gần gũi với các em, hiểu biết về tâm sinh lý trẻ, tận tình giúp đỡ, hướng dẫn các em nhằm tạo động lực giúp các em hoàn thành mục tiêu của bài học (nhất là học sinh yếu kém). - Dạy học phân môn Tập làm văn nên lồng ghép, tích hợp với các môn học khác để mở rộng thế giới kiến thức cho học sinh và vừa có tính ôn tập vừa cung cấp thêm cho các em vốn kiến thức để hỗ trợ đắc lực cho phân môn Tập làm văn. II. Ý KIẾN ĐỀ XUẤT Năm học 2011– 2012 là năm thứ mười áp dụng chương trình Tiểu học 2000. * Đối với cấp trên: - Tổ chức nhiều chuyên đề “Đổi mới phương pháp dạy học” hơn nữa cho các lớp giáo viên cùng học tập. - Khuyến khích giáo viên sử dụng giáo án điện tử trong quá trình giảng dạy. - Trang bị thêm một số tài liệu tham khảo cho giáo viên và học sinh. - Nhà trường cùng địa phương tạo điều kiện cơ sở vật chất cho các em học tập tốt hơn. * Đối với giáo viên : - Thường xuyên tìm tòi học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp, nghiên cứu các tài liệu, sách giáo khoa… để nâng cao tay nghề. - Thường xuyên kiểm tra đánh giá việc đọc của học sinh và ghi nhận kết quả học tậo của các em dù là một tiến bộ rất nhỏ. * Đối và phụ huynh: - Mua đủ sách giáo khoa cho các em, động viên khuyến khích cho các em đọc thêm truyện, sách, báo… - Thường xuyên quan tâm tới việc học ở học của các em. Tải về bản full Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt phân môn tập làm vănI. Đặt vấn đề:Nội dung Tập làm văn lớp 2 cung cấp cho học sinh (HS) các kĩ năng nói, viết, nghe, phục vụ cho học tập và giao tiếp. Ngoài các dạng bài dạy về các nghi thức lời nói tối thiểu, về một số kĩ năng phục vụ học tập và đời sống hằng ngày, phân môn Tập làm văn lớp 2 còn rèn cho HS kĩ năng diễn đạt và kĩ năng nghe. Ở lớp Một, thông qua môn Tiếng Việt học âm, vần, HS được luyện nói từng câu ngắn, đã được tập kể lại câu chuyện. Tuy nhiên, do vốn từ của các em còn ít nên việc diễn đạt còn rất hạn chế. Thực tế đến đầu năm lớp 2 hầu hết HS chỉ nói được những câu ngắn, trả lời chưa đủ ý, diễn đạt còn rời rạc. Do đó, nhiệm vụ của giáo viên lớp 2 là tiếp tục rèn kĩ năng diễn đạt cho các em. Chính vì mục tiêu đó, tôi chọn đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt phân môn Tập làm văn dạng bài kể ngắn” . II. Cở sở lý luận:Phân môn Tập làm văn lớp 2 dạy cho HS nắm được các nghi thức lời nói tối thiểu, như: chào hỏi, tự giới thiệu, …; nắm được một số kĩ năng phục vụ học tập và đời sống hằng ngày; kể một sự việc đơn giản, tả sơ lược về người, vật xung quanh theo gợi ý bằng tranh, bằng câu hỏi; nghe – hiểu được ý kiến của bạn. Các bài tập làm văn thường gồm 2 dạng chính: nói – kể và viết. Nhưng bao giờ dạng bài tập nói – kể cũng được thực hiện trước rồi mới đến dạng viết. Ví dụ: Bài tập 1: Kể về ông, bà (hoặc một người thân) của em. Bài tập 2: Dựa theo lời kể ở bài tập 1, hãy viết một đoạn văn ngắn (từ 3 đến 5 câu) kể về ông, bà hoặc một người thân của em. Như vậy, ở lớp 2 kĩ năng cần giúp các em rèn luyện trước tiên chính là nói – kể ngắn. III. Cở sở thực tiễn:Qua một tháng dạy học đầu tiên, tôi nhận thấy kĩ năng diễn đạt của HS còn rất hạn chế. Điều này cũng dễ hiểu bởi vì vốn từ của các em còn nghèo, cơ hội để các em rèn luyện còn ít. Mục tiêu của môn Tiếng Việt lớp 2 là tiếp tục rèn luyện cho HS bốn kĩ năng, trong đó có kĩ năng nói – kể ngắn. Thông qua dạy học, các em được rèn luyện kĩ năng nói. Đặc biệt phân môn Kể chuyện và Tập làm văn rèn cho các em diễn đạt trôi chảy, kĩ năng gắn kết các câu nói với nhau. Trong chương trình Tập làm văn lớp 2, dạng bài kể ngắn gần như được học trọn trong học kì I, đến cuối học kì II các em chỉ học thêm có 2 tiết. Qua các bài “kể ngắn”, các em sẽ được trau dồi kĩ năng diễn đạt. IV. Nội dung nghiên cứu: Các biện pháp giúp HS học tốt dạng bài “kể ngắn”Biện pháp 1: Lập nội dung chương trình giảng dạy Tập làm văn dạng bài ” kể ngắn” Chương trình Tập làm văn lớp 2 gồm ba dạng bài cơ bản: Dạng bài luyện tập về nghi thức lời nói tối thiểu; dạng bài luyện tập các kĩ năng phục vụ học tập và đời sống hằng ngày và dạng bài kể ngắn. Ba dạng bài này có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Bài tập của dạng bài này ngoài tác dụng rèn luyện kĩ năng cho chính dạng bài đó còn có tác dụng hỗ trợ cho dạng bài khác. Ví dụ: Bài 1 (tuần 1): Tự giới thiệu – Câu và bài. Bài này ngoài việc rèn luyện kĩ năng về nghi thức lời nói (tự giới thiệu) còn có tác dụng hỗ trợ cho việc rèn luyện kĩ năng nói, kể. Chẳng hạn bài tập 2: Nghe các bạn trong lớp trả lời các câu hỏi ở bài tập 1, nói lại những điều em biết về một bạn. Hay bài tập 3: Kể lại nội dung mỗi tranh dưới đây bằng 1, 2 câu để tạo thành một câu chuyện.Để tiện việc nghiên cứu, soạn bài và chuẩn bị tốt cho các tiết dạy dạng bài kể ngắn, tôi lập nội dung chương trình như sau:
Biện pháp 2: Lập mạng từ then chốt để dạy tốt phân môn Tập làm văn dạng bài “kể ngắn”. Chúng ta biết rằng tư duy trừu tượng của học sinh lớp 2 còn rất hạn chế. Việc yêu cầu học sinh kể ngay một sự việc nào đó dù là ngắn cũng rất khó khăn với các em. Bởi vì vốn từ của các em còn hạn chế và nhất là việc sắp xếp ý. Vận dụng chuyên đề phân môn Kể chuyện của Phòng Giáo dục và Đào tạo Đông Hà, tôi tổ chức cho học sinh lập mạng từ chốt để phục vụ cho việc kể ngắn. Ví dụ: Dạy bài Kể về gia đình em Cuối tiết tập làm văn trước, tôi dặn dò học sinh về nhà dựa vào câu hỏi gợi ý lập mạng từ chốt (khoảng 4 – 5 từ). Trong tuần, trước khi học tập làm văn, tôi thường xuyên kiểm tra và nhắc nhở việc lập mạng từ chốt của học sinh. (kèm phụ lục 1 các mạng từ chốt của học sinh) Ngoài việc tổ chức học sinh lập mạng từ chốt, tôi cũng lập một mạng từ chốt và ghi vào bảng phụ để chuẩn bị cho tiết dạy. Ví dụ: Mạng từ chốt dạy bài Kể về gia đình: 5 người Ông nội, Cha, mẹ, chị và em; Nông dân, cần cù, vui tính, học giỏi; Yêu quý, tự hào. Đến giờ tập làm văn, tôi cho các em cầm mạng từ chốt để kể. Đối với học sinh khá giỏi tôi khuyến khích các em thoát ly mạng từ chốt để kể tự nhiên hơn. Đối với học sinh yếu, không lập được mạnh từ chốt, tôi cho các em nhìn vào mạng từ chốt của giáo viên để kể. Để đánh giá hiệu quả của biện pháp này, tôi tổ chức một tiết thao giảng và mời giáo viên trong tổ dự giờ , góp ý.Bài dạy: Kể về người thân (kèm phụ lục 2 bài soạn và phiếu dự giờ, biên bản nhận xét, đánh giá tiết dạy)Qua tiết dạy, giáo viên nhận xét biện pháp đạt hiệu quả tốt và đồng tình vận dụng vào thực tế dạy học. Biện pháp 3: Dạy học tốt các bài “Trả lời câu hỏi”, “Tập nói”, … để làm nền cho HS kể ngắn tốt. Kiến thức – kĩ năng Tập làm văn lớp 2 được sắp xếp từ dễ đến khó một cách hợp lý. Đầu lớp 2, các em được thực hiện các bài tập “Trả lời câu hỏi” (Tuần 1, tuần 5, tuần 8, tuần 14), bài tập “Nói lại – nhắc lại” (Tuần 1, tuần 2), sau đó nâng lên một bước HS được làm các bài tập “Sắp xếp lại thứ tự các tranh và dựa theo nội dung các tranh để kể lại câu chuyện”, “Sắp xếp lại các câu cho đúng thứ tự của truyện …”. Do đó để giúp HS kể tốt, tôi tổ chức các biện pháp để giúp các em thực hiện tốt các bài tập trên. Ngoài việc yêu cầu HS trả lời đúng nội dung, tôi yêu cầu các em phải trả lời đủ câu. Ví dụ: Bài Tập làm văn tuần 5. Câu hỏi: Bạn trai đang vẽ ở đâu? Trả lời: Đang vẽ ở trên tường. (câu cụt) Trả lời đầy đủ: Bạn trai đang vẽ ở trên tường. Tôi yêu cầu các em phải trả lời lại cho đủ thành phần của câu. Thực hiện nhiều lần như thế, kết quả các em có thói quen trả lời đủ câu. Đây cũng là cơ sở để các em kể chuyện tốt. ......... Mời các bạn tải file tài liệu để xem thêm nội dung chi tiết |